Văn 9 Mùa xuân nho nhỏ

ngocthuy@@@

Học sinh chăm học
Thành viên
23 Tháng mười 2017
20
2
54
21
Đồng Tháp
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1/ cảm nghĩ của em về nv ông 2
2/ nghi luận về nv anh Thanh niên
3/nghi luận nv ông 6 và bé thu
4/ nghi luận 2 khô thơ đầu Mùa xắn nho nhỏ
5/ nghi luận 2 khô thơ cuối bài Viếng làng Bác
6/ nghi luận bài Sang Thu
Mọi người tìm ý giúp em với ạ. Em cmơn nhiều
 

Nguyễn Thị Ngọc Bảo

Cựu TMod tiếng Anh | CN CLB Địa Lí
Thành viên
28 Tháng tám 2017
3,161
2
4,577
644
20
Nghệ An
Nghệ An
๖ۣۜɮօռìǟƈɛ❦
6/ nghi luận bài Sang Thu
Bài làm
+ Mở bài:
Mùa thu là mùa đẹp nhất trong năm nó đã là nguồn cảm hứng của rất nhiều các tác giả, để lại nhiều tác phẩm hay cho nền thi ca Việt Nam
– Từ “bỗng” thể hiện sự giật mình của tác giả khi mùa thu tới.
– Hương ổi, gió thu thể hiện sự tinh tế của tác giả khi sử dụng những hình ảnh gần gũi giản dị để miêu tả sự chuyển mùa.
– Phả, chùng chình tạo cảm giác sự chuyển động của mùa thu đang đến rất gần
– Nhẹ nhàng, lan tỏa, cảm giác không khí mùa thu đang bao trùm toàn bộ không gian, cảnh vật.
+ Khổ thơ thứ 2
Sử dụng biện pháp nhân hóa “sông dềnh dàng” thể hiện sự thay đổi chuyển động của mùa thu.
– Đối lập “chim vội vã” thể hiện sự đối lập giữa “dềnh dàng” và “ vội vã” cùng là một khổ thơ nhưng tác giả lại thể hiện những hình ảnh đối lập để miêu tả mùa thu sang. Nó thể hiện sự tinh tế trong mắt quan sát cũng như trong cách dùng từ của tác giả.
– Mây “vắt nửa mình” thể hiện sự nhân cách hóa đám mây giống như một nàng thiếu nữ đỏng đảnh đang đánh đu mình giữa sự chuyển mùa của đất trời.
+ Khổ thơ thứ 3:
– Sự đối lập “vẫn còn” và “ vơi dần” thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả. Bởi mùa thu không phải là mùa hè nhưng cũng chẳng phải mùa đông. Nó là sự giao thoa giữa hai mùa hè và mùa đông vì vậy những cơn mưa rào của mùa hè không còn nữa nhưng những tia nắng vàng tinh khôi thì vẫn còn ẩn hiện đâu đó khá nhiều.
– Hình ảnh những tia sấm là biểu hiện mãnh liệt cho mùa hè được giảm đi “ bớt bất ngờ” biểu hiện sự chuyển mùa. Tuy nhiên “sấm” cũng là hình ảnh ẩn dụ nhiều ý nghĩa thể hiện những khó khăn đang lùi xa, nó tương đồng với hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” thể hiện một người đã trưởng thành không còn lo sợ trước những khó khăn của cuộc đời.
– Từ sự hiện diện của mùa thu tác giả đã suy ngẫm về cuộc đời, con người.



Chẳng biết tự bao giờ, đất trời có mùa thu và cũng chẳng biết tự bao giờ, hương sắc mùa thu khiến cho các tao nhân mặc khách ngây ngất để phả vào mấy vần thơ. Tâm hồn con người luôn là một cây đàn muôn điệu với các "tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng đồng thướt tha” mà hoá công có thể diện tả được để gửi vào thời tiết. Đông mang đến sự héo hắt, bi luỵ, u sầu; xuân mang đến mầm sống cùng sự chuyển mình thần kỳ, hạ mang sức trẻ, sự sôi nổi, nhiệt thành; còn thu, thu e ấp gam màu trầm lặng với sự thơ mộng, lãng mạn. Nhưng cũng có lúc tâm hồn ta buồn vui lẫn lộn như một sự giao mùa, chuyển tiết Hè - Thu. Ít ai nhận ra cái chuyển tiếp đó. Và Hữu Thỉnh từng thấy được điều ấy một cách tình cờ để phả vào khúc " Sang thu”.
Xinh tươi bao giờ cũng thuộc về những buổi bình minh cây xanh nắng gội còn hoàng hôn mang đến cho ta nét trầm lặng, lãng mạn của một mùa thu vàng.
Đến rồi lại đi, tự nhiên là thế, mùa hạ đang trôi qua mau chóng nhưng dấu gót của nó vẫn còn phảng phất đâu đây trong hương sắc trời thu để ta phải lưu luyến bâng khuâng như một hoài niệm.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ.
Hình như thu đã về.

