nè nè zô đây nè!!!! cần gấp

D

diemhang307

làm một bài nghị luận nói về tình thầy trò
mình cần gấp lém!!! giúp nha mấy pồ@_@


“ Tháng năm lặng lẽ vơi đầy,
Con về tìm lại tiếng Thầy năm xưa.
Ngọt ngào như thuở ấu thơ,
Những lời thầy giảng bây giờ chưa nguôi. “
( Trích “ Lời Thầy” – Trần Mai Phương )
Tình cảm thầy trò là một tình cảm rất đẹp giữa người đứng trên bục giảng và học trò.Tình cảm ấy như một bông hoa mang màu sắc êm đềm mà Thượng đế dành tặng cho những ai đã và đang cắp sách đến trường.
Con người từ nhỏ đã được cắp sách đến trường,học hỏi những kiến thức mới lạ.Chính thầy cô là những người cung cấp tri thức,phương pháp học tập,kinh nghiệm sống và những phẩm chất cần phải co ở con người cho ta.Thầy cô cho đi nhưng không đòi hỏi phải nhận lại bất kì thứ gì.Người như cha mẹ thứ hai cùa ta.Hiểu được sự cao cả,đẹp đẽ của tình thầy,những người học sinh năm xưa bây giờ đã thành đạt,không hề quên đi tình nghĩa,công ơn giáo dục cao cả của thầy cô.Họ luôn nhớ và thực hiện những công việc đơn giản như : tặng hoa,gửi những lời chúc thật chân thành hay về trường cũ,....Những việc đơn giản ấy lại là những món quà tinh thần của thầy cô trên con đường dạy học của mình. Thế nhưng, bên cạnh đó cũng không ít những đứa học trò luôn quậy phá không chăm lo học hành, luôn để thầy cô, cha mẹ phiền lòng.Và nếu như thế, những con người không biết nghĩ đến công ơn thầy cô dạy dỗ ấy sẽ khó mà thành công được trên đường đời và kết quả là sẽ trượt dài trong thất bại. Nhưng nếu biết và trân trọng tình thầy cô mà cố gắng vươn lên, thành công và vinh quang sẽ nằm gần tầm tay ta
Qua những năm tháng ngồi ở ghế nhà trường, chúng ta khó có thể quên được những kỉ niệm, gương mặt thân thương của thầy cô cùng với sự tận tình trong những bài giảng. Tình cảm giữa thầy và trò sẽ mãi chiếm một góc trong lòng mỗi con người và sống cùng năm tháng.
 
T

thuyan9i

MỘT CÁCH LÝ GIẢI VỀ SỰ HỌC VÀ VỀ TÌNH THẦY TRÒ



Lại Nguyên Ân





Lâu nay trong xã hội ta, nhất là trong đời sống ở các đô thị, đề tài về sự ứng phó với giới nhà giáo không còn chỉ là chuyện của học sinh sinh viên mà đã thành mối bận tâm thường trực của các bậc cha mẹ, của toàn xã hội. Những gương giáo viên tận tụy với nghề thì vẫn có, song, những lời kêu ca từ cha mẹ học sinh về những khoản đóng góp có tên và không tên cho nhà trường và thầy cô, những tin tức về mua điểm, về chạy lớp chạy trường, v.v…lại nổi trội hơn. Lương giáo viên nhìn chung vẫn thấp nhưng không ít thầy cô đã giàu hẳn lên, nhờ những nguồn thu ngoài lương như luyện thi hoặc tham gia các vụ chạy điểm chạy trường chạy lớp…Trong mắt người dân, nhất là dân đô thị, nghề giáo viên từ chỗ là nghề “ốm đói”, “lương ba cọc ba đồng”, trở nên nghề dễ kiếm tiền, và do đó trở nên nghề cao giá hơn trước, nhưng trong cư dân cũng thấy giảm dần niềm tin vào tính mô phạm, vào đức độ của giới nhà giáo; khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” thường gặp nơi khuôn viên các trường học, đang lộ ra những nét mỉa mai… Vậy thì nên nghĩ thế nào về người thầy, về nghề giáo viên? về quan hệ thầy trò trong đời sống hiện tại?



Tôi muốn nêu lại một sự lý giải − mà theo tôi rất đặc sắc tuy không dễ nghe − về sự học và về điều vẫn được gọi là “tình thầy trò” trong xã hội. Sự lý giải này là của Phan Khôi (1887-1959), một tác gia vốn nổi tiếng về sự thẳng thắn, “thiết diện vô tư” trong ngôn luận.



Quan hệ thầy trò nảy sinh là do ở xã hội con người nảy sinh sự học, − tức là hoạt động tiếp nhận, đào luyện tri thức và kỹ năng; “sự học” trong ý niệm của các lớp người trước còn mang nghĩa rộng hơn, trỏ hoạt động học thuật, tức là hoạt động nghiên cứu, phát minh, sáng chế, bổ sung và làm giàu các nguồn tri thức và kỹ năng.
Ở nước ta, sự học xuất hiện từ việc tiếp nhận chữ Hán và Khổng giáo, − hai thứ ban đầu không tách rời nhau. Sự kiện Sĩ Nhiếp, một viên Thái thú do triều đình phương Bắc cử đến trị nhậm đất này, được hậu nho người Việt tôn xưng “Nam Giao học tổ”, là minh chứng về nguồn gốc nêu trên của sự học ở nước ta. Nền học thứ nhất hiện hữu trên đất Việt suốt gần hai ngàn năm chính là Hán học (chữ Hán, Khổng giáo, văn hoá Hán); chỉ từ cuối thế kỷ XIX mới xuất hiện nền học thứ hai, được gọi là “Tây học” (ngày nay hẳn có những người muốn gọi khác đi tuy chưa thấy ai quyết liệt lên tiếng).
Trong một bài viết đăng báo năm 1931, Phan Khôi lưu ý rằng cái mà ở ta gọi là “Hán học” hoặc “Nho học” đó vốn có hai phương diện khác nhau:
Một là cái học về nghĩa lý, tức là cái học của thánh hiền; một nữa là cái học về từ chương khoa cử, cũng kêu là tục học. Hồi Khổng Mạnh bắt đầu đề xướng ra, nguyên chỉ có cái học nghĩa lý mà thôi; đến sau lần lần một ngày một sai đi, mới thành ra cái học từ chương khoa cử”. (1)
Theo Phan Khôi, “cái học nghĩa lý” bao gồm: một phần lớn là cái mà ngày nay gọi là triết học, “xét về bản thể của vũ trụ, cùng tính mạng đạo đức là cái cần thiết cho sự sống của loài người”, (1) bên cạnh đó có một phần là cái học tu thân, “dạy về sự làm người cho đúng đắn”, (1) và một phần nữa là cái học kinh tế, “dạy về chánh trị kinh tế, cái cách để trị nước và an thiên hạ”; (1) ngoài ra, tất cả những lĩnh vực tri thức mà người xưa gọi là “kinh học”, “sử học”, “lý học”, “đạo học”, v.v…, theo Phan Khôi, đều thuộc “cái học nghĩa lý”.
Từ triều Hán trở đi, các vua Trung Quốc dùng khoa cử để chọn người cho bộ máy cai trị.
“Ban đầu cũng do theo cái học nghĩa lý của thánh hiền làm tiêu chuẩn, hễ ai tinh thông nghĩa lý thì được trúng cách, tức là thi đậu; nhưng sau rồi mỗi ngày mỗi sai đi, mà cái học khoa cử đi một đường, còn nghĩa lý đi một đường. Khi họ bỏ quên nghĩa lý rồi, chỉ chuyên trọng về mặt từ chương. Từ chương tức là làm từ phú văn chương cho hay cho đẹp, lấy đó làm tiêu chuẩn cho sự thi cử. Vì vậy nói luôn là từ chương khoa cử”. (1)Ở Trung Quốc suốt thời trung đại, − Phan Khôi nhận xét, − thời nào số đông sĩ phu cũng chuộng cái học khoa cử nhưng thời nào cũng vẫn có không ít người theo đuổi cái học nghiã lý. Có những người vẫn theo đuổi mục tiêu thi đậu làm quan đồng thời “còn muốn cái thân của mình có quan hệ đến xã hội đời sau, muốn vậy thì duy có gieo mình vào cõi học mới được; cho nên có nhiều người đã làm đến bậc đại thần, công danh rực rỡ, mà cũng còn chen chân vào đám học giả mới nghe”.(1) Lại có “những người cả đời theo học vấn mà nhất định không thèm thi cử, không thèm tranh cái danh tầm thường với đời, chỉ chăm một đường khảo cứu trước thuật, hiến thân cho sự học”.(1) Tóm lại, “sĩ phu dầu bị cái học khoa cử làm hư đi cũng nhiều, song cái học nghĩa lý của thánh hiền đời xưa vẫn không đến nỗi mờ tối” (1) – đó là nhận xét của Phan Khôi về Nho học hay là cái học cổ truyền ở Trung Quốc thời cổ và trung đại.Chính Hán học là nền học thứ nhất đã từ Trung Quốc truyền vào nước ta. Hán học ở Việt Nam thời Bắc thuộc, theo Phan Khôi, tựu trung mới chỉ là lối giáo dục “chấm câu”(tức là lối dạy lối học qua loa, giống như bài văn chỉ chấm câu mà không khuyên điểm),
cái học nghĩa lý của thánh hiền thật chửa thấm khắp trong óc người mình chút nào”. “Học “chấm câu” như vậy non ngàn năm, đến lúc nước mình độc lập, lại vội vàng lập ra ngay phép khoa cử. Từ đó Hán học ở nước ta chỉ biết có từ chương khoa cử mà thôi, không hề biết đến cái học nghĩa lý.
 
T

thuyan9i

Theo lịch sử Việt Nam thì có hai thời kỳ mà người ta cho là Nho học rất thịnh, là hồi triều Lê và triều Nguyễn […] Nhưng thịnh đó là chỉ thịnh về đằng từ chương khoa cử; nếu bảo rằng Nho học thịnh thì oan cho Nho học lắm, vì Nho học tức là cái học nghĩa lý, mà ở nước ta nó hầu như không có”(1)

Nguyên nhân tình trạng lệch lạc này trong sự học ở nước ta, theo Phan Khôi, là quan niệm của người nước ta về sự học.

“Người mình coi sự học cũng như cục gạch để gõ cửa, khi cửa mở ra rồi thì cục gạch ném đi. Cái học của ta là để gõ cửa giàu sang, khi giàu sang rồi thôi không nói đến học nữa”. (1)



Quan niệm này, theo Phan Khôi, vẫn còn được người nước mình duy trì trong nền học mới, tức Tây học: “Hiện ngày nay Tây học cũng chia làm hai như vậy; một cũng là cái học nghĩa lý; một nữa lại là cái học “kiếm cơm”. Nếu ngày nay ta chỉ chuyên theo cái học kiếm cơm thì nó cũng sẽ di họa cho ta như cái học từ chương khoa cử ngày xưa vậy”.(1)
Nhận định như trên về nguồn gốc và đặc tính sự học ở nước ta của Phan Khôi là nhất quán với (và là cơ sở cho) nhận định về quan hệ thầy trò, − điều mà ông đề cập trong một bài khác, cũng đăng báo năm 1931.
Không chiếm riêng một “luân” nào trong “ngũ luân” của Khổng Mạnh (quân thần; phụ tử; phu phụ; huynh đệ; bằng hữu), quan hệ thầy trò chỉ thuộc về luân “bằng hữu”, nhưng từ xưa vẫn được xem trọng. Ba đấng “quân, sư, phụ” (vua, cha, thầy) được người ta thờ kính như nhau. Cái nghĩa của quan hệ này được gói trong sự “thi” và “báo”: thầy thi ân, ban ơn tác thành (về học vấn, về năng lực, phẩm cách…) cho trò, trò báo đáp cái ơn tác thành ấy của thầy; hai hành vi của hai phía là tương ứng, tuỳ thuộc lẫn nhau.
Ở ngọn nguồn của Nho học, thầy dạy trò không chỉ bằng sách vở, tư tưởng, mà còn bằng chính con người mình.
Ông thầy nào có hoài bão cao, đạo đức lớn mà được người học trò hiểu cho mình, làm theo mình, thì sự quan hệ với nhau lại còn đặc biệt hơn những trò khác”.(2) “Sự tương tri tương đắc của thầy trò nó cũng thân thiết như là vợ chồng bậu bạn. Nhiều khi cha con không hiểu nhau mà thầy trò lại hiểu nhau. Giữa cha con thường có một cái gì mà như bức tường để ngăn trở sự hiểu nhau; chớ còn thầy với trò mà đã vừa ý nhau rồi thì không còn bức tường ấy nữa, tương tri tương đắc thì thật là tương tri tương đắc. Thầy trò mà đến bậc ấy thì khi một người chết đi, trong lòng người kia mang một cái vết thương trọn đời, chớ không những tâm tang ba năm mà thôi” (2)
Những quan hệ như giữa thầy Khổng Tử với trò Nhan Uyên thời cổ đại, giữa trò Phí Mật (1625-1701) với thầy Tôn Kỳ Phùng (1585-1675) thời trung đại mà nét đặc trưng là sự tương tri tương đắc với nhau về học thuật và đạo lý, được Phan Khôi nêu ra như hai ví dụ về tình thầy trò trong “cái học nghĩa lý”, “cái học của thánh hiền”.

Ở thế giới hiện đại, có lẽ chỉ có quan hệ giữa người phát kiến, đề xướng một xu hướng, một trường phái, một lý thuyết, một phương pháp, v.v…với những môn đồ kế thừa và phát triển chúng, − mới có sự tương ứng phần nào với quan hệ “sư đệ” trong cái học nghĩa lý xưa kia, như Phan Khôi hình dung.Tuy nhiên, theo Phan Khôi, cũng ngay từ xa xưa,
“Sau đức Khổng, trong cõi học bị văn chương khoa cử choán mất rồi thì đạo thầy trò cũng kém xưa. Lúc bấy giờ chỉ là mấy anh thợ làm văn truyền nghề cho những thợ bạn của mình, chớ không còn phải là thầy trò. Không có cái hoài bão cao, đạo đức lớn nêu ra, thì lấy đâu có được sự tương tri tương đắc? Anh thợ làm văn ấy chết thì còn thiếu chi anh thợ làm văn khác; có điều đã theo Nho giáo thì cũng làm ra bộ tâm tang cho có, chớ thiệt tình, trong lòng họ chẳng có cái gì là cái vết thương. Hồi nhà Đường, Hàn Dũ than thở mà nói đời nay không còn sư đạo nữa, thật không phải là quá đáng vậy”.(2)
Quan hệ thầy trò trong lối học khoa cử, theo Phan Khôi, là khác hẳn quan hệ ấy trong cái học nghĩa lý,

