Sử 10 Ngô Quyền - Tổ trung hưng thứ hai của nước Việt

Thái Minh Quân

Cựu Cố vấn Lịch sử | Cựu Chủ nhiệm CLB Lịch sử
Thành viên
29 Tháng mười 2018
3,304
4,365
561
TP Hồ Chí Minh
THCS Nguyễn Hiền
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Bài này được tác giả Thái Minh Quân viết nhân dịp ngày giỗ của Ngô Quyền - ngày 18 tháng Giêng âm lịch hằng năm. Cứ vào ngày này, người dân làng Đường Lâm (quê của vua Ngô Quyền), thị xã Sơn Tây, Hà Nội lại long trọng tổ chức lễ giỗ Đức Tiền Ngô Vương (Ngô Quyền), vị vua khởi đầu nền tự chủ của nước Việt.
Từ khi An Dương Vương mất nước, nước ta rơi vào một nghìn năm Bắc thuộc. Trong suốt thời gian ấy, nước ta chỉ được độc lập vài năm ngắn ngủi thời Hai Bà Trưng, thời Tiền Lý. Phải đến khi Ngô Quyền nổi dậy, xưng vương, đất nước mới có được nền tự chủ lâu dài, trải lần lượt qua các thời Đinh, Lê, Lý, Trần. Vì vậy, khi soạn Đại Việt sử ký, sử gia Lê Văn Hưu đã kính cẩn nhận xét "vua đứng đầu các vua".
Bài này cũng được viết để mở rộng, làm phong phú tiểu sử của nhà vua cho học sinh khi học bài 29 của lịch sử lớp 6, bài 8 của lịch sử 7; bài 16 và 17 của lịch sử 10. Cả nhà đón xem...