Mở ra bài thơ thường bằng một vài lời trần thuật, tự sự để dẫn ta vào mạch cảm xúc. Song ở đây, Hữu Thỉnh đã gợi ra cái ngỡ ngàng trong tâm trạng mình một cách đột ngột.
Bỗng nhận ra hương ổi.
" Bỗng" là một trợ từ nay lại được dùng làm từ mở ra một bài thơ thật bất thường. Nó gợi ra một sự ngạc nhiên đến tột độ. Dường như, thu đến với nhà thơ quá đột ngột, tình cờ trong vô thức. Song chính nhờ cái tình cờ của chữ "bỗng" ấy, Hữu Thỉnh mới nhìn vạn vật mang một vẻ đẹp đầy nên thơ, mơ mộng với những quan sát tinh tế đến từng chi tiết, góc độ.
Trời đã bước sang cuối hạ, hương ổi vẫn còn. Cái hương thơm nồng nàn của loại trái cây đương chín rộ đủ khiến ta ngây ngất. Chắc hương thơm ấy phải đậm lắm mới khiến cho thi nhân đang triền miên suy nghĩ phải lặng người mà tận hưởng mùi thơm ngào ngạt ấy. Rồi một làn gió heo may se sắt của mùa thu khe khẽ thoáng qua đời ta. Lả lướt, nhẹ dịu, mơn chớn khắp da thịt đó là cái sung sướng của những làn thu gửi đến cho ta:
Phả vào trong gió se
Một chữ “phả" kia thôi cũng đủ cho mùi thơm của ổi trở nên sánh lại, đậm sắc hơn. Hương sắc của hoa lá cỏ cây quện vào với gió rồi lan toả khắp không gian rợn ngợp thì còn gì thơm bằng. Mùi ổi như được gió thu tinh lọc để trở nên thanh khiết, cô quánh lại. Riêng hai câu thơ mở đầu đã mang lại cho người đọc cảm giác bâng khuâng xao xuyến trước sự giao thoa vô cùng tự nhiên mà quyến rũ của hè và thu.
Sương chùng chình qua ngõ
Hoà vào âm hưởng của sự chuyển tiết đó là những làn sương thu. Làn sương ấy mỏng tang giăng mắc khắp mọi nơi. Có lẽ, ta chẳng thể tìm thấy một manh mối nào của mặt đất không được sương bao phủ. Sương giăng trên vạn vật hay chính là giăng trong lòng người bao mối tơ vò. Một nỗi buồn vu vơ vì hạ đã qua để lại cho con người ta bao nỗi luyến tiếc. Hay đó cũng là tiếng reo vui chào khí thu đã về. Nhưng dù sao, hình ảnh làn sương được thi nhân miêu tả thật đẹp. Sương khói mùa thu buồn là vậy: bảng lảng, lờ đờ và nhè nhẹ đi qua tất cả. Với biện pháp nhân hoá, Hữu Thỉnh đã giúp cho sương có đôi chân cùng những bước đi nhẹ nhàng, chậm rãi khoan thai. Dường như, ngay cả tạo hóa cũng muốn sương đi chậm lại như một sự níu kéo những bước chân đều đều của khói thu tràn qua cổng ngõ thời tiết. "Chùng chình" một sự nhấn nhá đầy chủ ý, nó gợi ra thấp thoáng đâu đây bóng dáng một thiếu nữ thư ớt tha, yểu điệu qua biên giới mong manh của thời tiết. Danh từ "sương" đã được nhắc nhiều trong thơ ca từ trước đến nay và có ở khắp các mùa trong năm. Với "thi tiên " Lý Bạch, sương mang nặng sự héo hắt giá buốt của mùa đông ẩn vào trong khúc " vọng nguyệt hoài hương":
Nghi thị địa thượng sương
(Tĩnh Dạ Tứ)
Còn với Nguyễn Trãi, sương mờ ảo bất định với vẻ đẹp bí ẩn, " Cỏ xuân như khói”. Nhưng sương thu của Hữu Thỉnh thì thật giản dị, tiêu sơ nhưng lại gói gọn được cái bao điều thi vị.
Tất cả, tất cả mọi sự vật được gợi ra, bắt thi sĩ phải căng hết các giác quan và linh động tâm hồn nhạy cảm để phả vẻ đẹp đó vào vần thơ. Để rồi, chúng khiến cho ngay cả chúng ta có cái gì như ngạc nhiên lạ lẫm ngỡ ngàng từa tựa một điều phán đoán.
Hình như thu đã về
Thu đã về thật rồi sao, lại còn phải ngẩn ngơ? Phải chăng bấy lâu nay ta đã thờ ơ với nó để đến giờ ta cảm thấy lạc lõng khó có thể khẳng định được thu đã sang hay chưa. Mở đầu bằng một sự tình cờ “bỗng" và khép lại khổ thơ bằng cái "hình như”, Hữu Thỉnh gửi vào lòng người đọc sự thoáng chốc, bất giác về tiết lập thu cũng như cảm nhận, mơ hồ mong manh trong tâm thế về sự trở về của mùa thu.
Nếu như, thu trong khổ thơ đầu là không gian hẹp, thấp và gần cùng những cảm giác trong vô thức thì ở khổ thơ kế tiếp lại là một vẻ đẹp khác. Nó được mở rộng hơn, xa hơn và cao hơn. Có thể nói khổ thơ này mang tính logic, hợp với quy luật của dòng lâm trạng của Hữu Thỉnh trong bài thơ. Từ một phản xạ tự nhiên, nhà thơ đã định thần trở lại để ngắm nhìn thu sang:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.

