Thế kỷ XIX là thời ký lịch sử “đau thương nhưng vĩ đại” của dân tộc ta . Ở Thế kỷ ấy , có một nhà thơ mù nhưng tròng lòng sáng như gương ,người đã thấy kết những gì mà bao nhiêu người mắt sáng không nhận ra .Người đó là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu .Và, trong văn học Việt Nam ,cho đến Nguyễn Đình Chiểu ,chưa có một hình tượng nhân dân nào chân thực và cảm động hơn người nghĩa sĩ tử trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông.
Hỡi ôi !
Súng giặc đất rền lòng dân trời tỏ
Khi tổ quốc lâm nguy khắp đất nước rền vang tiếng súng. Chính sự từ gian nguy đau thương đó tình yêu đất nước của những người nông dân bình thường mới được thể hiện vẻ đẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được thể hiện bày tỏ cùng trời đất.
Tấm lòng tình yêu giang sơn tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được thể hiện một cach rõ rệt và sâu sắc hơn khi tác giả đã liên tục dùng biện pháp so sánh đối lập trong các câu văn tiếp theo :
Nhớ linh xưa
cui cút làm ăn toan lo nghèo khó
chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung
chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ
việc cuốc việc cày việc bừa việc cấy tay vốn quen làm
tập khiên tập súng tập mác tập cờ mắt chưa từng ngó
Trước ho là những người bình thường Bản tính hiền lành ,chất phác ,quanh năm suốt tháng “côi cút làm ăn ,toan lo nghèo khó” .Bên trong luỹ tre làng, họ “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”,thành thục với nghề nông trang: Việc cuốc cầy ,việc bừa ,việc cấy , tay vốn làm quen. Họ chưa biết đến “cung ngựa trường nhung” chưa quen với “tập mác tập cờ”. Những người nghĩa sĩ ở đây là những nông dân áo vải, chưa quen chiến trận chưa được luyện rèn chỉ vì lòng yêu chính ghét tà mà đứng lên đánh giặc
Lòng yêu nước không độc quyền của ai .Huống chi ,với những người nông dân chân chất ,khi “mùi tinh chiến vấy vá đã ba năm” thì họ “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ” .vì thế ,dù là trong tay chỉ còn một tầm vông ,họ đã sẵn sàng xả thân vì nghĩa cả:
Hoả mai đánh bằng rơm con cúi , cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay,cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc nhằn quan quản gióng trống kỳ ,trống giục , đạp rào lướt tới ,coi giặc như không;nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ , đạn to ,xô cửa xông vào ,liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang ,người chém ngựơc ,làm cho mã tà ,ma ní hồn kinh;bọn hè trước ,lũ ó sau ,trối kệ tàu thiếc ,tàu đồng đung nổ.
Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức .Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tựgiác đúng lên ,không có ai tổ chức,chẳng có binh thư ,binh pháp .còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản ,có quy mô , quy củ.Họ thất thế khi xing trận mà ngoài cật có một manh áo vải ,trong tay cầm ngon tầm vông ,còn kẻ thù lại có tàu sắt tàu đồng , đạn nhỏ , đạn to.Song chí căm thù ,lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ tàu thiếc,tàu đồng súng nổ ,liều mình như chẳng có ai.Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động ấy. Nhưng nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đó:
Một giấc sa trường rằng chữ hạnh ,nào hay da ngựa bọc thây;trăm năm âm phủ ấy chữ quy,nào đợi gươm hùm trao mộ.
Những nghĩa sĩ nông dân trở thành “những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang”.Hình tượng người nghĩa sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam đã mang hình dáng đầy bi tráng.Nó như một tượng đài sừng sững tạc vào không gian lẫn với thời gian để nói với muôn đời rằng:Thác mà trả nước non rồi nợ ,danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ ,tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Với tư tưởng yêu nước, thương dân sâu sắc, những bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu lúc đương thời đã kích động rất nhiều nhân dân miền Nam đứng lên đánh giặc cứu nước . Ngày nay, đọc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ta vẫn như được thấy hình ảnh người bộ đội nông dân trong cách mạng, trong kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như trong cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống giặc Mĩ xâm lược để giành độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc.