[Ngữ văn 10] phân tích Đại cáo bình ngô !!!

Status
Không mở trả lời sau này.
M

meo_beo

Bài này dài lém .. h mà ngồi làm thì còn lâu .
Bài này phân tích theo bố cục là chủ yếu . Chắc bài này trên lớp cũng dc học rồi nên dựa vào hướng dẫn của giáo viên đã cho ghj . Có đoạn thì là tinh thần yêu nước , có cái là cảm hứng văn học , có đoạn laj ca ngợi tài năng và đức độ của Vua Quang Trung . Nói chung về phần phân tích hok quá phức tạp , bạn chỉ cần dựa vào những j` dàn ý đã được học và bài thơ là được .
ý nghĩa thì NT đã đem đến cho lịch sử dân tộc bản Tuyên ngôn độc lập đầy ý nghĩa . Bài thơ hok những đã nói được nổi thống khổ của người dân trong 1 thời kì lịch sử mà còn nói lên được lòng yêu nước nồng nàn , căm thù giặc ngoại xâm và ý chí chiến đấu của quân dân Đại Việt . Ngoài ra , đó còn là 1 áng " thiên cô hùng văn " ( bài ca hùng tráng của muôn đời ) . Qua đó ta còn thấy được tài năng và đức độ của Vua QT và NGuyễn Trãi . Vì bài thơ đã kết hợp hài hòa giữa cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo đến mức kỳ diệu mà chưa 1 tác phẩm văn học chính luận nào đạt tới :D

Khj phân tích tác phẩm , bạn có thể lấy dẫn chứng và so sánh với 1 số bài đã được học như : Nam quốc sơn hà ,...
 
K

kitrea

chẳng bít có giúp được bạn ko.
Binh ngo dai cao,Văn kiện lịch sử đồng thời là tác phẩm văn học theo thể văn biền ngẫu, do Nguyễn Trãi viết năm 1428, sau đại thắng quân Minh ,được các thế hệ sĩ phu đánh giá là một áng "thiên cổ hùng văn" có một không hai trong lịch sử dân tộc. "BNĐC" trình bày tóm tắt lịch sử mười năm kháng chiến gian khổ, những thành tích của cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn, tổng kết kinh nghiệm cuộc chiến tranh chống Minh, rút ra những bài học về đường lối đánh giặc cứu nước, có giá trị lâu dài cho sự nghiệp bảo vệ nền độc lập tự chủ. Đặc điểm lớn nhất của "BNĐC" là hơn bao giờ hết, ý thức quốc gia độc lập và lòng tự hào dân tộc được đề cao. Ngọn cờ "nhân nghĩa" cứu nước cứu dân, dựa vào dân mà cứu nước là nguồn gốc sâu xa của chiến thắng vĩ đại. "BNĐC" đã nêu bật sách lược kiên trì chiến đấu, lấy ít thắng nhiều, đánh vào quân địch đồng thời đánh vào lòng người, làm tan rã ý chí bán nước, cầu vinh của nguỵ quân, giải thích cho quan quân giặc nhận thấy tính chất phi nghĩa và sự thất bại tất yếu của cuộc xâm lược. "BNĐC" truyền đạt những tư tưởng quân sự, chính trị và triết lí của dân tộc Việt nam. Lời lẽ chính xác, cô đúc, chứa đựng nhiều hình tượng gợi cảm, vừa là văn chương chính luận, vừa là văn chương trữ tình. Được xem là tuyên ngôn độc lập lần thứ hai trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
“Bình Ngô đại cáo” thắm đậm tư tưởng nhân nghĩa, là cội nguồn sức mạnh của cuộc kháng chiến.
 
K

kitrea

Nhân nghĩa là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử. Mục đích của nhân nghĩa đã được khẳng định là “cốt để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hoà bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc ,đau thương.

“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trứơc lo trừ bạo”

Nhân nghĩa là tinh thần vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước,cứu dân. Muốn yên dân thì khi có giặc ngoại xâm trước tiên phải đứng lên chống giặc “trước lo trừ bạo”.

Nhân nghĩa gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
“ Nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác”

là niềm tự hào dân tộc "…hào kiệt đời nào cũng có”, là truyền thống yêu chính trực, ghét gian tà, căm thù sâu sắc bọn giặc cướp nước, bán nước:
“Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây vạ
 
K

kitrea

Nhân nghĩa là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử. Mục đích của nhân nghĩa đã được khẳng định là “cốt để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hoà bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc ,đau thương.

“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trứơc lo trừ bạo”

Nhân nghĩa là tinh thần vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước,cứu dân. Muốn yên dân thì khi có giặc ngoại xâm trước tiên phải đứng lên chống giặc “trước lo trừ bạo”.