800px-T%C6%B0%E1%BB%A3ng_Ng%C3%B4_Quy%E1%BB%81n.jpg


1. Võ công bất hủ, dựng nền độc lập
Ngô Quyền sinh năm Mậu Ngọ (898) ở xứ Đường Lâm, nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội, cùng quê với người anh hùng Bố Cái Đại vương Phùng Hưng. Cha ông là Ngô Mân đã từng làm chức Châu mục Đường Lâm. Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng". Đại Việt sử ký toàn thư (ngoại kỷ, quyển 5) mô tả: "Ngô Quyền có dung mạo khác thường, lưng có ba nốt ruồi. Các thầy tướng cho là lạ, rằng có thể làm chủ được một phương, nhân đó (Ngô Mân) mới đặt cho vua tên là Quyền. Khi vua lớn lên, tướng mạo khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, trí dũng hơn người, sức có thể nâng được vạc".
Thuở thiếu thời của Ngô Quyền cũng là thời kì bão táp của chế độ thống trị nhà Đường ở An Nam. Đô hộ phủ An Nam ngày càng tỏ ra bất lực trong việc khống chế các thế lực cát cứ địa phương cũng như các thế lực bên ngoài. Người Nam Chiếu đã tấn công dữ dội Giao Châu từ năm 858 đến năm 866. Sau loạn An Sử (755 – 763) và nhất là khởi nghĩa Hoàng Sào (874 – 884), nhà Đường phải đối phó với nạn phiên trấn cát cứ, sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối với An Nam ngày càng yếu đi. Quyền lực của phủ Đô hộ bị phân tán xuống các vùng nhỏ, do đó xuất hiện các thế lực hào trưởng có vai trò ngày càng quan trọng trong bộ máy cai trị. Vì vậy, họ Khúc, hào trưởng Hồng Châu, đã thiết lập chính quyền tự chủ ở An Nam một cách khá dễ dàng và ít xáo trộn vào năm 905. Thế lực họ Khúc yếu ớt, đối đầu và thất bại trước sự xâm lấn của nhà Nam Hán. Nhưng sự thống trị của nhà Nam Hán chẳng vững bền : năm 931, thế lực họ Dương ở Ái Châu đánh bại quan lại nhà Nam Hán là Lý Tiến, Trần Bảo ở dưới chân thành Đại La, Dương Đình Nghệ trở thành Tiết Độ sứ của chính quyền người Việt tự chủ.
Thế lực họ Dương nắm quyền ở Đại La được sự ủng hộ của nhiều thế lực địa phương khác, trong đó có họ Ngô của Ngô Quyền.
Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, “có trí dũng”. Sau khi Ngô Quyền kết hôn với con gái Dương Đình Nghệ là Dương thị, em gái Dương Tam Kha, Ngô Quyền trở thành nha tướng và cũng là con rể của Dương Đình Nghệ, được vị Tiết độ sứ tin tưởng, giao cho quyền cai quản Ái Châu, đất căn bản của họ Dương vào năm 932.
Năm 937, tháng 3, nha tướng của Dương Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn giết chủ tướng, năm sau, Ngô Quyền đem quân từ Ái Châu ra đánh Kiều Công Tiễn.
2. Chiến thắng Bạch Đằng
Kiều Công Tiễn sai sứ đem đồ quý sang cầu cứu vua Nam Hán là Lưu Cung. Vua Nam Hán muốn lấy nước ta, sai con trai là Vạn vương Lưu Hoằng Tháo đem quân sang giúp Kiều Công Tiễn. Nhưng quân giặc chưa kịp sang giúp thì ở trong nước, Ngô Quyền ra tay diệt trừ Kiều Công Tiễn. Theo thần tích, truyền thuyết dân gian và gia đình họ Dương ở làng Ràng (xã Dương Xá, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa) thì dưới sự chỉ đạo của Ngô Quyền, Dương Tam Kha (con Dương Đình Nghệ) và Đỗ Cảnh Thạc đã cầm quân tiến công thành Đại La, giết Kiều Công Tiễn.