Một sự cụ thể hóa đang diễn ra. Từ cái ngỡ ngàng, si mê, ngây ngất , tác giả dừng chân đứng lại, phóng tầm mắt ra xa để ngắm nhìn một cách lặng lẽ phong cảnh.
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã

Từ những tín hiệu của thu về, tất cả bỗng biến chuyển thành đất trời mùa thu/ Cái " hình như " ở câu thơ kết khổ một đã đánh dấu cột mốc cho thu về bằng nhiều hình ảnh quen thuộc. Dòng sông trải dài mênh mang và uốn lượn trên mặt đất. Con nước trôi êm ả không chút băn khoăn. Điều này thật khác với sông trong mùa hạ. Nước lũ dâng cao như muốn dồn tất cả vào bể nước. Vậy mà giờ đãy, con sông trở nên thong thả, yên ả với trạng thái nghỉ ngơi. Nó thật giống với quy luật của cuộc sống, khi hạ - sự cống hiến, sôi nổi nhiệt tình đi qua thì thu - trạng thái nghỉ ngơi sẽ đến. Hai chữ "được lúc" đã khiến cho sông trở nên có hồn: bắt nhịp được với cái lạch nguồn chuyển tiếp của đất trời, lặng lẽ, dềnh dàng....tất cả mang đến cho ta cái yên bình trong sự sống.
Nhưng chính điều đó đã dẫn đến một hình ảnh khác :"chim bắt đầu vội vã". Gió heo may se sắt đã tràn về sông hồn nhiên hơn cũng là lúc mùa rét đã tới. Những đàn chim di cư sẽ phải bay về phương Nam ấm áp để tránh rét. Cả chiều thu đã sang tới bến sông, vậy thì còn đợi gì nữa mà đàn chim chẳng vội vã đi nơi khác. Với biện pháp tương phản đối lập, nhà thơ khắc họa thật đậm nét sự biến chuyển của thời tiết. Song ở đây, ta cũng có thể thấy được cảm nhận tinh thế của nhà thơ qua mấy vần thơ. Đàn chim mới chỉ là “bắt đầu” chứ không phải là đang."Đang" thì thường quá. Hữu Thỉnh thật tài tình khi tìm thấy sự bắt đầu hiếm hoi khó có thể gặp được ấy. Và cũng bởi tất cả mới chỉ ở khởi điểm nên nó chưa thấm mệt mà hãy còn duyên dáng, nhẹ nhàng.
Có đám mây mùa hạ
Mở rộng đến tuyệt đối, con mắt thì sĩ như ngước lên nhìn đám mây trời. Đám mây bảng lảng giữa từng không của mùa hạ. Hai câu thơ là một ẩn dụ đẹp, ẩn dụ nhân hoá. Trước hết, tác giả nhân hoá mây trời cũng giống như người chỉ qua nhột từ “vắt". Trong thơ ca, có rất nhiều nhà thơ chỉ bằng một động từ đã làm nên một phép ẩn dụ giàu tính ước lệ, tượng trưng. ở đây cũng vậy, có lẽ, sắc trắng của mây mùa hạ đã quyện với gam màu vàng dìu dịu của hương thu. Phải chăng, cái ranh giới giữa mùa hạ và mùa thu mong manh lắm chỉ trong gang tấc, cái trôi lững thững của mây hạ đã dạt nửa mình sang thu. Nhưng thực chất, điều này nhằm nói tới sự giao thoa giữa hai mùa cũng chỉ ngắn ngủi trong khoảnh khắc.
Từ những đam mê say sưa trước sự chuyển mình của đất trời sang thu, thi nhân khép lại lòng mình để ngắm nhìn những sự vật xung quanh với những đổi thay sâu kín.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Thật tài tình, từ những sắc mùa của vạn vật, Hữu Thỉnh đã thu mình lại và ru hồn trong những trầm ngâm, suy nghĩ.
Vẫn còn bao nhiêu nắng . .
Nắng vẫn còn chứ không phải hoàn toàn. Nó đã vơi đi chứ không quá gay gắt chói chang như nắng hạ. Có lẽ nắng thu đã gởi lại cho hạ cái oi nồng mà e ấp trong mình sự nên thơ, lãng mạn cùng ánh vàng ngọt ngào như rót mật vào lòng người. Đó không phải là thứ ánh sáng leo lắt của "Mỗi lần nắng mới hắt bên sông/xao xác gà trưa gáy não nùng" (Nắng mới – Lưu Trọng Lư) và đó cũng không phải là: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang" (Hàn Mặc Tử). Nắng ở đây là nắng thơ mang nét đẹp của tâm hồn làm cho thu thêm phần ý nhị.
Cùng với nắng là gió mưa, bão bùng. Mưa vơi cạn dần đi. Giọt mưa không quá nặng hạt để gieo mình xuống mặt đất gây lụt lội. Còn mư a trong thu ít hơn, hiếm thấy và chất chứa trong ta bao bâng khuâng, xao xuyến của một mùa lá rụng. Sấm cũng không thét gào dữ dội trên bầu trời, ánh chớp cơn mưa rạch ngang nền trời trong hạ luôn là một điều đáng sợ. Tưởng rằng, nó sẽ kéo dài dai dẳng nhưng không ngờ khi bước vào thu, tất cả như tắt lịm đi lúc nào không hay. Và ta khó có thể gặp được những:
Tháng bảy mưa gãy cành chám
Tháng tám nắng rám trái bưởi.

Một điều đặc biệt mà ta có thể nhận ra ở đâu đó là tác giả bài thơ đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật liệt kê tăng tiến. Trước hết, mọi vật này được liệt kê một cách đầy đủ: nắng, mưa, sấm, chớp. Cùng với việc đó, nhà thơ đã sử dụng biện pháp nói tránh kín đáo vẫn còn" rồi lộ dần ra "vơi dần" để kế đến là cung bậc cao nhất của sự thiếu hụt "bớt bất ngờ".
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ.

