[Ngữ văn 9] Phân tích bài thơ ánh trăng

Q

quocdat_138

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

PHÂN TÍCH BÀI THƠ ÁNH TRĂNG

Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.

Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặïc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấâu thơ mà khó có thể quên được. Cũng chính nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên cũa tác giả.Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã tho tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trởø thành “tri kỉ” của người lính trong nhưng năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phài làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con gười ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc người lính phải đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đóan biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những qunh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đới. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nới có “sông” và có “bể” .Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và ngững giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủù khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nũa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.

“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
 
  • Like
Reactions: thaithithanhngan
C

congchualolem_b

bài này là bn làm hay tìm trên mạng vậy, bài văn phân tích kĩ , sâu và có đủ ý chính đó
 
S

seagirl_41119

bạn ấy lấy trên mạng đấy.minhf từng đọc bài này oy hay sao ấy,thấy wen wen!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!Nhưng rất đáng để tham khảo và đọc
 
C

congchuangoc

các bạn tìm quyển:"Văn lớp 9 không khó như bạn nghĩ về đọc" trong đó nhiều chỗ phân tích hay lắm
 
L

lykem_1997

"Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương."

Giữa miền đất xa lạ , dẫu vẫn nằm trên đất nước Trung Hoa. Song Lý Bạch vẫn cảm thấy cô đơn , nhìn vầng trăng sáng nhớ đến quê hương mình . Vị thi tiên như muốn níu lấy chút gì thân quen để sưởi ấm tâm hồn người lữ khách.
Cũng từ vầng trăng duy nhất trên đời ấy , bao thi nhân đã tìm được cảm hứng cho riêng mình. Bạn chớ có hỏi tại sao cũng chỉ ánh trăng đó thôi , mà con người có thể nhìn thấy nhiều điều khác nhau đến vậy.Với bài thơ "Trăng sáng " , tiếng thơ Nguyễn Duy như thủ thỉ tâm tình kể lại cho người đọc nghe về người bạn thân quen , người đã cùng đi suốt cuộc hành trình tuổi ấu thơ đến lúc trưởng thành của tác giả

"Hồi nhỏ sống ở đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỷ."

Trải qua bao thăng trầm của thời gian , hình ảnh vầng trăng như đã là điều gì không thể thiếu , gắn bó , giao cảm với lòng người. Đã bao lâu rồi vầng trăng -ánh sáng huyền diệu kia níu chân khách bộ hành? Đã bao lâu rồi ánh trăng làm mê đắm tâm hồn thi nhân , đến nỗi nhà thơ đánh rơi tim mình vào vầng trăng lẻ bóng?

"Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa."

..."Ngỡ không bao giờ quên..." Câu thơ như ngập chìm trong nuối tiếc chơi vơi , mạch cảm xúc kia vẫn tiếp tục xuôi theo dòng chảy mãi như mạch ngầm ký ức đã bị bỏ quên nơi cuối trời xa lạ:

"Từ ngày về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường."

Lời thơ như nghèn nghẹn , như đã bị ghìm nén , như tác giả đang muốn ghìm giữ , như bung ra những dao động rất thực trong hồn. Nhà thơ viết dòng thơ thản nhiên , song vì sao ngôn từ vẫn xót xa là thế? Sức hấp dẫn của bài thơ có lẽ là vậy ! Chỉ có tấm lòng mới đủ sức níu kéo những tấm lòng. Nhà thơ Vũ Quần Phương từng nói :" Chất thơ tinh tế chỉ đậu hờ vào chữ , tay phàm nhúng vào dễ bay mất , nói chi mổ xẻ với phân tích."

Những dư âm -kỷ niệm về ánh trăng hẳn sẽ trôi qua nếu bất ngờ từ dòng thơ sau không được gợi mở :

"Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn."

Cuộc hội ngộ tình cờ như đánh thức điều gì sâu tận tâm hồn người bạn cũ , để nỗi niềm chan chứa trải dọc cả câu thơ :

"Ngửa mặt nhìn lên trời
Có cái gì rưng rưng?
Như là đồng là bể ,
Như là sông là rừng..."

"Ngửa mặt "-hành động ấy không chỉ là hành động ngắm trăng. Dường như Nguyễn Duy muốn nhìn thật lâu gương mặt người bạn tri kỷ năm xưa sau một thời gian dài không gặp gỡ , như muốn khắc sâu hình bóng kẻ tri âm dạo nào vào tiềm thức . Nửa như để tìm lại - nửa như không muốn quên đi. Lương tâm thi nhân bỗng lên tiếng về sự lãng quên của mình , những ăn năn không bật được thành lời đã khiến dòng thơ như dài thêm vì day dứt khôn nguôi :

"Trăng cứ tròn vằnh vạch
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình."

Cái "giật mình " đáng trân trọng và đầy ý nghĩa khép lại bài thơ trong muôn trùng suy tưởng từ người đọc. Vầng trăng kia lặng im không nói , không oán trách , vầng trăng cứ lặng lẽ tròn mà khiến hồn người sực tỉnh và trở về với chính mình , tìm lại những dấu yêu xa xưa đã bỏ quên vào dĩ vãng. Xin bạn đừng hỏi rằng nếu như không vì mất điện liệu nhà thơ có thể có được sự thức tỉnh giữa phồn hoa đô hội và nhận thấy một ánh trăng tri kỷ hay không? Bởi lẽ vầng trăng trước khi ta được sinh ra cũng cứ khuyết lại tròn , khi ta tồn tại hay sau này trở thành cát bụi trăng vẫn cứ tròn lại khuyết vật thôi. Thế mà cái điều hiển nhiên , có tính quy luật ấy lại khiến tác giả " giật mình " ...

Những điều tưởng chừng như phi lý khi đưa vào tâm trạng con người để giải thích bỗng trở thành có nghĩa. Ánh trăng như đã xuyên suốt cả bài thơ , bổng trầm trải dọc theo chiều sâu cảm xúc nơi Nguyễn Duy : lúc lắng chìm , khi trăn trở , phút suy tư...

Bạn có thấy không? Giữa nhịp sống ồn ào , dòng đời cuộn chảy ;Vẫn còn trong trẻo trên cao -vầng trăng tròn vành vạch ; Vẫn còn vương vấn đâu đây ánh sáng trong mát , nhẹ nhàng , im lắng trong tâm hồn của mỗi chúng ta...

