O
o0honeybaby0o
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!! ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
Cooperation is the common endeavor of two or more people to perform a task or reach a jointly cherished goal. Like competition and conflict, there are different forms of cooperation, based on group organization and attitudes.
In the first form, known as primary cooperation, group and individual fuse. The group contains nearly all of each individual’s life. The rewards of the group’s work are shared with each member. There is an interlocking identity of individual, group, and task performed. Means and goals become one, for cooperation itself is valued.
While primary cooperation is most often characteristic of preliterate societies, secondary cooperation is characteristic of many modern societies. In secondary cooperation, individuals devote only part of their lives to the group. Cooperation itself is not a value. Most members of the group feel loyalty but the welfare of the group is not the first consideration. Members perform tasks so that they can separately enjoy the trust of their cooperation in the form of salary, prestige, or power. Business offices and professional athletic teams are examples of secondary cooperation.
In the third type, called tertiary cooperation or accommodation, latent conflict underlies the shared work. The attitudes of the cooperation parties are purely opportunistic; the organization is loose and fragile. Accommodation involves common means to achieve antagonistic goals; it breaks down when the common means cease to aid each party in reaching its goals. This is not, strictly speaking, cooperation at all, and hence the somewhat contradictory term antagonistic cooperation is sometimes used for this relationship.
Đây là bài đọc của thầy em cho, đã sửa phần trắc nghiệm roài, nhưng mà thầy bảo là phải dịch lại cho thầy, thiệt tình là mệt, dịch một hồi, đọc lại không hiểu gì hết trơn (. Tiếp theo là phần BT dịch của em, mọi người coi dịch lại giúp em với nhé!
Hợp tác là sự chia sẻ những nổ lực của hai hay nhiều người để thực hiện nhiệm vụ hoặc cùng đạt đến những mục đích rõ ràng. Như sự cạnh tranh hay những xung đột, có nhiều dạng hợp tác khác nhau, dựa trên các nhóm tổ chức và những quan điểm.
Trong dạng đầu tiên, được biết đến như là dạng hợp tác sơ cấp, nhóm và cá nhân được hợp nhất. Một nhóm gần như bao gồm tất cả các đời sống cá nhân. Phần thưởng của làm việc nhóm được chia sẻ đều cho mỗi thành viên. Có một sự kết hợp đồng nhất của cá nhân, nhóm và thực hiện nhiệm vụ. Ý nghĩa và các mục đích kết hợp thành một, chính việc hợp tác có giá trị.
Toàn bộ dạng hợp tác sơ cấp thì thường hầu hết là đặc điểm của xã hội văn chương, dạng hợp tác thứ hai mang nhiều đặc điểm của xã hội hiện đại. Trong dạng hợp tác thứ hai, mỗi cá nhân cống hiến chỉ mỗi phần của cuộc sống họ cho nhóm. Việc hợp tác ở đây không có giá trị. Hầu hết các thành viên của nhóm đều cảm thấy trung thành nhưng lợi ích của nhóm không phải là mục tiêu hàng đầu. Các thành viên thực hiện nhiệm vụ cho nên họ có thể hưởng thụ thành quả một cách riêng lẻ trong việc hợp tác của họ qua tiền lương, thân thế, hoặc năng lực. Văn phòng kinh doanh và đội thể thao chuyên nghiệp là những ví dụ cho dạng hợp tác thứ hai này.
Trong dạng thứ ba, gọi là dạng thứ ba hay là dạng thỏa hiệp, những xung đột tiềm tàng ẩn dưới việc chia sẻ công việc. Những quan điểm của những nhóm hợp tác là hoàn toàn dựa vào cơ hội, việc hợp tác bị buông lỏng và dễ dàng đổ vỡ. Sự thỏa hiệp bao gồm những ý nghĩa của việc chia sẻ đạt được những mục đích hoàn toàn trái ngược, nó bị đổ vỡ khi những ý nghĩa chia sẻ dừng giúp đỡ mỗi nhóm trong việc đạt đến mục đích. Không có,hoàn toàn là diễn đạt , chút hợp tác nào, và do đó một phần mâu thuẫn về lời lẽ việc hợp tác trái ngược thỉnh thoảng dùng cho mối quan hệ này.