Vì trong cái học nầy, thầy chỉ dạy cho trò làm văn hay để thi đậu làm quan mà thôi; so với bên kia vì nghĩa, bên nầy vì lợi, không thể đồng nhau”. (2)
hận định về sự học ở nước ta từ khi du nhập Hán học, Phan Khôi cho rằng:



“Nói đến sự thầy trò nước ta thì phải thú thật rằng chưa hề có thứ thầy trò như Khổng Tử với Nhan Uyên, Tôn Kỳ Phùng với Phí Mật, mà đều là hạng thầy trò trong cái học khoa cử cả”.(2)



Thời kỳ khoa cử Hán học còn thịnh tại Việt Nam, ở các trường cuả các thầy đồ, học trò thường lập những hội “đồng môn”: các hội này có vốn, có hoạt động làm cho vốn sinh lợi, trước để cung cấp nhu cầu đời sống cho thầy, sau cũng chi phí cho sự vãng lai thù tạc trong đám trò với nhau. Nhiều hội đồng môn làm nhà cho thầy, đặt đất hương hoả cho thầy, và sau khi thầy mất thì giữ ngày cúng giỗ như giỗ cha mình vậy. Tục lệ này được xem là một cái tục rất hậu.



“Người ta cho là tục hậu; hậu thật. Nhưng tôi xin hỏi: cái tục ấy có ích gì cho đời không? Có ảnh hưởng gì đến học giới không? Hỏi sao từ xưa đến nay, mấy ông thầy nước ta không tác thành ra thánh hiền mà chỉ tác thành ra ròng những quan lớn? Thầy tác thành ra một đống quan lớn nên người được tác thành đền đáp như vậy cũng phải; song xét kỹ thì chỉ là lấy lợi ban ra, lấy lợi trả lại đó thôi, chớ có gì đâu mà khen ngợi trầm trồ!” (2)



Rất có thể có không ít người trong hoặc ngoài giới nhà giáo, cả trong thời Hán học xưa kia lẫn trong học chế ngày nay, không tán đồng sự phân tích nêu trên của Phan Khôi. Tuy nhiên, bình tĩnh lại, ta sẽ thấy sự phân tích ấy khá phù hợp với lẽ phải.



Hãy tạm gác lại chuyện “học” trong các nhóm phái văn hoá hay khoa học thời hiện đại.

Ta hãy chỉ nói đến sự học ngày nay ở hai hệ thống: phổ thông và chuyên nghiệp (đại học, cao đẳng, trung học, dạy nghề); sự học ở đây rất hợp với chữ “tục học” mà Phan Khôi đã gọi tên. Ở hai hệ thống này, cả hai thành phần là người học và người dạy đều tham gia hoạt động giáo dục theo nguyên tắc lợi ích.

Người học (học sinh, sinh viên, học viên…) tham gia hoạt động giáo dục để được trang bị những tri thức và kỹ năng nhất định; chính vì lợi ích ấy, người học phải đóng góp tài chính để góp phần tạo nguồn kinh phí trả lương cho người thầy, trang trải phí tổn và duy trì cơ sở đào tạo, v.v.



Người dạy tham gia hoạt động giáo dục với tư cách người hành nghề. Dạy học là một nghề trong các loại nghề. Những phẩm chất như trình độ tri thức (về lĩnh vực mình giảng dạy), nhân cách đạo đức, v.v…, cần được xem như những điều kiện cần có để được phép hành nghề.



Nguyên tắc lợi ích vừa nói ở trên chính là cơ sở của các hoạt động giáo dục đào tạo trong đời sống hiện đại; nguyên tắc ấy hoàn toàn tương ứng với nguyên tắc “lấy lợi ban ra, lấy lợi trả lại” mà Phan Khôi rút ra từ thực chất của cái học khoa cử thời xưa. Nhưng sự “thi”(ban ơn) và “báo” (đền ơn) song phương ở quy mô cá nhân hoặc nhóm nhỏ xưa kia (một ông thầy với nhóm “hội đồng môn” gồm các thế hệ học trò từng thụ giáo ông ta), trong hoạt động dạy và học ngày nay, đã được thể chế hoá ở quy mô toàn xã hội; người dạy thực thi việc truyền thụ kiến thức và kỹ năng là ở quy mô xã hội, tuy người ấy dạy cho những người học cụ thể; người học trả công cho người dạy thông qua lệ phí, học phí đóng cho nhà trường hoặc cơ sở đào tạo, tức là thông qua những “đại lý” của ngành giáo dục và đào tạo; những dạng thức “báo đền” trực tiếp (quà biếu, tiền bạc…) đều là dấu hiệu “có vấn đề”.