Dẹp xong nội loạn, Ngô Quyền vào thành họp bàn với các tướng lĩnh về kế hoạch chống ngoại xâm. Thành Đại La trở thành trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ hai. Hào kiệt bốn phương đem quân hội tụ về Đại La dưới cờ đại nghĩa của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền.
Tại đây, một kế hoạch chiến đấu mưu trí và chắc thắng đã được Ngô Quyền và các tướng lĩnh bàn định và thông qua. Trong một cuộc họp bàn, với lòng tự tin và làm chủ tình thế, Ngô Quyền đề ra ý kiến như sau:
"Hoằng Thao là một đứa trẻ, lại đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, lại nghe Kiều Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt tất phá được. Song giặc có lợi về thuyền chiến, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nhưng ta sẽ cho người đem theo cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt đầu nhọn bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước thuỷ triều lên tiến vào bên trong hàng cọc, bây giờ ta sẽ dễ bề chế ngự, không kế gì hay hơn kế ấy cả".
Kế hoạch và việc lựa chọn chiến trường cho trận "quyết chiến chiến lược" đã được quyết định. Tướng sĩ ai cũng vui mừng, tin rằng chắc thắng. Sau đó, Ngô Quyền và bộ chỉ huy tạm rời thành Đại La, kéo quân về vùng biển đông bắc chuẩn bị chiến trường đón đánh thủy quân Nam Hán.
Theo thần tích và truyền thuyết dân gian các làng và hơn 30 đền thờ Ngô Quyền và các tướng có công phá giặc Nam Hán đã được phát hiện, thì vùng đóng quân của Ngô Quyền lúc bấy giờ được trải dài từ các làng Bình Kiều, Hạ Đoan tới Lương Khê, còn đại bản doanh thì đặt tại các thôn Lương Sâm, Gia Viện (đều thuộc huyện An Hải, Hải Phòng).
Trước đây, đại bộ phận quân đội của Ngô Quyền là người Ái châu, nơi ông trấn trị. Trước nạn Nam Hán xâm lược, đạo quân này được bổ sung tăng cường và nhanh chóng. Nhân dân khắp nơi nô nức mang vũ khí, thuyền chiến tham gia và ủng hộ quân đội. Chỉ riêng một thôn Gia Viện nơi Ngô Quyền đặt đại bản doanh cũng đã có hàng mấy chục trai tráng dưới quyền chỉ huy của Đào Nhuận và Nguyễn Tất Tố tình nguyện nhập ngũ.
Vùng cửa sông và hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm điểm quyết chiến.
Sông Bạch Đằng là cửa ngõ phía đông bắc và là giao thông quan trọng từ biển Đông vào đất Việt. Theo cửa Nam Triệu vào Bạch Đằng, địch có thể ngược lên và tiến đến thành Cổ Loa hoặc thành Đại La hoàn toàn bằng đường sông.
Sông Bạch Đằng chảy qua một vùng núi non hiểm trở, có nhiều nhánh sông phụ đổ vào. Hạ lưu sông thấp, chịu ảnh hưởng của nước triều khá mạnh. Triều lên từ nửa đêm về sáng, cửa biển rộng mênh mông, nước trải rộng ra hai bên bờ đến hơn 2km. Đến gần trưa thì triều rút mạnh, chảy rất nhanh
Bấy giờ vào cuối năm 938. Trời rét, gió đông bắc tràn về, mưa dầm lê thê kéo dài hàng nửa tháng. Chính trong những ngày ấy, theo kế hoạch của Ngô Quyền, quân và dân ta lặn lội mưa rét, ngày đêm vận chuyển gỗ, dựng cọc.
Hàng nghìn cây gỗ lim, sến, đầu được vạt nhọn và bịt sắt được đem về đây cắm xuống hai bên bờ sông (quãng cửa Nam Triệu hiện nay) thành những hàng dài chắc chắn, đầu cọc hướng chếch về phía nguồn.
Khi triều rút các hàng cọc mới phơi ra, còn lúc sáng sớm nước mênh mông thì thuyền lớn qua lại hai bên bờ vẫn dễ dàng. Trận địa cọc được tiến hành rất gấp rút và chỉ trong khoảng thời gian hơn một tháng là mọi việc đã hoàn thành.