Nhịp thơ nhịp nhàng khiến cho ta tưởng các câu mang ý nghĩa tương đương nhau nhưng không phải. Rõ ràng sự tăng cấp được sử dụng thật khéo léo trong cả ba câu thơ. Cuối cùng, chúng trở thành đòn bẩy để tôn lên vẻ trầm mặc im lìm trên những hàng cây đứng tuổi.
Trên hàng cây đứng tuổi
Lấy động tả tĩnh chính là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng thành công trong bài thơ. Việc này khiến cho người đọc hình dung được rằng sự thét gào dữ dội hay chính mùa hạ đang mát dần và thu đậm nét hơn trước mắt bao người.
Thơ là gợi là nhân một vẻ đẹp mà gợi nên bao mối tơ vương trong lòng người. Từ Thu của thiên nhiên, thu của đất trời mà ở đây ta cũng có thể hiểu là thu của đất nước Việt Nam. Có nơi nào mang sắc thu vàng mộng mơ, lãng mạn như Việt Nam. Hữu Thỉnh không nói thu cụ thể ở nơi nào nhưng ông đã ngầm đem đến cho ta cái ngọt ngào của thu Việt Nam, thu Bắc Hà, thu Hà Nội. Có thể nói, toàn bài thơ nhìn tổng thể là một bức tranh giao mùa tuyệt tác, quyến rũ hồn người...Song, "sang thu ' còn được gợi vào tình yêu mùa thu, yêu cảnh vật, quê hương đất nước.
Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
Đến chút tột cùng là dòng máu chảy.

Đất nước đã hòa bình vậy thì không cần phải hy sinh chiến đấu. Mà tình yêu Tổ quốc chính là lòng yêu những bình dị, thân thương nhất: Một hương ổi, một làn sương, một dòng sông...Tất cả, tất cả làm nên một mùa thu ngọt dịu, đậm đà tình đất nước. Dường như, vần thơ đều thấm đẹp vẻ đẹp hiền hoà, hồn hậu của thu đất nước. Đôi vần thơ thu như luyến giao với lòng người một cách tế nhị, tinh vi mà sâu kín lúc nào không hay. Đó không phải là mùa thu Bắc Việt đẹp quá, lòng người yêu quê hương lắm hay sao? Sự trùng phùng bất giác làm ta ngẩn ngơ pha một chút mừng rỡ vì được hưởng thụ khoảng khắc sang thu tuyệt diệu.
Ngẫm lại cho kỹ, hình như bài thơ còn có một ẩn ý khác. Thu thiên nhiên, thu đất nước và cũng là thu của lòng người. Đơn cử hai câu kết bài thơ :
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Không đơn thuần tả cảnh, đôi câu thơ kết lại bao suy ngẫm sâu sắc. Sấm chớp hay chính là tác động của ngoại cảnh, những vạng động, biến cố bất thường trong cuộc đời. Hình ảnh ẩn dụ độc đáo làm cho ta cũng khó hiểu. Nhưng có lời thơ của câu thơ sau nên người đọc mới rút ra được nhiều điều thú vị. Hàng cây đứng tuổi giúp người đọc liên tưởng đến một con người. Hàng cây ấy đã được nhân cách hoá để mang dáng dấp một con người thực thụ. khi đã đi gần hết cuộc đời, ta sẽ lui vào một góc khuất của cuộc sống để suy nghĩ về những trải nghiệm đã qua. Đồng thời, người cũng trở nên điềm tĩnh trước những biến cố lớn lao ấy. Suy rộng ra, dáng vẻ những trải nghiệm đã qua không hề nao núng, sâu sắc hơn cùng t ư thế ung dung, điềm nhiên chỉ có ở những ngư ời đã từng đi khắp nẻo đường đời. Còn hàng cây đứng tuổi đang lặng người, "Chết đứng" trong suy nghĩ về tình người, tình đời cùng tư thế lịch lãm.
Có người nói, suy nghĩ của nhà thơ chỉ dừng lại ở hai câu thơ cuối. Vậy thì, Hữu Thỉnh cũng chỉ là con người tầm thường hời hợt với cuộc sống. Cái mà ta đánh giá cao chính là nội dung toàn bài thơ "Sang thu” - Sự chuyển giao của đất trời hay là sang thu của lòng người. Một khoảnh khắc sang ngắn ngủi ấy khiến cho bao người những khách thể trở nên chín chắn già dặn hơn.
Thu là thơ của đất trời
Thơ là thu của lòng người.