Sự học trong đời sống hiện đại đã vận hành theo nguyên tắc lợi ích, đã được thể chế hoá ở quy mô toàn xã hội như vậy, thiết tưởng ta cũng nên hiện đại hoá quan niệm về quan hệ thầy trò. Đó chỉ nên xem là quan hệ chuyển giao tri thức và kỹ năng giữa con người với nhau, một sự chuyển giao đã được tổ chức thành những thiết chế xã hội. Những tri thức hoặc kỹ năng được chuyển giao đó không phải là vốn riêng, sở hữu riêng của người “giao” (= người dạy) mà là vốn chung, sở hữu chung của cộng đồng (nhân loại, dân tộc). Quan hệ tình cảm giữa lớp người “giao” và lớp người “nhận” là có, có một cách tự nhiên, nhưng không nên thần thánh hoá vai “thầy” và chế định ra những bổn phận quá đáng cho vai “trò”. Những quan niệm thông tục cũ, từng được đúc vào những mệnh đề như “nhất tự vi sư bán tự vi sư” (= người dạy cho mình một chữ hay nửa chữ, mình cũng phải xem là thầy), cần được coi như những định kiến hạn hẹp. Ngay khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn”, vốn là châm ngôn của Nho học, cũng không diễn đạt đúng tinh thần “vừa dạy kiến thức vừa làm hình thành nhân cách” của nhà trường hiện đại.



Trong đời sống hôm nay, học tập là một phần việc mà mỗi người phải theo đuổi suốt đời; ai cũng phải học và ai cũng có thể truyền thụ cho người khác được ít ra là một vài hiểu biết hay kỹ năng nào đó. Vậy mà, mỗi người chuyên làm nghề dạy học chỉ có thể “làm thầy” ở một môn học nào đó, trong một thời điểm nào đó, và cũng phải thường xuyên cập nhật những cái mới trong chuyên môn của mình thì mới duy trì được vai trò nghề nghiệp của mình; tức là trong thực chất, khả năng “làm thầy” thiên hạ bao giờ cũng rất hạn hẹp.



Ở đời sống hiện đại có rất ít bậc thầy đúng nghĩa, ở đời sống hiện đại không tồn tại thánh hiền.

Quan hệ thầy trò thời nay, thiết nghĩ, nên đặt trên một quan niệm thoáng như thế.


THAM KHẢO THUI
 
D

diemhang307

Đọc lấy cảm xúc các bạn :



Đó là một buổi chiều mưa sụt sùi. Cái rét cộng với mưa gió làm lũ học trò buồn nao lòng. Nhưng đó chỉ là lí do nhỏ, lí do chính đang làm buồn lòng các cô, cậu học trò là bục giảng đang vắng bóng thầy. Trò nhớ thầy, thầy nghỉ một tuần nay rồi. Thế mà thầy đến, dù mưa gió và dù rất lạnh. Sau một tuần, thầy nằm viện với căn bệnh quái ác, thầy già đi và gầy nhiều như cành bần trơ trọi giữa mùa đông. Tuy vậy, thầy bước vào lớp học và lớp như bừng lên một luồng sinh khí mới. Theo thói quen, thầy mở hộp phấn. Nhưng không phải là bắt đầu một bài giảng mới. Thầy viết lên bảng một con số. “Không! Không phải sỉ số lớp đâu!”. Cả lớp bừng tỉnh. Đúng rồi con số đó. Đó là cái thiếu hụt trên bảng và trong lòng học trò suốt cả một tuần nay. Các giáo viên khác không biết con số ấy có nghĩa gì. Nhưng những con số ấy lại đi vào nếp nghĩ của mỗi học trò. Thầy viết số 200. Cả lớp im lặng. Thầy nhắc những kỉ niệm với lớp, với từng thành viên. Thầy nói về chuyện đời, rồi thầy nói đến những con số. “Các trò ơi! Chỉ còn 200 ngày nữa là các trò ra trường rồi.” Lần đầu tiên, thầy viết lên bảng con số 300 rồi lùi dần đến 250 và đây đã là 200 rồi. “Mỗi ngày một trôi qua. Các trò có thêm được gì, mất đi những gì. Tất cả đều không quay trở lại. Nhưng thầy chỉ muốn nói với các trò rằng, thời gian không biết chờ đợi ai.” Rồi thầy nói tiếp. Thầy đã nghĩ đã được ở lại với các trò được 200 ngày nữa nhưng thầy đành phải chia tay với các trò sớm hơn 200 ngày. Lũ học trờ ngơ ngác. Vài bạn gái mắt đỏ hoe cả lên. Mưa nặng hạt dần. Sau đó, thầy phải nghỉ dạy vì bệnh nặng. Năm năm sau, lũ học trò lớp 12 văn ngày ấy, đã họp mặt lần đầu tiên tại phòng học cũ. Không thể mời thầy, thầy không còn nữa. Bóng lăng tròn vẫn đủ mặt. Họ lần lượt viết lên bảng những con số, những sự việc, bước ngoặt nhiều năm qua và nói về những con số của mình. Ai đó đã khóc và ai đó viết lên góc trái con số 200. Con số mà thầy chia tay lớp học ngày xưa.
 
B

baby_playgirl_26

trùi ui! cảm ơn tất cả rất nhiều, nhiều lém@
chúc các bạn thi tốt kì thi tốt nghiệp cấp 2 nhé!!!!!!
good luck#####
 
B

be_ngoc_kute_online

À nè bà con ơi giúp em coi nào.Tình cảm đồng chí và vẻ đẹp tâm hồn của người linh qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.nhanh nhanh lên nha.thứ 6 là phải co bài rùi đó.
 