Theo dự kiến của Ngô Quyền, trận đánh sẽ diễn ra ở phía trong bãi cọc. Tướng Dương Tam Kha (con của Dương Đình Nghệ) chỉ huy đội quân bên tả ngạn, Ngô Xương Ngập (con trai cả của Ngô Quyền) và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đội quân bộ bên hữu ngạn, mai phục sẵn, phối hợp với thủy quân đánh tạt sườn đội hình quân địch và sẵn sàng diệt số quân địch chạy lên bờ.
Từ cửa biên ngược lên phía trên không xa là một đạo thủy quân mạnh phục sẵn do chính Ngô Quyền chỉ huy chặn ngay đường tiến lên của địch, chờ khi nước xuống sẽ xuôi dòng đánh lại đội binh thuyền địch.
Trận địa bố trí vừa xong thì binh thuyền Nam Hán từ Quảng Đông kéo sang. Cuộc chiến đấu đã diễn ra như sự trù liệu và dự tính của Ngô Quyền đã vạch ra.
Cả đoàn binh thuyền lớn của Hoằng Thao vừa vượt biển vào cửa sông Bạch Đằng đã bị dồn dắt vào thế trận bố trí sẵn của ta, và bị tiêu diệt trong thời gian ngắn. Toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm xuống biển, hầu hết quân địch bị tiêu diệt, chủ soái Lưu Hoằng Thao bị giết tại trận.
Chiến thắng Bạch Đằng diễn ra nhanh chóng khiến vua Nam Hán là Lưu Cung đang đóng quân ở sát biên giới mà không kịp tiếp ứng cho con. Sử chép: "Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân còn sót mà rút lui'.
Chiến thắng Bạch Đằng thời Ngô Quyền là một bước phát triển rực rỡ của nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Trong điều kiện lực lượng ta địch chênh lệch không nhiều, Ngô Quyền đã lợi dụng được cả thời tiết, địa hình có lợi cho ta, tạo len thế mạnh giáng cho quân xâm lược vừa mới thò mặt tới một đòn trời giáng, giành thắng lợi quyết định bằng một trận mai phục thủy chiến trên sông.
Ca ngợi người anh hùng dân tộc Ngô Quyền, sử gia Lê Văn Hưu viết: "Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới hợp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói một cơn giận mà yên dân được, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy". Các sử giả tiếp theo cũng ca ngợi Ngô Quyền: Tác giả Ngô Thì Sĩ, trong Việt sử tiêu án, nhận định: "Trận đánh ở Bạch Đằng là cái căn bản khôi phục quốc thống đó. Sau này Đinh, Lê, Lý, Trần còn phải nhờ dư liệt ấy. Võ công hiển hách của Ngô Quyền, tiếng thơm nghìn đời, đâu có phải chỉ khoe khoang một lúc bấy giờ mà thôi". Các sử quan nhà Nguyễn trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho rằng: "Vua Ngô Quyền giết giặc nội phản để trả thù cho chúa, đuổi quân ngoại xâm để cứu nạn cho nước, xây dựng quốc gia, đem lại chính thống, công nghiệp thực là vĩ đại".
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là trận trung kết toàn thắng của dân tộc ta trên con đường đấu tranh Bắc thuộc, giành lại độc lập hoàn toàn.
Chiến công hiển hách đó đập tan mưu đồ xâm lược của Nam Hán, tạo cơ sở để Ngô Quyền phát triển chính quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương thành chính quyền độc lập, chấm dứt hoàn toàn thời Bắc thuộc kéo dài trên nghìn năm.
avatar.aspx
Mô hình chiến thắng Bạch Đằng 938. (Ảnh: Wikipedia)