Có thể nói Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu là hai cây bút tiêu biểu cho văn học Việt Nam từ năm 1954 đến nay. Mỗi tác phẩm của họ đều để lại những dấu ấn sâu sắc, những âm vang dậy lên trong ta sự xúc động chân thành.
Có thể nói Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu là hai cây bút tiêu biểu cho văn học Việt Nam từ năm 1954 đến nay. Mỗi tác phẩm của họ đều để lại những dấu ấn sâu sắc, những âm vang dậy lên trong ta sự xúc động chân thành.
Trong văn học thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu đã rất thành công trong cảm hứng ngợi ca đất nước và nhân dân anh hùng. Từ sau năm 1975 đến nay, đất nước từng bước chuyển mình để đi đến sự đổi mới toàn diện.
Trên cái nền hiện thực ấy, Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu đã hướng ngòi bút của mình vào các vấn đề có tính chân thực cao về đời sống xã hội. Một trong những đề tài được quan tâm là sự tự thức tỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện vẻ đẹp nhân cách.

Đọc tác phẩm “Ánh Trăng” của Nguyễn Duy và “Bến Quê” của Nguyễn Minh Châu, ta cảm nhận sâu sắc bài học làm người mà mỗi tác giả đã gửi gắm trong hành trình tìm về nguồn cội và cuộc đấu tranh tự vấn lương tâm để thức tỉnh chính mình.
Đôi khi giữa cuộc sống phồn hoa đô hội, con người với đầy đủ những tiện nghi sinh hoạt hiện đại, sang trọng, bị cuốn hút bởi nhiều thú vui mới lạ, hấp dẫn dễ đánh mất đi những gì đẹp đẽ thân thương của quá khứ mà đáng lẽ phải trân trọng nâng niu, yêu quý. Ta đã bắt gặp điều ấy qua “Ánh Trăng”. Bài thơ đã đạt giải A trong cuộc thi thơ do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. “Ánh Trăng” là lời nhắc nhủ về những tháng năm gian lao mà anh dũng, nghèo khổ mà nồng ấm tình thương cuả cuộc đời người chiến sĩ gắn bó với thiên nhiên, với con người bình dị, hiền hậu, Nguyễn Duy đã gợi nhớ một miền ký ức thẳm sâu:

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”

Dù sống ở “đồng”, ở “sông” hay ở “bể” ở “rừng” thì đi đâu nhân vật trử tình “Ta” cũng có “Trăng” bầu bạn. Quan hệ giữa Vầng Trăng – Ta là quan hệ tri kỉ. Không gian “Đồng” “Sông” “Biển” “Rừng” gợi nhớ quá khứ gian khổ. Ở đó Vầng Trăng đã trở thành máu thịt của Ta:

“Ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”

Từ Vầng Trăng Tri kỉ đến Vầng Trăng Tình nghĩa là quá trình gắn bó sâu nặng khẳng định một tình cảm vững bền tưởng như không bao giờ thay đổi. Thế nhưng, “người ta định rồi chẳng bao giờ người ta làm được” (lão Hạc – Nam Cao).
Nhân vật trữ tình trong Ánh Trăng đã như thế!

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
Vầng Trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”

Từ Vầng Trăng Tri kỉ, Vầng Trăng Tình nghĩa nay đã biến thành Vầng Trăng người dưng! Qủa là một sự thay đổi không thể lường trước. Một sự phản bội?

Điều gì đã làm nên sự phản bội đáng xấu hổ ấy? Phải chăng là sự đổi thay về môi trường sống: Từ miền gian khổ thiếu thốn, khó khăn về nơi đầy đủ, sung sướng? từ giữa thiên nhiên mộc mạc chân chất.

“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây ảo”

Về với “Ánh điện cửa gương:…? phải chăng “có mới, nới cũ”? Lối sống mới, cuộc sống mới với bao nhiêu cái mới đã làm cho Ta quên đi Ánh Trăng quá khứ, đúng là sự tự cắt bỏ đi một phần máu thịt của chính mình! Thế nhưng, “cuộc đời vốn đa sự, con người vốn đa đoan” chỉ đến khi trong cuộc sống gặp trắc trở khó khăn thì Ta mới có dịp để nhìn lại chính mình:

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”

Chính trong lúc khó khăn ấy của cuộc sống, Vầng Trăng, lại đột ngột xuất hiện trọn vẹn, thủy chung. Đối diện với “trăng tròn vành vạnh” là sự đối diện với sự vẹn tròn chân thật, yêu thương và ấm áp. Đối diện với lòng độ lượng, khoan dung của quá khứ ân tình, ân nghĩa Ta chợt thấy giật mình:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”

Nhân vât trữ tình trong bài thơ “giật mình” hay chính Ta cũng phải giật mình. Hãy cảnh tỉnh mình khi chưa quá muộn!
Bài thơ như một lời tự sự của chính tác giả, như một lời tự sự của chính mỗi chúng ta, nhắc nhở ta về thái độ sống “uống nước, nhớ nguồn”, thủy chung cùng quá khứ.

Cũng là một bài học làm người, Nguyễn Minh Châu qua tác phẩm “Bến Quê” để lại trong ta những trăn trở, những suy ngẫm sâu xa mang tính triết lý.

“Bến Quê” được đánh giá là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn đổi mới nền văn học. Có nhà văn cho rằng, ông là người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất.
Bài học làm người ta bắt gặp trong “Bến Quê” được gởi gắm qua nhân vật trữ tình – tư tưởng: nhân vật Nhĩ với nhiều nghịch lí trong cuộc đời.
 
L

lykem_1997

Nhĩ là con người từng trải, có địa vị, đi rộng, biết nhiều. Bao cảnh đẹp chốn gần xa, của ngon vật lạ trên thế giới anh đều được thưởng thức: “Suốt cả đời Nhĩ đã từng đi không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”. Thế mà những cảnh vật gần gũi nơi bến quê: “Cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông Hồng đang phô ra trước khuôn cửa sổ gian gác nhà Nhĩ như một thứ vàng thau xen lẫn màu xanh non. Những màu sắc thân thuộc quá như da thịt như hơi thở của đất mỡ màu” thì mãi cuối cuộc đời khi bị cột chặt trên giường bệnh Nhĩ mới nhận ra! Cũng như lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên – vợ anh mặc tấm áo vá! Hình ảnh người vợ tảo tần giàu đức hy sinh làm Nhĩ thật sự cảm động. Đó là tiếng lòng, tiếng đau thương mà không phải lúc nào anh cũng nghe cũng cảm được. Đến bây giờ Nhĩ mới khám phá ra vẻ đẹp của bến quê ư! Đến bây giờ Nhĩ mới thấy Liên mặt áo vá ư! Tại sao vậy? Phải chăng vì quá mãi mê khám phá những gì xa xôi mới mẻ mà anh đã bỏ quên đi điều gần gũi thân thương và rất đỗi thiêng liêng!