Nhân nghĩa gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
“ Nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác”

là niềm tự hào dân tộc "…hào kiệt đời nào cũng có”, là truyền thống yêu chính trực, ghét gian tà, căm thù sâu sắc bọn giặc cướp nước, bán nước:
“Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây vạ
 
K

kitrea

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”

Nhân nghĩa còn là sự chia sẻ, cảm thông với nổi khổ của người dân mất nước:
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc
….
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”

Nhân nghĩa là cội nguồn của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công , không nhân nghĩa thì thất bại. Bọn giặc Minh xâm lược đã:
“Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh, kết oán trãi hai mươi năm
Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời”

Họ không có nhân nghĩa vì vậy cho nên phải chịu cảnh “ thây chết đầy đường” “máu trôi đỏ nước” “ nhơ để ngàn năm”

Nhân nghĩa làm nên sức mạnh, vì nhân nghĩa quân ta đã:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông”

Quân ta chiến thắng vì đã:
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”
 
K

kitrea

Kỷ niệm 580 năm công bố “BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO” ( 2-1428 - 2- 2008)

Binh ngo dai cao,Văn kiện lịch sử đồng thời là tác phẩm văn học theo thể văn biền ngẫu, do Nguyễn Trãi viết năm 1428, sau đại thắng quân Minh ,được các thế hệ sĩ phu đánh giá là một áng "thiên cổ hùng văn" có một không hai trong lịch sử dân tộc. "BNĐC" trình bày tóm tắt lịch sử mười năm kháng chiến gian khổ, những thành tích của cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn, tổng kết kinh nghiệm cuộc chiến tranh chống Minh, rút ra những bài học về đường lối đánh giặc cứu nước, có giá trị lâu dài cho sự nghiệp bảo vệ nền độc lập tự chủ. Đặc điểm lớn nhất của "BNĐC" là hơn bao giờ hết, ý thức quốc gia độc lập và lòng tự hào dân tộc được đề cao. Ngọn cờ "nhân nghĩa" cứu nước cứu dân, dựa vào dân mà cứu nước là nguồn gốc sâu xa của chiến thắng vĩ đại. "BNĐC" đã nêu bật sách lược kiên trì chiến đấu, lấy ít thắng nhiều, đánh vào quân địch đồng thời đánh vào lòng người, làm tan rã ý chí bán nước, cầu vinh của nguỵ quân, giải thích cho quan quân giặc nhận thấy tính chất phi nghĩa và sự thất bại tất yếu của cuộc xâm lược. "BNĐC" truyền đạt những tư tưởng quân sự, chính trị và triết lí của dân tộc Việt nam. Lời lẽ chính xác, cô đúc, chứa đựng nhiều hình tượng gợi cảm, vừa là văn chương chính luận, vừa là văn chương trữ tình. Được xem là tuyên ngôn độc lập lần thứ hai trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
“Bình Ngô đại cáo” thắm đậm tư tưởng nhân nghĩa, là cội nguồn sức mạnh của cuộc kháng chiến.
Nhân nghĩa là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử. Mục đích của nhân nghĩa đã được khẳng định là “cốt để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hoà bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc ,đau thương.

“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trứơc lo trừ bạo”

Nhân nghĩa là tinh thần vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước,cứu dân. Muốn yên dân thì khi có giặc ngoại xâm trước tiên phải đứng lên chống giặc “trước lo trừ bạo”.

Nhân nghĩa gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
“ Nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác”

là niềm tự hào dân tộc "…hào kiệt đời nào cũng có”, là truyền thống yêu chính trực, ghét gian tà, căm thù sâu sắc bọn giặc cướp nước, bán nước:
“Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây vạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”

Nhân nghĩa còn là sự chia sẻ, cảm thông với nổi khổ của người dân mất nước:
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc
….
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”

Nhân nghĩa là cội nguồn của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công , không nhân nghĩa thì thất bại. Bọn giặc Minh xâm lược đã:
“Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh, kết oán trãi hai mươi năm
Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời”

Họ không có nhân nghĩa vì vậy cho nên phải chịu cảnh “ thây chết đầy đường” “máu trôi đỏ nước” “ nhơ để ngàn năm”

Nhân nghĩa làm nên sức mạnh, vì nhân nghĩa quân ta đã:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông”

Quân ta chiến thắng vì đã:
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”

Nhân nghĩa còn là tinh thần yêu chuộng hoà bình, công lý, tình nhân loại , là sự hiếu sinh, hiếu hoà, sự độ lượng bao dung thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc ta, đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù khi chúng đã bị bại vong:
“Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông ,Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”



Co cau “Người ta ai cũng sẵn có mối thiện ở trong lòng; lòng trắc ẩn tức là mối đầu của nhân, lòng từ tức là mối đầu của nghĩa.”