T

thuyan9i

tham khảo nghe bạn
MB : người lính nông dân đi vào thơ ca mang tất cả vẻ đẹp có thật của họ làm cảm động lòng người mà ta tưng gặp trong ngôi " dều thiêng " " văn tế nghĩa sỉ cần giuộc " của nguyễn đình chiểu , trong " nhớ " của hồng Nguyên ..... Nhưng còn có bài thơ khác đã khắc họa hết sức sống động nét mộc mạc chân thật, đáng yêu và giau lòng yêu nước của người lính nông dân đó là " đồng chí " của nhà thơ Chính Hữu
TB : Cuộc kháng chiến chống pháp điểm gặp gỡ của bao người dân yêu nước . Chính họ mới đây thôi đã " rù bùn đứng dậy sáng lòa " Bằng cuộc cách mạng tháng 8 . Giờ đây hjọ lại sát cánh bên nhau thề quyết tử cho tổ quốc , quyến sinh . Hòan cảnh lịch sử mới đã khai sinh một tình cảnh mới . mội quan hệ mới mà trước đo họ chưa hề được biết " tình đồng chí " Chính Hữu đã ghi lại tình cảm cao quý và mới mẻ ấy b ằng những dòng thơ mộc mạc chân thành . Bài thơ mở ra bằng những câu thơ mang vẻ tâm tình
" quê hương anh nước mặn đồng chua
làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
anh với tôi đôi người xa lạ
tựa phương trời chẳng hẹn quen nhau
Đúng vạy nếu không có cuộc chiến tranh này nhữung người lính làm gì có thể gặp dược nhau . Mỗi người mỗi cảnh mỗi vùng quê khác nhau họ là nhưng người xa lạ . Ấy thế mà dẫu chẳng hẹn nhưng họ lại gặp nhau cùng một đội ngũ , cùng một chiến hào . Họ đến với nhau bằng những lời giơiứ thiệu về quê hương minh . Đối với người việt kiểu thăm hỏi giới thiệu này giúp ta tự nhiên hơn gần gũi nhau hơn . tác giả tuy giới thiệu rõ địa danh nơi cư ngụ của tunừg ngu ười nhưng hình ảnh " nước mặt đồng chua " gọi đến một vùng đất ven biển ngập rừng quanh năm ., còn lòng tôi" đất cày lên sỏi đá " là vùng trung dung khô cằn đất đai thiếu màu mỡ . Tuy nhiên dù là miền xuôi hay miên ngu ược thì những người nông dân mặc áo linh náy đe èu có chung 1 cái nghèo . Chính vì cũng nghèo cùng cơ cực mà họ dễ cảm thông mà chia sẻ buồn vui cho nhau song việc họ có mật đòan vệ quốc dân không phải do cái nghèo mà do tình yêu nước sâu sắc . Ông cha ta đã mang trong mình dòng máu yêu nước đến lượt họ . Tổ quốc có xâm lăng tình thần yêu nước lại nồng nàn mạnh mẽ hơn bao giờ hết .Khiến học đến bên nhau ghép thành một sức mạnh nhấn chìm bọn cưới nước và bán nước . Hòan cảnh sinh hoạt và chiến đấu đã làm cho tình bản của họ nảy sinh
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chi!
Hình ảnh đêm rét chung chăn làm ta nhớ đến motọ bài ca dao vui về người chính sĩ trong những ngày đấu chống pháp . " 3 thằng 1 cái chăn bông ... " " đêm Việt Bắc thì quá rét mà chăn bông thì quá nhỏ nên 3 chàng cứ loay hoay mà mà chã đủ ấm . Đắp được chân thì hơ đầu đặp được bên này thì hở bên kìa . Cuối cùng " cái khó ló cái không " " 3 thằng quặt chặt gió lùa vào đầu " chính trong những nàgy thiếu thốn khó khăn ấy , từ " xa lạ " họ đa trỏ thành chiến hữ của nhau . Tri kỹ thật tự nhiên thật cảm đồng . Từ trong tâm cảm của hộ bỗng bật thôts lên 2 từ " đồng chí " . Ai mà chã biết đồng chí là cùng chung chi hướng cùng mục đích . CÙng lí tưởng nhưng tình cảm ấy một khi có được thì cái cốt lõi là tình " tri kỷ " lại được thử thách . được rèn luyện trong khó khăn thì mới thật sự bền vững . Phía sau những câu thơ nói về gió , về rét , lặng lẽ chảy một ngọn lửa ấm nóng của tình đồng chí đồng đội . Nói rộng ra 2 tiếng " đồng chí " còn có ý nghĩa của 1 tiếng liên thàm vi trong tận cùng gian khổ ý nghĩa đích thức của tình cảm này mới được bộc lộ một cách đầy đủ nhất . Có thể liệu từ " đồng chí " đứng tác ra như 1 khổ thơ riêng . Nó là sự kết tinh của cảm xúc dâng trào của những câu thơ thước và khởi đầu cho những câu thơ tiếp theo
Ruộng đồng nương tôi gửi bạn thân cày
Gian nhà riêng mặt kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người đi lính