Khát vọng cuối cùng của Nhĩ lúc biết mình sắp từ giả cõi đời là muốn đặt chân lên mảnh đất ở bãi bồi bên kia sông, nơi ấy có bến quê của anh Nhĩ… Anh không thể tự mình làm được điều đó. Bởi vì “nhấc mình ra được bên ngoài phiến nệm nằm, anh tưởng mình như vừa bay được nửa vòng trái đất”. Anh đã phải cậy nhờ Tuấn – con trai anh làm điều ấy. Tuấn là sinh viên học tại một trường đại học ở tận một thành phố phía Nam đã miễn cưỡng nhận lời cha. Thế nhưng, lời cầu xin tha thiết và thái độ khẩn khoản của người cha ốm đau tội nghiệp đã bị anh bỏ quên ngay sau đó. Anh đã rơi vào trận chơi phá cờ thế trên vỉa hè và để lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày về bãi bồi phía bên kia, để lỡ mất cơ hội duy nhất thực hiện ước nguyện của người cha đáng kính!

“Suốt đời Nhĩ cũng từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật không dứt ra được. Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày. Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi được những cái điều vòng vèo hoặc chùng mình, vả lại, nó đã thấy có gì hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều kiện riêng anh khám phá thấy như một niềm say mê pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết”. Những suy nghĩ mang tính trải nghiệm của Nhĩ làm cho ta cảm thấy day dứt trăn trở! Làm sao để thoát khỏi “cái điều vòng vèo chùng chình” trong cuộc sống? Trong cuộc đời? Bởi vì chính cái điều vòng vèo chùng chình ấy mà Nhĩ đã đau đớn ân hận vào giờ phút cuối cuộc đời! Và Tuấn – con trai anh rồi sẽ đau đớn ân hận bên linh cữu của cha! Và cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có thể như thế!

Bài học làm người mà Nguyễn Minh Châu gửi gắm trong “Bến Quê” thật là sâu sắc!

“Ánh Trăng” và “Bến Quê” – hai tác phẩm với hai thể loại khác nhau nhưng cả hai là bài học quý giá cho mỗi chúng ta. Mắc-xim-gor-ki đã từng nói: “Văn học là nhân học”. Học văn là học về con người, học cách làm người!

Cám ơn Nguyễn Duy, cám ơn Nguyễn Minh Châu bằng văn học nghệ thuật đã cho ta bài học đạo lý làm người. Đó là hành trang sống của mỗi chúng ta để ta vững bước trên đường đời. Đúng là: “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẻ cho ta đường đi mà nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng ta, khiến ta phải tự bước lên con đường ấy.
 
H

hocnuavamai

Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặïc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảng tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấâu thơ mà khó có thể quên được. Cũng chính nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên cũa tác giả.Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã tho tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trởø thành “tri kỉ” của người lính trong nhưng năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phài làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người.
Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con gười ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc ngươi lính phải đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đóan biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những qunh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đới. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đókhiến cho người lính áy náydù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nới có “sông” và có “bể” .Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và ngững giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủù khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nũa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.


_________________
Có một định mệnh biến chúng ta thành anh em: Không ai đi đường một mình, tất cả những gì ta gửi vào cuộc đời của người khác sẽ quay trở về cuộc đời của ta
 
