Văn nghị luận

banhbao2k2

Học sinh chăm học
Thành viên
25 Tháng chín 2017
152
64
59
Kiên Giang
Trường làng
Nguyễn Công Trứ một ông quan lớn văn võ toàn tài dưới triều Nguyễn. Người ta nhớ đến công lao khai khẩn đất hoang, lấn biển, lập nên hai xã Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình). Người ta cũng không quên một nhà thơ với những vần thơ đầy khẩu khí của một bậc chính nhân quân tử về chí nam nhi phụng sự đất nước, về cái tôi ngất ngưởng của một con người hiểu rõ về mình, về xã hội mà mình đang sống. Nếu như Chí anh hùng tràn đầy khí phách của người tuổi trẻ, thì Bài ca ngất ngưởng, được viết lúc ông đã thành danh, là bài thơ tổng kết về cuộc đời và khẳng định cái tôi (bản ngã) của cụ Thượng Trứ.


Nếu như trong nền văn học trước ông, người ta thường thấy các tác giả nói về “cái ta”, “chúng ta” tức là nói những cái chung chung. Nhưng khi đến với thơ của Nguyễn Công Trứ người đọc bắt gặp “cái tôi”, đó là cái tôi “ngông”, cái tôi ngất ngưởng với chính bản thân, với đời. Để làm rõ được cái tôi ngông của mình, nhà thơ đã chọn thể hát nói bằng chữ Nôm, là một trong những thể thơ tài tử của dân tộc tương đối tự do, viết ra không phải để đọc mà để ngâm nga, hát xướng. Người thể hiện có thể theo đà cảm xúc mà luyến láy cho phù hợp. Bài thơ vì vậy mà đầy âm sắc, nhạc điệu.

Trước hết đi vào nội dung bài thơ,cần hiểu được nghĩa của từ
“ngất ngưởng”. Theo từ điển Tiếng Việt: ngất ngưởng là từ chỉ chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi. Nhưng đặt vào văn cảnh của bài thơ, ngất ngưởng lại được hiểu là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người. Ngay ở đoạn đầu bài thơ đã tác giả đã viết:

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự,

Ông Hi Văn Tài bộ đã vào lồng

Khi Thủ khoa, khi Tham tám, khi Tổng đốc Đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”

Tác giả khẳng định luôn, mọi việc của trời đất, chẳng có việc nào không phải phận sự của ta. Nhưng lại có sự đối lập giữa phận sự mang tầm vóc to lớn với cảnh “vào lồng” gợi ra sự tù túng, eo hẹp. Tuy nhiên, giữa quang cảnh ấy, ông “Hi Văn Tài” vẫn khẳng định tài năng của mình bằng con đường thi cử, làm quan. Khẳng định cái tôi hiên ngang của mình giữa đất trời.

Không chỉ dừng lại ở đây, tác giả còn cho người đọc hiểu rõ hơn về cái ngất ngưởng không giống ai của mình “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”. Theo sổ sách ghi lại: lúc về hưu ông thường cưỡi bò vàng có đeo nhạc ngựa (thiên hạ cưỡi ngựa, riêng Nguyễn Công Trứ cưỡi bò). Ông còn đem theo một mo cau buộc chỗ đuôi bò và nói để che miệng thế gian. Đúng là khác đời, khác người mà chỉ có Nguyễn Công Trứ mới dám làm như vậy. Nếu như người đời cưỡi ngựa thì ông cưỡi bò, đeo nhạc ngựa và ung dung trong tư thế:

“Tay kiếm nên cung mà nên dạng từ bi



Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì

Bụt cũng bật cười ông ngất ngưởng”

Xưa kia vốn là một danh tướng(tay kiêm cung) đầu đội trời, chân đạp đất, thế nhưng cuộc sống này rất bình dị, từ bi hiền lành. Hình ảnh ông bụt được hiện lên, làm cho sự ngất ngưởng trong phong cách sống của ông càng khác đời, mơ mơ, thực thực. Cung cách sống không chỉ được hiện lên mà tác giả còn thể hiện rõ quan điểm của mình về được mất và sự lạc quan , bình thản trước cuộc đời “ Được mất dương dương người Tái Thượng” giống như trong chuyện mất ngựa (Tái ông thất mã), Nguyễn Công Trứ quan niện được mất là lẽ đương nhiên ở đời vì thế không có gì phải vội vàng hốt hoảng. Cũng như khen chê là chuyện bình thường, có gì mà phải bi quan sầu muộn, hãy phơi phới như ngọn đông phong. Vì thế, phải sống đúng với con người thật của mình, làm những điều mình cho là đúng, là thích, là cá nhân, “ngất ngưởng” khác đời.

Nhưng trong bối cảnh thực tế lúc bấy giờ, một xã hội hà khắc, lắm tục lệ, nghi lễ gò bó con người, vì thế khi quan niệm sống “ngất ngưởng” khác người, khác đời của Nguyễn Công Trứ là một thách thức cũng như có những ánh mắt nhìn lại thường của người đời. Tuy nhiên, nếu người đọc khi đi vào tìm hiểu sâu sẽ thấy sự khát khao mãnh liệt muốn khẳng định cái tôi của chính mình. Dường như ông muốn phản kháng lại cái xã hội bóp nghẹt sự sống của con người. Là người ý thức được tài năng, phẩm giá của bản thân nên trong bài ông đã tự ví mình với bao danh tướng từ đời Hán đến đời Tống “Chẳng Thái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú”. Thế nhưng, trước cảnh nước nhà, ông luôn đau đáu, hướng về nước nhà với một tấm lòng thủy chung: “ Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn sơ chung.” Câu thơ thể hiện một niềm cảm động và vang lên như một lời thề son sắt.

Kết thúc bài thơ, tác giả buông một câu lấp lửng “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!” Câu thơ hiện lên vừa khẳng định, vừa thể hiện sự ca ngợi, tự hào, lời tự bạch của ông, hay lời nhận xét của người đời, hay đó chính là một lời chế giễu đầy ẩn ý. Như vậy, người đọc có thể thấy được cái tôi của chính tác giả được thể hiện trong cách “sống ngất” ngưởng của ông. Nhưng có thể thấy được rằng, Nguyễn Công Trứ là một người có thực tài, danh thực mới đĩnh đạc tự xếp vị thế mình trong lịch sử và phải “vẹn đạo vua tôi”. Từ “tay ngất ngưởng”, “Ông ngất ngưởng” để người đọc nhận ra được khí chất tài hoa của ông, một phong cách sống tài hoa, tài tử, không vướng tục cũng không thoát li, để từ đó tạo nên cái tôi của mình rất Nguyễn Công Trứ.
 
Top Bottom