( Cái đoạn cuối cùng khó hỉu và khó dịch wa’, em dịch xong, đọc lại, hok hỉu >”<)
In the first form, known as primary cooperation, group and individual fuse. The group contains nearly all of each individual’s life. The rewards of the group’s work are shared with each member. There is an interlocking identity of individual, group, and task performed. Means and goals become one, for cooperation itself is valued.
While primary cooperation is most often characteristic of preliterate societies, secondary cooperation is characteristic of many modern societies. In secondary cooperation, individuals devote only part of their lives to the group. Cooperation itself is not a value. Most members of the group feel loyalty but the welfare of the group is not the first consideration. Members perform tasks so that they can separately enjoy the trust of their cooperation in the form of salary, prestige, or power. Business offices and professional athletic teams are examples of secondary cooperation.
In the third type, called tertiary cooperation or accommodation, latent conflict underlies the shared work. The attitudes of the cooperation parties are purely opportunistic; the organization is loose and fragile. Accommodation involves common means to achieve antagonistic goals; it breaks down when the common means cease to aid each party in reaching its goals. This is not, strictly speaking, cooperation at all, and hence the somewhat contradictory term antagonistic cooperation is sometimes used for this relationship.
Đây là bài đọc của thầy em cho, đã sửa phần trắc nghiệm roài, nhưng mà thầy bảo là phải dịch lại cho thầy, thiệt tình là mệt, dịch một hồi, đọc lại không hiểu gì hết trơn (. Tiếp theo là phần BT dịch của em, mọi người coi dịch lại giúp em với nhé!
Hợp tác là sự chia sẻ những nổ lực của hai hay nhiều người để thực hiện nhiệm vụ hoặc cùng đạt đến những mục đích rõ ràng. Như sự cạnh tranh hay những xung đột, có nhiều dạng hợp tác khác nhau, dựa trên các nhóm tổ chức và những quan điểm.
Trong dạng đầu tiên, được biết đến như là dạng hợp tác sơ cấp, nhóm và cá nhân được hợp nhất. Một nhóm gần như bao gồm tất cả các đời sống cá nhân. Phần thưởng của làm việc nhóm được chia sẻ đều cho mỗi thành viên. Có một sự kết hợp đồng nhất của cá nhân, nhóm và thực hiện nhiệm vụ. Ý nghĩa và các mục đích kết hợp thành một, chính việc hợp tác có giá trị.
Toàn bộ dạng hợp tác sơ cấp thì thường hầu hết là đặc điểm của xã hội văn chương, dạng hợp tác thứ hai mang nhiều đặc điểm của xã hội hiện đại. Trong dạng hợp tác thứ hai, mỗi cá nhân cống hiến chỉ mỗi phần của cuộc sống họ cho nhóm. Việc hợp tác ở đây không có giá trị. Hầu hết các thành viên của nhóm đều cảm thấy trung thành nhưng lợi ích của nhóm không phải là mục tiêu hàng đầu. Các thành viên thực hiện nhiệm vụ cho nên họ có thể hưởng thụ thành quả một cách riêng lẻ trong việc hợp tác của họ qua tiền lương, thân thế, hoặc năng lực. Văn phòng kinh doanh và đội thể thao chuyên nghiệp là những ví dụ cho dạng hợp tác thứ hai này.
Trong dạng thứ ba, gọi là dạng thứ ba hay là dạng thỏa hiệp, những xung đột tiềm tàng ẩn dưới việc chia sẻ công việc. Những quan điểm của những nhóm hợp tác là hoàn toàn dựa vào cơ hội, việc hợp tác bị buông lỏng và dễ dàng đổ vỡ. Sự thỏa hiệp bao gồm những ý nghĩa của việc chia sẻ đạt được những mục đích hoàn toàn trái ngược, nó bị đổ vỡ khi những ý nghĩa chia sẻ dừng giúp đỡ mỗi nhóm trong việc đạt đến mục đích. Không có,hoàn toàn là diễn đạt , chút hợp tác nào, và do đó một phần mâu thuẫn về lời lẽ việc hợp tác trái ngược thỉnh thoảng dùng cho mối quan hệ này.
( Cái đoạn cuối cùng khó hỉu và khó dịch wa’, em dịch xong, đọc lại, hok hỉu >”<)