M

muangau.trang

"Cát trắng'' và ''Ánh trăng'' là hai tập thơ của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Tre Việt Nam " Hơi ấm ô rơm", " ánh trăng" là những tập thơ nổi tiếng của Nguyễn Duy. Bài thơ được trích trong tập thơ cùng tên, sáng tác vào năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh, 3 năm sau ngày miền nam hoàn toàn giải phóng. Bài thơ như lời tâm sự trân thành của tác giả, vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên mà nó còn gắn với tuổi thơ, với những ngày gian khổ.
Vầng trăng của tuổi thơ trải rộng trên một khoảng không gian bao la :
'' Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể...''
Hai câu thơ 10 tiếng giêo vần lưng (đồng-sông); từ ''với'' được lặp lại 3 lần nhằm diễn ta lại tuổi thơ hạnh phúc, cảm nhận những vẻ đẹp của thiên nhiên, từng bước ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể. Tuổi thơ của chúng ta dể có mấy ai được cai cơ may như nhà thơ? Thuở bé nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng chỉ đc ngắm trăng nơi sân nhà ''ông trăng tròn sáng tỏ. Soi rỏ sân nhà em'', ''chỉ có trăng sáng tỏ. Soi rõ sân nhà em'' (trăng sánh sân nhà em)
Tuổi thơ đc ngắm trăng thích thế, như 1 chút hoài niệm xa vời. Hai câu thơ tiếp theo nói về thời máu lửa, trăng với người lính, trăng đã thành ''tri kỉ''.
'' Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ ''
''Tri kỉ'' biết người như biết mình, bạn tri kỉ là người bạn rất thân, hiểu biết mình. Trăng với người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn ''tri kỉ''. Người hiến sỉ nằm ngủ dưới trăng ''gối khuya ngon giấc đêm song trăng nhòm''(Hồ Chí Minh). Giữa rừng khuya sương muối, người chiến sĩ đứng chờ giặc tới '' đầu súng trăng treo''(Chính Hữu). Nẻo đường hành quân của người chiến sĩ nhiều đêm đã trở thành '' Nẻo đường trăng dát vàng''. Trăng đã chia sẽ ngọt bùi, hân hoantrong niềm vui thắng trận với người lính tiền phương. Đất nước trải qua những năm dài máu lửa, trăng với anh bộ đội đã vượt lên mọi bom đạn tàn phá của quân thù:
'' Và vầng trăng, vầng trăng đất nước.
Vượt qua quầng lửa, mọc lên cao.''
(Phạm Tiến Duật)
Các tác nhân ngày xưa thường'đăng lâu vọng nguyệt'và anh bộ đội cụ Hồ một thời trận mạc cũng nhiều phen đứng trên đồi cao, hành quân vượt núi cũng say sưa ngắm vầng trăng cao nguyên. Thật là thú vị khi gặp vầng thơ Nguyễn Duy vì nó đã mở ra trong lòng mọi người một trường kiên tưởng:
''Hồi chiến tranh ở rùng
Vầng trăng thành tri kỉ''
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở của tác giả về năm tháng đã qua của người lính gắn bó với thiên nhiên,đất nước.Với âm điệu bài thơ liền mạch ''trần trụi-thiên nhiên-hồn nhiên''. Biện pháp ẩn dụ, so sánh làm nổi bật tính chất hồn nhiên của người lính:
''Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ''
Vầng trăng là biểu tượng đẹp của người lính, ngỡ như không bao giờ quên. Một ý thơ đã thức tỉnh lương tâm của những kẻ vô tình từ nơi rừng sâu đên thành phố...Và ''Vầng trăng tri kỉ'', ''Vầng trăng tình nghĩa'' đã bị lãng quên. Cách so sánh đã làm nhiều người chột dạ, cho việc nhân hóa như một con người. Chất trữ tình của thơ ca trở nên sâu lắng, chân thành:
''Từ hồi về thành phố
quen ánh điện của gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dâng qua đường''
Cuộc đời có nhiều biến động ly kỳ và hấp dẫn ''Cuộc sống thành thị'', nhà thơ sử dụng bốn câu thơ với các từ ngữ ''thình lình'', ''vội'', ''đột ngột'' để gợi tả cảm xúc. Có nhà triết học nói:''Cuộc đời dạy ta nhiều hơn trang sách''.
''Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn''
Trăng tròn, đẹp, thủy chung với tất cả mọi người. Người ngắm trăng rồi suy ngẫm bâng khuâng:
''Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng''
Với một cái nhìn đầy áy náy,xót xa. Hai chữ ''mặt'' trong vần thơ là mặt người cùng đối diện nhau. Bao kỉ niệm đẹp của một đời người ùa về chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng, với bể, với sông với rừng. Tác giả sử dụng cấu trúc câu thơ song hành, biện pháp tu từ so sánh, điệp từ ''là'' cho ta thấy ngoig bút của Nguyễn Du thật tài hoa. Đoạn thơ hay ở bộc bạch chân thành, tính biểu cảm cao, ngôn ngữ và hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn nói với chúng ta nhẹ nhàng mà thấm thía.
Khổ thơ cuối bài mang hàm nghĩa độc đáo, tư tưởng triết lý:
''Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình''
''Tròn vành vạnh'' lời trăng rằm, ''im phăng phắc'' sự im lặng không một tiếng động nhỏ. ''Kể chi người vô tình'' là biểu hiện của sự bao dung độ lượng. Giọng thơ như một lời tâm tình, đầy trải nghiệm, từ ''giật minh'' được tác giả sử dụng rất khéo léo, kết hợp với nhịp thơ liền mạch, giàu sức biêu cảm, làm toát lên ý nghĩa của toàn bài.
Mục đích của nghệ thuật là tác động đến tâm hồn của con người làm thay đổi con người và xã hội theo hướng tốt đẹo hơn. Bài thơ ''Ánh trăng'' với những đặc sắc riêng biệt về nghệ thuật và nội dung đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Bài thơ hàm chứa trong đó bao nhiêu triết lý về cuộc sống và cả sự thức tình đến toàn xã hội của chúng ta.
Hết
 
M

muangau.trang

Truyện ngắn Bến quê ( in trong tập truyện ngắn cùng tên, xuất bản năm 1985) được xây dựng trên một nghịch lí khác, nghịch lí trong đường đời và cuộc đời của Nhĩ, nhân vật chính. Nhĩ là người đã đi đến không sót một xó xỉnh nào trên trái đất nhưng chẳng may mắc phải một căn bệnh hiểm nghèo buộc phải dán chặt tấm thân trên chiếc phản gỗ và một lần được vợ đỡ ngồi dậy anh chợt nhận ra rằng cái bãi bồi bên kia sông anh chưa đặt chân đến bao giờ. Một nỗi thèm khát kì lạ đã đến với anh: anh muốn chiếm lĩnh cái không gian liền kề này nên đã nhờ Tuấn– đứa con trai học đại học tại một thành phố phía Nam vừa mới nghỉ hè trở về– thay anh đặt bước chân- vật chất thám hiểm bến sông . Anh muốn tận hưởng cái cảm giác “ chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt đất dấp dính phù sa” ấy.



Từ lúc đứa con trai lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang gác, anh hồi hộp, gắng gom góp sức tàn để theo dõi con đò mỗi ngày một chuyến đang chống sào tách khỏi chân bãi bồi bên kia để sang bên này và anh cũng kịp nhận ra rằng , thằng Tuấn con anh đã chậm chân vì nách vẫn kè kè cuốn sách dịch và mải sa vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố. Thời gian được anh tính từng cái tích tắc, thế mà thằng Tuấn có hiểu được anh đâu. Nhưng làm sao hiểu được khi nó chưa đối diện với sự ngắn ngủi nghiệt ngã của thời gian như anh. Anh ‘ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại nó đã thấy có gì đáng gọi là hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Hoạ chăng chỉ có anh là người từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết vẻ giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, bởi lẽ không bao giờ giải thích hết.”