Xin hãy chú ý vào cách mở bài thơ - "Bỗng". Đó là một từ chỉ sự ngạc nhiên cao độ. Nó muốn nói tới sự hiếm hoi của hương thu nơi đô thị. Đã lâu lắm rồi trong Hà Nội không thấy hương cốm sữa, hương ổi Quảng Bá cũng sắc đỏ cây gạo nơi góc phố thân quen. Bởi cuộc sống tất bật, nhộn nhịp của con người Hà Thành đã hoà loãng, phai nhạt đi những vẻ đẹp đích thực của thiên nhiên. Điều cuối cùng muốn nói, chúng ta hãy để tâm đến những vẻ thánh thiện trong cuộc sống và đừng bao giờ để nó phải mất đi. Xin cảm ơn, Hữu Thỉnh đã phát hiện ra khoảng khắc sang thu kỳ diệu đó và phả vào thơ. Và người đọc chúng ta cũng phải cảm phục Hữu Thỉnh đã đưa đến cho ta những nét chấm phá tinh tế về cuộc sống. Chắc thi nhân cũng phải có bản lĩnh kiên cường lắm mới khơi dậy được trong lòng bao con người một mùa thu đẹp, mộng mơ mà ta đã quên.
Gấp lại những vần thơ thu của Hữu Thỉnh, người đọc như thấy vương vấn đâu đây trong tâm hồn, từa tựa một sự lắng đọng cùng chút vảng vất, giao hoà vào đôi câu thơ trác tuyệt của Xuân Diệu.
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.

(Đây mùa thu tới)
 

hoangtuan9123

Học sinh gương mẫu
Thành viên
26 Tháng một 2018
1,159
2,225
319
Hà Nội
THPT Xuân Đỉnh
đừng bỏ phần gạch bút chì nhé
 

Attachments

  • IMG_0780.JPG
    IMG_0780.JPG
    1.9 MB · Đọc: 82
  • IMG_0781.JPG
    IMG_0781.JPG
    1.8 MB · Đọc: 93

Lê Uyên Nhii

Yêu lao động | Cựu TMod Văn
Thành viên
2 Tháng ba 2017
2,534
5,851
719
18
Thanh Hóa
THPT Lê Văn Hưu
1/ cảm nghĩ của em về nv ông 2
1. Mở bài
Giới thiệu về truyện ngắn Làng, về nhân vật ông Hai:
- Truyện ngắn được viết năm 1948, là một trong số những truyện ngắn xuất sắc của thời kì kháng chiến chống Pháp, với ông Hai là nhân vật chính của truyện.
- Tình yêu làng, yêu cách mạng tha thiết của ông Hai được thể hiện một cách chân thực, chất phác và giản đơn nhưng cũng đặc biệt thiêng liêng.
- Nhân vật ông Hai là tiêu biểu cho hình ảnh người nông dân yêu nước trong thời kì kháng chiến.
2. Thân bài
Tình cảm, tính cách, phẩm chất của Ông Hai được tác giả diễn tả hết sức chân thật qua mỗi tình huống.
a) Trong bối cảnh sống tản cư xa làng:
- Vì kháng chiến, gia đình ông Hai phải đi tản cư: ông Hai hăng hái lao động cùng anh em giữ làng, miễn cưỡng đi cùng vợ.
- Ở nơi tản cư:
+ Ông buồn chán, nhớ làng quê, sinh ra lầm lì cáu gắt.
+ Ông Hai hay khoe làng: đi đâu ông cũng kể về làng chợ Dầu của ông “một cách say mê và náo nức lạ thường”, khoe làng có phòng thông tin, con đường lát đá, nhà ngói san sát. Ông khoe cho thỏa cái miệng và nỗi nhớ trong lòng, hầu như không quan tâm người nghe có hưởng ứng câu chuyện của mình không.