Người Việt Nam, nay còn ở trong nước, hay sinh sống ở ngoại quốc, nếu còn giữ văn hóa dân tộc, lấy “ngũ thường” làm
 
K

kitrea

trọng, mấy ai ưa chiến tranh? Vì “mối thiện”, vì lòng “trắc ẩn” không ai muốn thấy có sự chém giết, dù một người hay trăm vạn người.
Người ta cho rằng, nhân loại càng văn minh, càng không nên có án tử hình. Chúng ta, dù nhân danh cho gì, cũng không thể lấy đi cái chúng ta không cho người khác. Nói rõ ra, sự sống là do Tạo hóa ban cho mỗi con người, nên chỉ có Tạo hóa mới có quyền lấy lui. Giết một người là lấy đi sự sống nơi người ấy. Ta có quyền gì lấy nó đi trong khi chúng ta không cho người ấy sự sống ấy?
Nghĩ như thế nên ai cũng đồng ý rằng, chiến tranh là đem lại chém giết, tàn tật, đau thương, v.v... là bất nhân, là điều không nên làm, không nên có.
Tuy nhiên, trở lại với Bình Ngô Đại Cáo, dù Lê Lợi muốn điều “nhân”, ông cũng phải vì điều “nghĩa” mà “quân điếu phạt chỉ vì khử bạo.” Không gây cảnh binh đao là làm điều “nhân”, nhưng khử bạo là điều “nghĩa”. Tại sao thấy điều “nghĩa” mà không làm. Trong một phạm vi nhỏ như trường hợp Lục Vân Tiên giết tướng cuớp Phong Lai, chẳng qua cũng chỉ bởi một điều: “Chữ rằng kiến nghĩa bất vi, làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”õ Chữ anh hùng cụ Đồ Chiểu dùng ở đây chắc không phải cùng ý nghĩa của chữ hero như Tây phương, anh hùng của cụ chỉ là người chống điều trái, làm điều phải.
Nói xa hơn, Trương Phúc Loan chuyên quyền làm nhiều điều càn rỡ, dân tình đói khổ oán than nên anh em nhà Nguyễn Tây Sơn mới dấy nghĩa. Lê Lợi, trước ách cai trị tàn bạo của nhà Minh, bắt dân ta lên rừng lấy ngà voi, xuống đáy biển mò ngọc trai, nên mới “Lam Sơn dấy nghĩa”. Cũng là vì “nghĩa” mà làm.
Gây chiến tranh là điều bất nhân, tạo nên cảnh chết chóc đau thương cho người lính, người dân vô tội, đó là điều ác, nhưng đó là điều ác phải làm!
Chiến tranh nào không làm điều ác, dù là “Lam Sơn khởi
 
K

kitrea

nghĩa”, hay cuộc dấy binh của anh em nhà Tây Sơn, cũng đều là gây nên sự chém giết cả. Điều quan trọng là cái “tâm” của người gây chiến tranh. Trở lại việc Lam Sơn dấy nghĩa của Lê Lợi, cái “tâm” của ông là làm việc nghĩa, gây chiến là việc chẳng đặng đừng. Cái tâm của ông là làm điều nhân, không muốn hại người.
Gây chiến tranh tức có cảnh “máu chảy xương rơi” nhưng có ai cho rằng đó không là việc hại một người cứu muôn người.
Quan trọng là phải tính toán làm sao ít hao hại nhứt, về cả nhân mạng của hai bên, của dân thường và tài sản.
Một điều “nhân” cần bàn cho cho rõ nữa. Người ta khi cầm quyền, phải lấy sự thương dân làm đầu, tránh cho dân những điều khổ đau tang tóc.
. Như thế thì ai cũng vì “lợi” chứ không còn nhân nghĩa gì nữa cả, coi như thiên hạ đại loạn rồi. Đó là lúc nhân loại giết nhau để tự mình tiêu diệt, sẽ không còn gì để nói nữa.
Cuộc kháng chiến chống quân Minh diễn ra lâu dài với muôn vàn khó khăn gian khổ nhưng thể hiện tinh thần quật khởi của một dân tộc anh hùng.
Tư tưởng nhân nghĩa trong “ Bình Ngô đại cáo ” thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc, là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp cho Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó biến thành sức mạnh to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Có thể nói, Bình Ngô Đại Cáo là tác phẩm rất nổi tiếng trên toàn thế giới đánh dấu móc son chói lọi trong lịch sử nước nhà!
 