Đường đời của nhân vật Nhĩ quả là đã được đo bằng các đơn vị lớn lao bằng vùng , miền , quốc gia , châu lục, đại dương và nhiệm vụ anh phải đảm nhiệm hẳn là rất quan trọng mang tầm quốc gia , dân tộc. Vậy mà giờ đây, anh phát hiện ra cái không gian trước mắt không quá một tầm nhìn từ cửa sổ nhà anh – chứ không hề là cái không gian vũ trụ trong tư thế “đăng cao , vọng viễn” gì cả, anh cũng không phải là người li hương gần suốt cả cuộc đời như Hạ Tri Chương xưa kia tóc đã điểm sương mới về quê cũ – mà lại xa lạ với cái gần gũi đến mức tự trách sao mình chưa đặt chân đến đó bao giờ. Trong tâm lí nhân vật, đây không phải là trạng thái nặng nề của sự cắn rứt lương tâm vì không có một dòng nào trong truyện phủ nhận những gì anh đã trải qua, đã sống và hiến dâng cho sự nghiệp chung. Đây chỉ là một niềm hối tiếc pha chút ân hận: sao trong những năm tháng trải bước khắp mọi phương trời, ta lại không một lần ngoái về để nhìn ra được vẻ đẹp của những gì thân quen , gần gũi nhất, nơi đã sinh ra ta , nuôi ta lớn thành người và sẽ là nơi ta nằm xuống mãi mãi trong lòng đất mẹ. Đó là bước thức nhận của tâm hồn và trí tuệ trên lộ trình dài dặc quanh co của đường đời .

Con người ấy , giờ đây muốn nằm , muốn ngồi đều cần sự nâng đỡ của vợ, con và những người hàng xóm đầy cảm thông và tốt bụng. Nhân vật đã thực hiện những phép so sánh đầy nghịch lí : “ Vừa nghe Tuấn nện lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang, Nhĩ đã thu hết tàn lực lết dần, lết dần trên chiếc phản gỗ. Nhấc mình ra được bên ngoài phiến nệm nằm, anh tưởng như mình vừa bay được nửa vòng trái đất– trong một chuyến đi công tác ở một nước bên Mĩ La tinh hai năm trước. Anh vẫn chưa nhích đến được bên bậu cửa sổ. Anh phải nhờ bọn trẻ con nhà tầng dưới để đi hết “ nửa vòng trái đất” còn lại– từ mép tấm nệm nằm ra mép tấm phản, khoảng cách ước chừng năm phục phân để dõi nhìn ‘cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo” xem nó có kịp chuyến đò ngang duy nhất trong ngày không?

Cuộc đời Nhĩ, chưa phải là dài nhưng tuyệt đối không quá ngắn . Bằng chứng là thằng Tuấn – đứa con thứ hai của anh đã vào đại học tròn năm nhưng đến bây giờ là lần đầu tiên Nhĩ mới để ý thấy vợ mình – Liên– đang mặc tấm áo vá. Cảm thức mỗi ngày trôi qua với anh thật dài dằng dặc :

“ Hôm nay đã là ngày thứ mấy rồi em nhỉ?”

“ Anh cứ yên tâm. Vất vả , tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được”

Trong cảm thức của anh, thời gian còn lại thật vô cùng ngắn ngủi: “ Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày”. “ Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát– y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó. Giây phút ấy ở Nhĩ còn khẩn cấp hơn cả tiếng gọi đò trên bến vắng My Lăng tự thuở nào: “ Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách/ Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng” ( bến My Lăng – Yến Lan).

Quá trình tâm lí tư tưởng ấy diễn biến trong cái không gian nhỏ hẹp của tấm phản, căn phòng, khung cửa sổ. Bến sông quê cạnh nhà gần gũi thế nhưng sao mà xa cách trong tâm thế phát hiện lần đầu với nỗi vô vọng bất lực của nhân vật. Nó là không gian vi mô hiện lên trước cái nhìn cận cảnh trong sự đối sánh đầy chất đối nghịch với không gian vĩ mô tạo bỡi cái nhìn xa vào những chân trời quá khứ:

“– Anh cứ tập tành và uống thuốc cho đều. Sang tháng mười nhất định anh đi lại được

– Vậy thì đầu hoặc giữa tháng mười một, anh sẽ đi Thành phố Hồ Chí Minh một chuyến

– Đi thành phố Hồ Chí Minh thì chắc chẳng được nhưng anh có thể chống gậy đi trong nhà. Hoặc tiến triển tốt hơn, em có thể đỡ anh men cầu thang bước xuống một bậc…hoặc giả anh lại khoẻ hơn, chúng mình có thể bước xuống hai bậc

– Ừ , tưởng gì…nhất định đầu tháng mười anh sẽ đi ra được đến đầu cầu thang”

Cùng với không gian ấy là sự đối chứng của thời gian thực tại ngắn ngủi– đời thường với thời gian đời người mà Nhĩ đã trải qua. Cái Bến quê được đặt trong tương quan không – thời gian đó. Nó là tất cả những phát hiện ấm áp tình người, tình đời của nhân vật mà cũng là của tác giả trước những gì thân quen nhất , thân yêu nhất, những gì hồn nhiên, gần gũi nhất, những gì là giàu có, đẹp đẽ nhất, thuần phác nhất và cổ sơ nhất của mảnh đất sinh thành ra ta và sẽ nhận ta về khi nhắm mắt xuôi tay.

Bến quê theo ý nghĩa đó là một nhận thức sáng ngời của nhân vật về đường đời và cuộc đời. Nhưng thật oái oăm chính khi anh thức nhận ra được chân lí ấy thì anh lại không còn khả năng để thực hiện. Đó là sự bất lực của thực tiễn trước khát vọng đẹp đẽ lành mạnh như một yêu cầu tất yếu. Người đọc trân trọng Bến quê, trân trọng những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh ở mọi người hãy trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của gia đình của quê hương
 
S

song_ao_pt

Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa cua Bằng Việt có ý nghĩa sâu sắc. Ngoài nghĩa thực, hình ảnh bếp lửa trong bài thơ còn có nghĩa biểu tượng sâu xa. Đó không chỉ là bếp lửa chờn vờn trong sương sớm một bếp lửa được nhóm lên từ đôi bàn tay tần tảo của người bà, ma hình ảnh bếp lửa còn là tình bà ấm nóng. Bếp lửa là sự sống là niềm tin, là hình ảnh thiêng liêng của gia đinh quê hương đất nước bếp lửa la hình ảnh mở đầu và cũng là hình ảnh khép lại bai thơ, trở thành nỗi nhớ da diết khôn nguôi trong tâm hồn nhà thơ Bằng Việt
 
N

nhinlayeu

từ xa xưa đến nay ,trăng luôn là hình ảnh về sự gợi nhớ quê hương ,một hình ảnh bình dị mà thân thương .trăng luôn là đề tài tìm kiếm cho các thi sĩ ,nhạc sĩ.là nguồn cảm xúc trực tiếp giúp ta hình dung được vẻ đẹp huyền ảo , quá khứ đẹp đẽ của tuổi thơ .ÁNH TRĂNG của nguyễn duy cũng vậy ,nó không giống với VỌNG NGUYỆT của hồ chí minh ,mà cũng không giống với ĐÂY THÔN VĨ DẠ của hàn mặc tử. ánh trăng của nguyễn duy như một lời nhắn gởi chân tình với chính mình ,với mọi người về lẽ sống chung thuỷ ,nghĩa tình với thiên nhiên.
bài thơ như một câu chuyện nhỏ kể theo mạch cảm xúc có thật.tác giả đã mở đầu bài thơ bằng quá khứ chôn chặt giữa mình gắn liền với thiên nhiên trong chiến tranh:
hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.
tuổi thơ của tác giả lại được tái hiện bằng những hình ảnh hết sức gần gũi ,giản dị với trẻ em ở nông thôn .sông ,bể,đồng giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp rộng lớn ,bao la ,bát ngát ,mênh mông của vũ trụ .với những năm tháng chiến tranh đầy gian khổ ấy , vầng trăng gắn bó với con người như một người bạn thân thiết đến nỗi được tác giả gọi là đôi bạn tri kỉ.
trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.
câu thơ trong sáng ,ví như đây là cuộc sống tự nhiên không tô vẽ ,mang sự tinh khôi của đất trời ,chính cái hình ảnh nhân hoá ,so sánh đã tô đậm thêm cái trần trụi cái hồn nhiên của người lính cách mạn trong cuộc chiến tranh ở rừng .từ ngỡ đứng trong câu như một lời khẳng định rằng ,sẽ không bao giờ quên cái quá khư tốt đẹp cũng như cái quá khứ nghĩa tình sâu đậm ấy .Nhưng rồi mọi thứ cũng trở nên khác thường khi cái được gọi là hoà bình là hiện đại đến, sau những năm tháng vất vả,khó khăn của chiến tranh mọi thứ dường như thay đồi nhanh chóng:
từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gươm


nơi thành phố nhộn nhịp đông vui , có cửa gươm ,có cả ánh điện thậm trí co thể thay thế cho ánh trăng kia ,ánh trăng tri kỉ ,ánh trăng tình nghĩa mà ngày xưa được cho là ngỡ không bao giồ quên . Hoàn cảnh sống đã biến họ thành những con người ích kỉ ,có mới nới cũ, có thể là nhưng con người không trọng tình nghĩa . bổi nôi đây vật chất sa hoa ,sung túc tiện nghi co lẽ vì thế mà quá khứ bị lãn quên trong những thứ tiện nghi vật chât đó.
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Trăng được con người so sánh như với một người dưng qua đường , khắc hoạ rõ nét lạnh nhạt, thờ ơ của con người trước người bạn xưa ,không chỉ vậy câu thơ cò có ý nghĩa triết lí sâu sa :cuộc sống vật chất ,giàu sang ,phú quý có thể khiến người ta phản bội lại quá khứ ,phả bội lại chính bản thân mình.
thình lình đèn điện tắc
phòng buyn-dinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
một tình huống hết sức bất ngờ , nhưng cũng khá quen thuộc với thành phố .nhưng đủ để làm nhà thơ giật mình mà vội bật tung cửa sổ.một hành động hêt sức vội vàng 'thình lình''đột ngột' .một tình huống diễn ra rất tự nhiên ,chỉ có cái tự nhiên ấy mới giúp con người lại nhìn thấy và nhậ ra đó đó là người bạn tình nghĩa ,đã gắn bó với họ như một người bạn tri kỉ được.phải bất ngờ như zay ,vầng trăng mới có thể làm thức tỉnh được con người.
ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
cái nhìn nhau đối diện giữa mặt người và mặt trăng,đó là khoảng khắc bất ngờ khi gặp lại cố nhân, vơi vẻ thành kính,tập chung giữa người với trăng.cảm xúc bắt đầu dâng trào ,khiến con người rưng rưng không nói nên lời.vầng trăng làm sống dậy lại kí ức về thiên nhiên của quê hương dất nước.bằng những hính ảnh sóng đôi ,so sánh, giúp con người tái hiện lại những hình ảnh của tuổi thơ bao kỉ niệm nghĩa tình của một thời gian chiến đấu một cách sinh động và cụ thể hơn.khổ thơ cuối là nơi tập chung ý nghĩa biểu tượng của vầng trăng nhất:
trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
mặc cho sự vô tình của con người ,trăng vãn tròn vành vạnh,tuy thời gian trôi qua mau ,cái tình bạn giữa người va trăng bị lãn quên nhanh ,nhưng cáii tình cảm giữ người và trăng vẫn không đổ. sự im lặng của trăng thể hiện sự nghiêm khắc lạnh lùng nhưng có sự vị tha ,như muốn nhắc nhở con ngưới không được quên quá khứ.ở câu cuối cùng cái giật mình của con người là cái giật mình hối hận.nhầm hoàn thiện bản thân.vậy qua bài thơ trên tác giả muốn gửi thôn điệp đến với con người :
THÁI ĐỘ SỐNG 'UỐNG NƯỚC NHỐ NGUỒN' VÀ ÂN NGHĨA THUỶ CHUNG CUNG QYAS KHỨ BẠN NHÉ
 