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sót run người vầng tráng ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miền cười buồn giá
Thân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
ĐỌc bài thơ là sự sống đôi của hình tượng " anh và tôi " cái tình tri kỷ cái hứoi âm đồng chí được bắt qua sự sống đôi có ý nghĩa bổ sung ấy . Từ những câu thơ nói về gia cảnh về cảnh ngộ đến đây ta lại bắt gặp motọ sự thay đổi lớn lao trong quan niệm của người chiên sĩ . Họ để lại sau lưng mảnh đời quê hương với những băn khoăn trăn chở để cùng " ra lính " " ruộng nương " đã tạm gởi cho bạn thân cày " gian nhà không " tài sản nghèo đơn sơ ấy để mặc cho " gió lung lay " siêu vẹo . Lên đuờng đi chiến đấu , người lính chấp nhận sự hi sinh , tam gác sang 1 bên những tính toán riêng tư là đứa con của quê hương , thời bình các anh cầm cuốc cầm cày xây dựng cuộc sống , còn thời chiến thì cầm súng để bảo vệ tuổi quốc quê hương . Hay theo mùa xuân nho nhỏ của tố hữu thì đó chính là lộc của họ . CHo nên không phải ngẫu nhiên mà " giếng nước gốc đa nhớ người ra lính " Làng xóm quê hương hậu phưuơng nhứo các anh là truyền thêm sức mạnh để các anh " chân cứng đã mềm " Đây là câu thơ liền nổi bật 2 chiếu " tiền tuyến nhớ hậu phương . hậu phương phó tiền tuyến " Như vậy tình đồng chsi đã được tiếp thêm sức mạnh với tình yêu đất nước . CÒn trong hiên tại đang có chung kry niệm còn sốt rét nơu rừng sâu . Cùng chịu chung sự thiếu thốn " áo anh rác vai " " quần tôi có vài mảnh vá " " chân không giày .. " Tất cả những khso khăn gian khổ được tái hiện bằng nhữung chi tiết hết sức chân thật không một chút tô vẻ . Ngày đầu của cuộc kháng chiến quân đội cụ hộ mới được thành lập nên còn thiếu thôn trăm bề . Hìn hảnh người lính của chính hữ trong một bài thơ khác " ngày về " làm ta chao lòng
" Rach ta tới rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trưởng dinh phai bạc áo hào hoa
Tẩm lăng kề mãi đến khi già
Phơi gió vui với muôn ngàn cơ hội
Có thời có người đã cho những người coi như câu trên là ủy mị nhưng thực ra nó mang vẻ đẹp lãng mạn chân thật về những người lính dám xả thân vì nghĩa lớn Thế nhưng nó lại không có sức lay động người đọc bằng cái thật trog baì đồng chí . Cùng hướng về 1 lí tưởng cùng nếm sự khắc nghiệt của chiến tranh , người lính chia sẻ cho nhau tình thưonưg yêu ở mức tột cùng " thương nhau tay nắm lấy bàn tay " những bàn tay đã tìm đến nhau truyền thêm sức mạnh vào niềm tin cho nhau đã làm rạng rỡ lên nụ cười lạc quan dẫu rằng gió buốt lạng . Nhà thơ đã phát hiện rất tinh tế các nội lực tinh thần ấy trên cơ sở cảm thông và thấu hiểu sâu sắc lẫn nhau để tạo nên chiều sâu và sự bền vững của thứ tình cảm thầm lặng nhưng rất dỗi thiêng liêng này
Những câu thơ cuối bài đã hoàn chỉnh 1 cách xuất sắc bức chân dung người chiến sĩ mộc mạc giản dị mà khỏe khoắn , can trường
" đêm nay rừng hoàng sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Đó là những câu thơ có giá trị tạo hình rất cao vẫn là " rừng hoang sương muối cái gió rét cứ đeo đủôi người chiên sĩ nhunưg không cản dược họ đứng cạnh bên nhau . Tư thế chờ giặc tới " là tư thế hòan tòan chủ động . Trong khung cảnh ấy đột nhiên một từ thơ lạ độc đáo hiện lên " đầu súng trăng treo " trong bài thơ xưa đã từng có cảnh trăng treo đầu nuối
" Non kỳ quanh quê trăng treo
Bến phì gío thổi đìu hiu mấy gò "
( chinh phụ ngâm )