F

faustvn01

Thứ nhất, nếu đây là một bài trích dẫn (mà mình tin là như vậy) bạn nên ghi rõ nguồn.
Thứ hai: Những thông tin đưa ra ở đây có rất nhiều chi tiết không chính xác về lịch sử, về văn học, về văn hóa. Bạn nên có sự kiểm tra, cân nhắc trước khi post bài để tránh những lỗi như vậy, nếu không có được một bài viết HAY, có giá trị tham khảo thì ít nhất nó cũng phải ĐÚNG về nội dung kiến thức.
Mong bạn chú ý hơn khi post bài nhé.
 
A

anhhothan

trước hết bạn phải HTL bài BNDC đi đã.cô tui mới dậy tui pt đoạn 1 thui,để tui post cho bạn nhá:
1.tư tưởng chính nghĩa&lập trường(đ1)
-việc nêu ra tư tưởng nhân nghĩa và chính nghĩa có td làm tiền đề cho toàn bài.Và tất cả các nội dung của bài đều xoay quanh tiền đề này.

nói chung là muốn biết thêm thì chờ tui nha.:p:)
 
N

nguyen.minh.thanh

1. Hoàn cảnh ra đời(SGK)
2.Thể loại:Cáo(SGK)
3. Tác Phẩm viết = chữ Hán ...
4. Nội Dung :Thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc, CN nhân văn qua viêc đề cao vị trí của con người trong lịch sử
5. Nghệ thuật : Tác phẩm đỉnh cao của thể cáo.
Chuc ban Thi Tốt
 