=> Khoe làng là cách bản năng nhất thể hiện tình yêu, nỗi nhớ và niềm tự hào về quê hương của ông Hai.
- Tình yêu Làng gắn liền với yêu nước, yêu cách mạng:
+ Trước cách mạng: ông tự hào khoe làng giàu và đẹp với cái sinh phần của viên tổng đốc làng.
+ Sau cách mạng: ông chỉ nói về những buổi tập quân sự, những hào giao thông,… Ông thường đến phòng thông tin nghe lỏm tin kháng chiến, vui mừng với những thắng lợi của quân và dân ta.
b) Khi nghe tin làng theo giặc.
- Khi nghe được tin: ông sững sờ “lặng đi tưởng như không thể thở được”, lảng tránh khỏi đám đông.
- Diễn biến tâm lí giằng xé của ông Hai:
+ Ông nghi ngờ tin đồn sai sự thật, rồi lại tức giận thầm chửi rủa đám người theo giặc, điểm lại từng người một trong làng, lo sợ con cái ông cũng bị hắt hủi, khinh bỉ.
+ Ông xấu hổ, sợ hãi không dám ra đường, chỉ ở trong nhà nghe ngóng.
+ Có lúc ông muốn về làng vì bị người ta hắt hủi, coi khinh. Nhưng ông suy nghĩ: “làng theo Tây thì phải thù” và chỉ biết trò chuyện với đứa con út để khẳng định: ông luôn tin và trung thành với cách mạng, với cụ Hồ, quyết không theo giặc.
=> Qua diễn biến tâm lí giằng xé của ông Hai, ta nhận thấy tình yêu sâu đậm của ông dành cho quê hương làng chợ Dầu, đồng thời thấy sự trung thành tuyệt đối với Đảng, cách mạng và Bác Hồ.
c) Niềm vui của ông Hai khi tin làng theo giặc được cải chính.
Khi ông chủ tịch làng đến thông báo tin cải chính:
+ Ông phấn khởi đem quà về cho các con
+ Ông đi từng nhà, gặp từng người chỉ để nói với họ tin: Tây đốt nhà ông, làng ông không theo giặc.
+ Ông kể cho mọi người nghe về trận chống càn quét ở làng chợ Dầu với niềm tự hào.
=> Sự hào hứng, hân hoan ấy đã thể hiện được tinh thần yêu nước của ông Hai, một tình cảm chân thành của người nông dân chất phác, một người yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng đến độ vui mừng thông báo nhà mình bị giặc đốt cháy sạch.
d) Đưa ra nhận xét về nghệ thuật
- Nhà văn Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện vô cùng đặc biệt, mỗi tình huống đều khắc họa được diễn biến tâm lý của nhân vật một cách chân thực.
- Ông miêu tả cụ thể diễn biến tâm lý của nhân vật qua những đoạn độc thoại nội tâm, những hành động giàu cảm xúc.
- Ngôn ngữ nhân vật vừa mang đặc trưng vùng miền, vừa mang đậm tính thuần phác, đôn hậu chung của người nông dân.
3, Kết bài:

+ Nhân vật ông Hai là một bức chân dung sống động, riêng biệt về người nông dân Việt Nam những ngày đầu kháng chiến: bình dị nhưng có lòng yêu làng, yêu nước chân thành, sâu nặng, cao quý.
+ Truyện ngắn Làng của Kim Lân: nội dung truyện gần gũi, đơn giản nhưng thể hiện được những ý nghĩa to lớn, sâu sắc; nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, sống động.
3/nghi luận nv ông 6 và bé thu
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả: Nguyễn Quang Sáng là nhà văn gắn liền với miền đất Nam Bộ, văn ông có giọng điệu tự nhiên, thân mật, dân dã, ngôn ngữ gần với khẩu ngữ, lời ăn tiếng nói của nhân dân Nam Bộ.
- Truyện ngắn Chiếc lược ngà được sáng tác năm 1966 đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.
2. Thân bài:
* Tình cảm cha con trong truyện ngắn này được thể hiện từ hai phía: tình cảm của con dành cho cha và tình cảm của cha dành cho con.
a. Tình cảm của bé Thu dành cho ông Sáu
- Khi chưa nhận ra ông Sáu với vết thẹo dài trên mặt, bé Thu đã có thái độ xa lánh, hành động cự tuyệt và những lời nói cử chỉ khiến ông Sáu phải đau lòng: (hét toáng lên khi nhìn thấy ba, toàn nói lời trống không, nhất định không chịu nhờ ông Sáu chắt nước cơm cho, hất cái trứng cá…).
=> Tất cả những hành động ấy đã thể hiện được cá tính mạnh mẽ và tình cảm yêu thương rạch ròi của cô bé.
- Khi nhận ra ông Sáu là cha mình, trong buổi sáng cuối cùng trước khi ông Sáu phải lên đường, thái độ, hành động của bé Thu đột ngột thay đổi:
+ Nó bỗng kêu thét lên "ba" – tiếng kêu như xé tan sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người.
+ Cô bé chạy xô tới, dang hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp (hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn vết thẹo), dang cả hai chân để câu chặt lấy ba, đôi vai nhỏ bé run run. Tình yêu thương ba được bộc lộ một cách mãnh liệt, dâng trào, không thể kìm nén nổi. Em yêu ba, nhớ ba, mong ba. Nay tình cảm ấy mới có dịp vỡ òa ra nên vô cùng mạnh mẽ, hối hả, cuống quýt.
b. Tình cảm của ông Sáu dành cho con
- Khi bị con từ chối, ông cảm thấy vô cùng hụt hẫng, đau khổ, cáu giận, không thể kìm chế nổi. Ông đã đánh con vì nó không chịu nhận mình. Đây là biểu hiện đau khổ tột cùng của người cha khi bị con khước từ.
- Về đơn vị, ông day dứt, ân hận vì trong lúc nóng giận đã đánh con. Chi tiết này thể hiện tình yêu con tha thiết.
- Khi kiếm được khúc ngà voi, ông vô cùng vui mừng sung sướng, dành hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược. Chiếc lược đã trở thành vật báu thiêng liêng đối với ông Sáu. Nó làm dịu đi những ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến của ông với đứa con xa cách nơi quê nhà.