ngoquyen2-1581389640250406643450.jpg

Tượng vua Ngô Quyền (giữa), vua Lê Đại Hành (trái) và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tại Khu Di tích lịch sử Bạch Đằng Giang. Ảnh: Báo Cần Thơ.


3.. Lập triều đình đầu tiên, xây dựng nền tự chủ nghìn năm
Về triều đình của Ngô Vương, sử cũ không viết nhiều, chỉ nêu vắn tắt: "Giết chết Kiều Công Tiễn, tự lập làm vua, đóng đô ở Loa Thành. Kỷ Hợi (939), năm thứ nhất, mùa Xuân, vua mới xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục". Theo phả hệ họ Ngô ở Việt Nam, Ngô Quyền lên ngôi ngày 10 tháng 1 năm Kỷ Hợi (tức ngày 21 tháng 1 năm 939).
Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi hoàng đế và đặt niên hiệu, nhưng các sử gia thời xưa đều cho rằng, từ mốc này, mà chính thống của nước Việt ta đã được Ngô Vương nối lại. Nhà yêu nước Phan Bội Châu, vào đầu thế kỷ XX cũng đã kính cẩn nhận định, Tiền Ngô Vương là "tổ trung hưng của nước Việt".
Không có nhiều tư liệu viết chi tiết về cách thức vận hành triều đình và trị dân của Tiền Ngô Vương. Sách Việt sử tiêu án chỉ chép vắn tắt: "Vương giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương Thị làm Hoàng hậu, đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đình, định các sắc áo mặc, đóng đô ở Cổ Loa thành, làm vua được 6 năm rồi mất". Các tài liệu khác cho biết ông phong tước, cấp đất cho các công thần, là cơ sở để họ phát triển thành các sứ quân về sau.
Theo GS Đào Duy Anh, triều đại Ngô đầu tiên cai trị 8 châu: Giao, Lục, Phong, Trường, Ái, Diễn, Hoan, Phúc Lộc nằm trên đất Giao Châu cũ. Ngô Quyền chỉ có quyền lực ở các châu mà cư dân là con cháu của người Lạc Việt, tức miền trung du và miền đồng bằng Bắc bộ, vùng Thanh Nghệ; còn miền thượng du là các châu ky my (châu tự trị, chỉ phải cống nạp) của nhà Đường trước kia do các tù trưởng nắm giữ mà độc lập. Những người thân cận, các tướng tá cùng các hào trưởng địa phương quy phục đã được nhà Ngô phong tước, cấp đất, như Phạm Lệnh Công ở Trà Hương (Nam Sách, Hải Dương), Lê Lương ở Ái châu, Đinh Công Trứ (cha của Đinh Bộ Lĩnh) ở Hoan Châu.
Về kinh đô: Sau khi lên ngôi Ngô Quyền không đóng đô ở trị sở cũ của nhà Đường như họ Khúc hay Dương Đình Nghệ nữa mà chuyển kinh đô lên Cổ Loa thuộc Phong Châu (thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên cũ); lý do như sau:
+ Ý thức dân tộc trỗi dậy, tiếp nối quốc thống xưa của nước Âu Lạc xưa (theo Trần Quốc Vượng)
+ Ở Đại La, thế lực của người Hoa vẫn còn mạnh - điển hình là thất bại của Khúc Thừa Mỹ năm 930.
Theo Tạ Chí Đại Trường, Ngô Quyền không đóng đô nơi phủ trị cũ mà lại tìm một vị trí bên lề để canh chừng thôi; vì đơn giản Đại La quá trống trải tiện cho quân xâm lược. Dù sao thì sự từ chối Đại La cũng là một dấu vết co cụm để tính chất địa phương nổi lên không những chỉ trong gia đình ông mà còn thấy trong cách ứng xử của các tập đoàn quyền lực khác ở phủ Đô hộ cũ nữa.
Tuy chỉ tóm tắt như vậy, nhưng công lao to lớn của Tiền Ngô Vương vẫn còn sáng mãi trong lòng dân tộc. Sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư nhận định: "Nhà Tiền Ngô nổi lên được, không những là chỉ có công chiến thắng mà thôi. Việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của đế vương".
Nhờ sự nghiệp mà Tiền Ngô Vương để lại, mà sau khi vương qua đời, Dương Tam Kha, anh của Dương Thái hậu, nắm quyền được 6 năm, trải thêm 15 năm Hậu Ngô Vương và 2 năm loạn 12 sứ quân, để đến năm 968, Đinh Tiên Hoàng được thừa hưởng một cơ đồ thênh thang, nối lại đại thống nước Việt, lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu, niên hiệu, xây kinh đô, mở ra thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ kéo dài suốt qua các thời kỳ Đinh, Lê, Lý, Trần.
Ngô Quyền mất ngày 18 tháng 1 năm Giáp Thìn (944), hưởng dương 47 tuổi; trước khi chết ông di chúc cho Dương Tam Kha phò tá con của mình. Ông không có miếu hiệu và thụy hiệu, sử sách xưa nay chỉ gọi ông là Tiền Ngô Vương. Sách Thiền Uyển tập anh, phần truyện Quốc sư Khuông Việt có nhắc Ngô Thuận Đế.

lc483ngngc3b4quye1bb81n-15813887353721233678108.jpg

Lăng Ngô Quyền tại thôn Cam Lâm trong Làng cổ Đường Lâm, thuộc thị xã Sơn Tây, Hà Nội.

Tài liệu tham khảo
  1. Nhiều tác giả (1972), Đại Việt Sử ký Toàn thư, Cao Huy Giu phiên dịch, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội.
  2. Phan Bội Châu (1909), Việt Nam quốc sử khảo.
  3. Đào Duy Anh (1964), Đất nước Việt Nam qua các đời; Nhà Xuất bản Khoa học.
  4. Tạ Chí Đại Trường (2009), Sơ thảo: Bài sử khác cho Việt Nam, ấn bản điện tử.
  5. Trần Quốc Vượng (2009), Hà Nội như tôi hiểu; Nhà Xuất bản Thời đại.
  6. hanoi.vietnamplus.vn
  7. hoangthanhthanglong.vn
  8. soha.vn
 
Top Bottom