H

hoangtu_faithful

[Văn 10] Bài viết số 6 Giới thiệu TP văn học

--------------------------------------------------------------------------------

Bài kham khảo nè: Đọc rùi thì thanks dùm mình nhá
Nguyễn Trãi (1380-1442) là một nhà nho uyên bác, một nhà quân sự đa tài, một nhà chính trị sáng suốt, một nhà ngoại giao lỗi lạc … của nưóc ta, hơn thế nữa ông còn được UNESCO công nhận là danh nhân văn hoá thế giới (1980). Nguyễn Trãi ko nhưng đựơc người nguời khâm phục ở tài quân sự mà còn khâm phục ông là một người tận trung ái quốc, yêu mến quê hưong đất nước tha thiết. Văn võ song toàn, cống hiến suốt đời và đóng góp to lớn cho sự nghiệp cứu và dựng nước, đáng là bậc anh hùng nước ta. Với ~ chiến lược quân sự tài ba, lời lẽ chau chuốt của một nhà ngoại giao chính trị, lời văn mượt mà tha thiết của một nhà văn hóa, Luôn “lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ”, Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nguyễn Trãi đáng là một đại văn hào của dân tộc.
Năm 1407, giặc Minh sang xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hóa, Lê Lợi phất cờ khỏi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mưòi năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân dân ta quét sạch quân Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm 1428 thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo “Đại cáo bình Ngô” để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt.
Đại cáo bình Ngô hay một áng văn lớn bình phẩm về bọn “cuồng Ngô” T/p được viết bằng thể Cáo. Là thể văn nghị luận có thừ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Trong thể cáo, có các loại văn đại cáo mang ý nghĩa một sự kiện trọng đại, có tính chất quốc gia. Cáo có thể được viết bằng văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối, câu ngắn không gò bó, mỗi cặp hai vế đối nhau. Cũng như hịch , cáo là thể căn hùng biện, do đó lời lẽ đanh thép, lí luận phải sắc bén, kết cấu phải chặt chẽ, mạch lạc.
“Đại cáo bình Ngô” là một “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thể hiện khí phách của dân tộc ta. Khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê tởm của quân Minh, ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở “Bình Ngô”, tuyên bố đẩt nước Đại Việt bước vào kỳ nguyên mới độc lập, thái bình bên vững muôn thuở. Đánh giá đầy đủ súc tích, sắc sảo về cuộc kháng chiến chống Minh gian khổ suốt mưòi năm trời mà nhân dân Đại Việt đã tiến hành dưới sự lãnh đạo của người anh hùng dân tộc Lê Lợi. Xuyên suốt tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa nguyên lí nhân nghĩa và yêu nước, thương dân. Đó là nguyên lí lớn nhất của dân tộc ta, cũng là cái nguyên tắc lớn nhất mà ông tuân theo. Việc nhân nghĩa phải có tác dụng yên dân và khẳng định rằng việc khiến yên dân chính là việc nhân nghĩa. Đồng thời khẳng định yên dân là làm cho dân được yên, ăn yên, ở yên, sống yên; làm cho nhân dân yên vui, khắp mọi nơi không có tiếng than vãn oán hờn. Quá trình phát triển bài văn cũng là để phát triển tư tưởng ấy. Tư tưởng nhân nghĩa, tiêu chuẩn yên dân trong suốt bài văn, mặc dầu không được nhắc lại, nhưng vẫn sáng lấp lánh cả tác phẩm. Đoạn một tác giả nêu luận đề chính nghĩa dựa trên mối quan hệ giữa ba yếu tố là nhân nghĩa, đất và nước. Đồng thời nêu lên truyền thống vẻ vang của dân tộc và khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc. Chân lí về sự độc lập dân tộc đứng trên lập trưòng chính nghĩa. Đoạn 2: vạch trần tội ác của bọn giặc điên cuồng. Như là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong 20 năm trên đất nước Đại Việt. Sang đoạn 3: Kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa. Ở đây tác giả tập trung khắc họa hình tượng Lê Lợi với cách xưng hô thể hiện sự khiêm nhường. Nêu lên nhưng phẩm chất tốt đẹp với tinh thần vượt khó kiên trì, lòng căm thù giặc sâu sắc, biết tập hợp và đoàn kết tòan dân, có chiến lược và chiến thuật tài tình, nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa. Cho ta thấy đựơc Lê Lợi là hình ảnh tiêu biểu của những nguời yêu nước dám hi sinh quên mình đứng lên chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do của dân tộc. Bài Cáo tập trung làm sáng rõ vai trò của một tập thể anh hùng trong quá trình kháng chiến. Tác giả còn sử dụng cách liệt kê để làm sáng rõ nhịp độ dồn dập của những trân chiến thắng. Đoạn 4: tuyên bố kết thúc chiến tranh mở ra một kỉ nguyên mới hòa bình và phát triển.
Đại cáo bình Ngô là áng văn chính luận với nghệ thuật chính luận tài tình, cảm hứng trữ tình sâu sắc. Tác giả đã sử dụng phép liệt kê để làm sáng rõ nhịp độ dồn dập của những trân chiến thắng. Cuối bài với nhịp thơ dàn rải, trang trọng để khẳng định thế suy thịnh là tất yếu. Để đảm bảo vừa tăng cường sức thuyết phục vừa đạt được tính cô đọng, hàm súc của ngôn từ văn chương, Nguyễn Trãi đã sử dụng đan xen, kết hợp hài hòa giữa hình ảnh mang tính chất khái quát với những hình ảnh có tính cụ thể, sinh động. Bài Cáo có sự kết hợp hài hòa giữa tư duy logic và tư duy hình tượng. Tư duy logic được thể hiện qua hệ thống luận điểm, trình tự lập luận chặt chẽ. Mở đầu nêu lên tiền đề có tính chất nguyên lí, chân lí làm chỗ dựa về mặt lí luận và để triển khai lập luận trong những phần sau. Tiếp đến tác giả soi tiền đề vào thực tế, chỉ ra tội ác của giặc Minh để lên án, tố cáo, đồng thời nêu sự nghiệp chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn để khẳng định, ca ngợi. Phần cuối, tác giả rút ra kết luận dựa trên cơ sở tiền đề và thực tiễn. Tư duy hình tượng thể hiện qua việc Nguyễn Trãi thường diễn đạt những cảm xúc, suy tư bằng hình tượng nghệ thuật. Tác giả đã sử dụng các hình ảnh nghệ thuật rất đa dạng và phong phú để nói lên tình cảm thê thảm của người dân vô tội, tố cáo tội ác của giặc cuồng Minh, diễn tả sự thất bại của quân địch, tạo nên khung cảnh chiến trường. Nhằm mục đích làm cho câu văn thêm sức truyền cảm, tác động cả vào nhận thức, cả vào tình cảm của người đọc.
Đại cáo bình Ngô một “áng văn chương muôn đời bất hủ” trong kho tàng văn học nước nhà. Lên án tội ác dã man của bọn giặc điên cuồng đồng thời khẳng định sức mạnh của nguyên lí nhân nghĩa và chủ quyền độc lập của dân tộc. Bài cáo đã để lại cho đời tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, yên dân thì phải trừ bạo. Lấy nhân nghĩa làm tiêu chí phấn đấu để xây dựng một đất nước hòa bình hùng mạnh. Đồng thời thức tỉnh cho những kẻ gây nên nhưng tội ác trắn trợn. Răng đe những kẻ có ý định, mưu đồ bất chính. T/p có giá trị ngàn đời cả về mặt nội dung và nghệ thuật.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Top Bottom