Trăng đầy núi đầy nhưng sao mà thê lương ảm đảm đén mức " quạnh quê " " đìu hiu " Thơ chính hữu hòan toàn khác Biểu tượng " đầu súng trăng treo " là một biểu tượng đậm chất lãng mạn và khỏe khoắn . Cái ảo và cái thực hòa ghép với nhau tạo nên một liên tưởng bất ngờ kỳ thú . Câu thơ kiểu 4 chữ nhưng hết sức lay động . Cây súng trong tay người chiến sĩ tượng trung cho hòa bình ngừơi lính cầm súng là bảo vệ cho quê hương " cho giếng nước gốc đa " của tổ quốc và cho cả vầng trăng thơ mộng kia nữa. Từ 2 hình ảnh " trăng " và " súng" tưởng như đối lập nhau nhưng qua cái ảo để ở bên nhau 1 cách hợp lí không hề viễn tưởng . Vẻ đẹp của tình thana chiến đất , chất thơ của chính hữu hội tù hài hòa trong 1 biểu tượng thật đẹp đẽ . có lẽ đó là lý do mà nhà thơ đã đặt tên cho nhân đề tập thơ đầu tiên của mình là " Đầu súng trăng treo "
KB : Đồng chí mang vẻ đẹp riêng của người lính nông dân đó là vẻ đẹp mộc mạc giản dị nhưng hết sức thiêng liêng gắn bó sâu sắc giữa số phận cá nhân với số phận chung của dân tộc . Bài thơ hòa thêm với dàn đồng ca vang đời của văn học thơi kỳ là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng .Bài thơ cũng đã góp phần tô điểm thêm vườn thơ Việt Nam thêm 1 đóa hoa mộc mạc mà cao đẹp quá
Nhớ
" lũ chúng tôi
bọn người tứ xứ
gặp nhau hồi chưa biết chữ
quen nhau từ buổi 1 2
Hồng Thương
Lấy ý chí thắng thiên nhiên
Gập đâu ôm chẳng thuốc men cũng xòang
Tố hữu
Đêm mưa rình giặc ta thao thức
Mùa lạnh mùa rét nhức xương
Nguyễn Đình Thi
Người đi đâu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Cảm nghĩ về đoạn 1 của bài đồng chí
Đoạn thở mở đầu giới thiệu làng quê của 2 người lính xuất thân từ nông dân khiến em bồi hồi xúc động Trước hết đó là sự xúc động trước cảnh nghèo khó của những mảnh đời cơ cực không phải chỉ riêng 2 người lính mà còn là cuộc đời chung của bao nhiêu dân cày Nông dân chúng ta phải 1 nắng 2 sương nên những cảnh động ngập mặn . Phải đổ mồ hôi vì đất cày sỏi đã không màu mỡ thiếu phì phiêu Thế nhưng cuộc sống cơ cực không làm nghèo đi tình yêu nước Từ những phương trời xa lạ họ đã có chung 1 lí tưởng chiến đấu và nhất là có tình đồng chí sưởi ấm những đêm rét mướt nơi chiến trường Những ngày chiến đấu gian khổ đối mặt với quân thù Dòng thơ gồm 2 từ " Đồng chí ! " đựợc dùng làm điểm nhân trong bài thơ đã vang lên trong tâm hồn em tình cảm thương yêu thắm thiết đối với những người bồ đội cụ hồ trong những năm đầu kháng chiến chống pháp
Cảm nghĩ về đoạn 2
Đoạn thơ thứ 2 khiến em suy nghĩ nhiều về những người bảo vệ tổ quốc trong giao đoạn 9 năm kháng chiến chông pháo . Ai cũng có 1 quê hương với hình ảnh ruộng đồng thân thương với gian nhà tổ ấm của gia đình với giếng nước gốc đa đã từng in sâu bao kỉ niệm . Những người lính trong bài " Đồng chí " cũng yêu làng quê biết bao . Thế nhưng mà họ để lại tất cả ở quê nhà mà lên đuwofng giết giặc . Tình cảm yêu nước thiết tha khiên em vô cùng kính phục và tự hào vì tổ quỗc đã có những nguời con bình thường giản dị biết đặt quyền lợ tổ quốc lên trên tình cảm riêng tư. Cuộc sống mới chiến trường phải đối mặt với quana thù lại còn chống chọi với từng cơn sốt rét . Với sự thiếu thốn quan quân trang quân dụng " áo rách vài , quần có vài mảnh vá , chân không giày " Hiếm khi đọc lại những dòng thơ này ai trong chúng ta cũng dâng trài xúc động . Không còn hình ảnh nào tôn vinh và ca ngợi hơn
Cảm nghĩ về đoạn 3
Càng về cuối bài thơ tình cảm cua tác giả dành cho người chiến sĩ được dâng lên 1 cách trọn vẹn đầy đủ nhất " Đêm nay rừng hoang sương muối " Có thể hiểu rằng không phải chi đêm nay mà từng đêm biết bao nhiêu đêm người lính phải chịu đựng rét buốt với áo vải mong manh . Họ đứng sát cạnh nhau không rời bỏ vị vui chiến đấu . Vì ai mà họ phải vượt qua bao nhiêu khó khăn gian khổ ? phải thực hiện nhiệm vụ chờ giặc đến . Đó là vì quê hương dân tộc Em thất sự xúc động trước hình ảnh kết thúc bài thơ . Hơn nữa hình ảnh " Đầu súng trăng treo " lại gợi cho em cảm xúc dẹp đầy chất lãng mạng bay bổng của người lính . Chính Hữu là 1 cây bút tài năng đã để lại cho văn học việt nam 1 b ài thơ xúc động tình người và 1 hình tượng đẹp tồn tại trong thơ ca đó là hình tượng "đầu súng trăng treo"
 
Top Bottom