- Trước lúc hi sinh, lời trăng trối sau cùng, ông muốn nhờ bạn trao tận tay chiếc lược ngà cho con.
3. Kết bài
- Truyện ngắn Chiếc lược ngà đã khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc. Tình cảm ấy càng trở nên cao đẹp, thiêng liêng hơn trong những cảnh ngộ éo le của cuộc chiến tranh tàn khốc.
4/ nghi luận 2 khô thơ đầu Mùa xắn nho nhỏ
1. Mở bài
- Dẫn dắt vấn đề: Đề tài mùa xuân trong văn chương nghệ thuật
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ.
2. Thân bài
* Cảm nhận về khổ đầu bài thơ: "Mọc giữa dòng sông xanh... tôi hứng"
- Không gian quen thuộc của miền quê Việt Nam yên bình qua vài ba nét chấm phá: Một dòng sông xanh, một bông hoa tím, vài chú chim nhỏ
- Hình ảnh nổi bật trong bức tranh đó: Dòng sông xanh biếc đang miệt mài chảy trôi, giữa dòng điểm xuyết "bông hoa tím biếc"
- Động từ "mọc": Tạo ấn tượng mạnh
- Màu tím: Màu sắc được người dân xứ Huế sử dụng nhiều nhất nhưng ở đây là "tím biếc" - màu của đóa hoa lục bình đang dập dềnh trôi giữa dòng nước
- "Ơi con chim chiền chiện":
+ Tiếng gọi đầy tha thiết, thân thương, như tiếng gọi một con người
+ Chim chiền chiện: Loài chim quen thuộc của nông thôn Việt Nam, giọng hót cao vút
=> Tiếng hót của chúng báo hiệu mùa xuân về
- "Hót chi mà vang trời": Tiếng trách yêu của tác giả
- "Từng giọt long lanh rơi": Giọt mưa mùa xuân hay tiếng chim hót, là từng giọt mật của mùa xuân đang dần rơi xuống?
+ Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: Từ thính giác sang xúc giác, chính mùa xuân đã khiến cho mọi giác quan trong cơ thể người bừng tỉnh.
=> Bức tranh quê hương thôn dã rộn ràng, chân thực, đặc trưng vùng miền.
* Cảm nhận về khổ thứ hai bài thơ: "Mùa xuân người cầm súng... xôn xao"
- Hình ảnh người lính cầm súng với quanh mình là lá ngụy trang: Mùa xuân là những cành lộc non giắt trên lưng để che mắt kẻ thù
- "Lộc" đối với những người ở hậu phương: Là những mầm ngô, cây sắn, cây lúa mới đang trải ra khắp ruộng đồng, nương rẫy
=> Cả Tổ quốc đang "hối hả", sục sôi bước những bước chân đầu tiên đầy gian khổ trong quá trình xây dựng đất nước
+ Điệp từ "tất cả": Lời khẳng định của nhà thơ cả đất nước đang rộn ràng, tươi vui, phấn đấu xây dựng
- Nghệ thuật: So sánh, hệ thống từ láy gợi hình gợi cảm => Miêu tả không khí rạo rực, rộn ràng của cả dân tộc đang phấn đấu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
- Nêu suy nghĩ, cảm xúc bài thơ.
 
Top Bottom