K

kinomotoloveli

Có nhiều tác phẩm vừa mới được ra đời đã bị chết yểu . Có nhiều tác phẩm gây dư luận xôn xoan 1 thời rồi bị độc giả quên lãng cùng thời gian . Nhưng cũng có những bài thơ , truyện ngắn để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc . Và bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy chính là tiêu biểu cho điều đó Tác phẩm ra đời năm 1978 tại thành phố Hồ Chí inh , 3 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng . Bài thơ như 1 lời tâm sự chân thành : Vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước mà nó còn gắn bó với tuổi thơ , với những ngày kháng chiến gian khổ . Vầng trăng đối với mỗi chúng ta không bao giờ có thể quên bởi nó là 1 vật kỷ niệm thiêng liêng , Nó đem lại anh sáng xua tan đêm tối . Nó là tri kỉ . Và khổ thơ đầu hiện lên nhằm khắc họa điều đó Hồi nhỏ sống với đồng Với sống và với bể Hồi chiến tranh ở rừng Vầng trăng thành tri kỉ Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên 1 không giản bao la : với đồng với sông và với bể . Trăng rất gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu . Trăng gần với đồng ruộng găn với sông xanh biển cả . Dù ở đâu đi đâu trăng cũng cạnh bên Nhưng phải đến khi chiến tranh loạn lạc . Rừng trở thành nơi tập kích , trốn trú ngụ khỏi quân thù thì mới nhận ra rằng cái vai trò lớn lao của vầng trăng ấy . Trăng đã soi sáng đường ta đi . Vầng trăng đã thành tri kỉ . Thành đôi bạn không thể thiêu nhau . Trang chia ngọt sẻ bùi trăng đồng cam cộng khổ Trần trụi với thiên nhiên Hồn nhiên như cây cỏ Ngỡ không bao giờ quên Cái vầng trăng tình nghĩa Khổ thơ thứ 2 như 1 lời nhắc nhỏ của tác giả về những năm tháng giang lao đã qua của cuocọ đời người lính gắn bó với thiên nhiên , đất nước , bình dị , hiền hậu . 1 vần lưng đã xuất hiện 1 ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi , chất hồn nhiên người lính những năm tháng ở rừng . Đó là cốt cách của cá anh " trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ " . Trăng có vẻ vô cùng bình dị . 1 vẻ đẹp thấm nhuần chất nhân văn . Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên , trăng đã hóa vào thiên nhiên , hòa vào cây cỏ . Vầng trăng chính là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy , đã trở thành " vầng trăng tri kỉ " " vầng trăng tình nghĩa " ngỡ không bao giờ quên . Ấy thế mà có những thời gian tác giả tự nhủ là mình đã lãng quên cái vầng trăng tình nghĩa đó ... Từ hồi về thành phố Quen anh điện cửa gương Vầng trăng đi qua ngõ Như người dưng qua đường Trước giây tác giả sống gần gũi với thiên nhiên , với sống với bể với rừng . Bây giờ thơi gian dần trôi , môi trương sống thay đổi nên lòng người đã đổi thay . Tác giả đã quen với cái nếp sống " thành phố" ấy . Quen cái " anh điện cửa gương " cũng như đã quen sống trong 1 cuộc sống đầy đủ tiện nghi và vật chất .... Cho nên dần dần cái vầng trăng ngày nào đã bị niềm vui hưởng thụ cuộc sống sung túc che khuất mất . Đúng như vậy vầng trăng tượng trưng cho những tháng năm gian khổ Đó là tình đồng chi được hình thành trong những năm tháng chiến tranh . Nhưng giờ đây hòa bình lập lại lòng người đổi thay là chuyện thường tình . Bởi thế người đời thường nhắc nhau Ngọt bùi nhớ nhé đắng cay Nhưng bây giờ vầng trăng không còn chiếm giữ vị trí nào trong tim tác giả nữa. Bằng biện pháp nhân hóa vầng trăng " vầng trăng đi qua ngõ " làm nỗi bật lên điều đó . Hằng đêm trăng vẫn cứ đi . Vẫn mang chút anh sáng nhỏ nhoi vào bầu trời đêm tối . Vậy mà tác giả đã bị cuộc sống xa hoa làm mờ mắt . Không còn nhớ đến trăng nữa .Giọng thơ như giãi bày tâm sự lúc trước , nhà thơ tự trò chuyện với mình . Chất trữ tình cảu thơ ca trờ nên sâu lắng chân thành . Rồi bất chợt duyên số đến . Tác giả đã gặp lại cái vầng trăng tình nghĩa Thình lình đen điện tắt Phòng buyndinh tối om Vội bật tung cửa sổ Đột ngột vầng trăng tròn Vầng trăng xuất hiện thật bất ngờ , cái khoánh khắc ấy giây phút ấy ... tác giả bàng hoàng trước vẻ đẹp của vầng trăng . Tác giã đã quen với đèn điện cửa gương rồi . Nhưng ko ngờ bây giờ còn gặp lại ánh sáng của vầng trăng . Bào kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm tác giả rưng rưng nứoc mắt Ngữa mặt lên nhin mặt Có cái gì rưng rưng Như là đồng là bể Như là sông là rừng Một cái nhìn đầy áy náy thật xót xa . Trăng chẳng nói chằng trách gi mà sao người lình cảm thấy có cái gì rưng rưng , cảm giác xúc động , nước mắt đang ứa ra . Sắp khóc . Khóc đi để giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản , vững tâm lại , cái tốt lành sẽ hé lộ . Bào kri niệm đẹp 1 đời người ùa về trong tâm tri, tâm hồn gắn bó chan hòa với thiên nhiên với quê hương đất nước . Với câu trúc thơ song hành , điệp từ như, biện pháp tu từ so sánh cho thấy ngòi bút của nguyên du thật tài hòa " như là đồng là bể như là sông là rừng" Đoạn thơ này hay ở chỗ chất bộc bạch thật chân thành , ở tình biểu cảm , ở tính hình tượng và hàm súc , từ ngô ngữ hình ảnh giản dị đi vào lòng người , khắc sâu điều nàh thơ muốn tâm sự với chúng ta 1 cách nhẹ nhànng mà thắm thia Khổ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo , đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí Dù bao nhiêu năm tháng đã trôi qua . Con người sẽ gia đi nhưng vầng trăng là bất tử . Trăng vẫn cứ vậy không chút đổi thay . Trăng cũng giống như trái đất bao la nay . Vầng trăng vẫn cứ tròn , tròn 1 cách tự nhiên , tròn như quả đất " chúng mình " , tròn vành vạnh . Đó chỉ là nghĩa thực . Ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa , những tư tưởng thật thầm nhuầm chất nhân văn . Tác giả đã gởi hàm ý vào câu thơ giản dị , gần gũi ấy . tác giả đã nói lên đức tính cao thượng của vầng trăng . Dù lòng người có đổi thay , dù ai có bạc tình bạc nghĩa , không ghi nhớ đến công lao của vầng trăng " Nhưng vầng trăng sẽ không màng đến , sẽ khoan dung độ lượng bỏ qua tất cả . Theo ta nghĩ quan niệm của vầng trăng và của Lục Vân Tiên cũng có điểm tương đồng : làm ơn há dễ trông người trả ơn Rồi còn như ông ngư nữa Một câu danh lợi chi sờn lòng đây Lục vân tiên từng cứu Kiều Nguyệt Nga khỏi bọn cướp Phong Lai , chàng cướp chỉ vì " thấy chuyện bất bình chẳng tha " chớ không có lợi lộc gì cả. Chàng chỉ là 1 người thư sinh nho nhã vậy mà vẫn không cầm lòng trước truyện bất bình . Ông ngư thì gia cảnh nghèo khổ, khó khăn , vậy mà khi gặp Vân Tiên sa cơ vẫn ra sức cứu giúp , cho dù thân thể vân tiên như " trai mùi trên cây " . Cả 3 hình tượng ấy đều giống nhau . Đều ra sức giúp ích cho đời để cuối cùng không mang lại lợi lộc gì . Nhưng riêng với ánh trăng thi khác . Trăng sẽ mãi mãi chung thủy , không bao giờ đổi thay . Du lòng người thây đổi thì trăng vẫn vây . Trăng sẽ không chấp người vô tình , sẽ im phăng phắc ... hành động đó , cử chỉ đó là 1 nghĩa cử cao đẹp . Nó sẽ là tấm gương sáng để thế hệ trẻ noi theo . Nhưng chính điều đó đã làm cho người lính từng quên đi vầng trăng đó, từng sa cơ vào lối sống phồn hoa nơi đô thị , từng quên 1 thời gắn bó chia ngọt sẻ bùi phải " giật mình " . Giật mình vì tính chung thủy của vầng trăng , giật mình vì sự khoan dung độ lượng . Chắc hẳn người lính trẻ này sẽ có 1 bài học quý giá về đạo lí làm người . Luôn luôn ghi nhớ công ơn người đi trước và nhưng người làm ơn với mình . " ăn quả nhớ kẻ trồng cây " " uông nước nhớ nguồn " . Chình là những câu tục ngữ đúc kết từ nhiều kinh nghiệm sống ấy Ánh trăng của Nguyễn Duy là 1 thể thơ hay . Nguyễn Duy thật tài tình khi vận dụng thể thơ 5 chữ 1 cách sáng tạo tài hoa . Nếu như trong bài thơ " Tre Việt Nam " cau thơ lục bát có khi đưựoc tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng mấy thì trong bài thơ này lại có 1 nét mới . Chữ đầu của dòng thơ câu thơ không viết hoa . Phải chăng nhà thơ muốn cho cảm xúc được dạt dào trôi theo dòng chảy của thơi gian kỉ niệm . Phải chăng tác giả muôn đền đáp lỗi lầm của mình đối với vầng trăng quá khổ cuối của bài....Nguồn: sưu tầm
 
D

dinhthupc

Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy

Nguyễn Duy là nhà thơ trường thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Những sáng tác của ông đi vào lòng người đọc bởi sự nhẹ nhàng, gần gũi, mộc mạc của ngôn ngữ qua bài thơ “Hơi ấm ổ rơm”, “Tre Việt Nam”. Bài thơ “Ánh trăng” được rút ra từ tập thơ cùng tên, sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh đã khiến người đọc có cách nhìn nhận chân thực và sâu sắc hơn về cuộc sống, về quá khứ qua hình ảnh trung tâm “ánh trăng”.

Ánh trăng là hình ảnh xuyên suốt 4 khổ thơ, xâu chuỗi các dòng hoài niệm và suy nghĩ của một đời người về hiện tại và quá khứ. Có thể nói Nguyễn Duy đã rất tinh tế để xây dựng thành công hình tượng “vô tri vô giác” nhưng có sức mạnh đánh thức và lay động trái tim.

Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh ánh trăng thân thuộc, gần gũi, gắn với những kỉ niệm đẹp gắn bó với tuổi thơ, với năm tháng chiến tranh ác liệt:

Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỉ.

Có thể nói hình ảnh “ánh trăng” đã thành biểu tượng xuyên suốt tuổi thơ của tác giả, gắn bó với những kỉ niệm khó quên. Ánh trăng tinh khiết, dịu nhẹ lan tỏa từ cánh đồng mênh mông, từ dòng sông bến nước – nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi chúng ta.

Đến những năm tháng “hồi chiến tranh ở rừng” gian khổ, vất vả, ánh trăng từ kí ức tuổi thơ ấy đã thành “tri kỉ”, thành người bạn đồng hành, người bạn tâm tình đáng mến, thủy chung, son sắt. Có thể nói Nguyễn Duy đã rất khéo, rất tinh tế khi nhân hóa ánh trăng thành một người bạn tri kỉ của những anh bộ đội cụ hồ. Sự gắn bó quấn quýt, tình cảm chân thành và trong sáng giữa anh bộ đội và anh trăng thật đáng ngưỡng mộ.

Hai dấu mốc thờ gian “hồi nhỏ” và “hồi chiến tranh” đã khiến cho ánh trăng trở nên gần gũi và nghĩa tình ở khổ thơ tiếp:

Trần trụi giữa thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa

Dù là ở đâu thì “ánh trăng” vẫn vẹn nguyên, gần gũi, phóng khoáng khiến cho tác giả có cảm giác “không bao giờ quên”, nhưng đó chỉ là “ngỡ” thôi. Vầng trăng tình nghĩa, chung thủy luôn là hình nhắc nhắc nhở tác giả không được phép quên đi.

Nhưng chính từ “ngỡ” ấy chính là dấu hiệu cho một sự rạn nứt, quên lãng ở khổ thơ tiếp theo

Từ hồi về thành phố

Quen đèn điện của gương

Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường

Cuộc sống đô thị phồn hoa với đèn điện, cửa gương, với tiện nghi đầy đủ đã khiến cho tác giả quên mất đi người bạn tri kỉ ngày xưa đó. Ở hai câu thơ sau của khổ thơ này, giọng thơ chùng xuống khiến người đọc nghèn nghẹn. Và đặc biệt cách dùng từ “người dưng” đã gợi lên cảm giác xót xa đến tột độ. Từng là bạn tri kỉ, từng là “người” ngỡ như không quên, nhưng giờ đây tác giả vô tâm, vô tình, hờ hững xem như kẻ qua đường, không hơn không kém. Phép so sánh đấy đã khiến cho tứ thơ xoáy sâu vào lòng người nhiều nuối tiếc, day dứt, xót xa cho một sự thay đổi.
Xem đầy đủ hơn:http://thuvienvanmau.com/phan-tich-bai-tho-anh-trang-cua-nguyen-duy.html
 
Top Bottom