Mỗi tuần 1 tác phẩm_ Em ở đâu _ Marc Levy.

K

kachia_17

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Cành phong lan màu tím

Đó là món quà tôi nhận được sáng nay, một cành phong lan với duy nhất một bông hoa tím đựng trong một chiếc giỏ con xinh xắn có khóm lá to, dày, xoè ra như một đài sen. Thoạt nhìn thấy ngay sự tương phản : bông hoa nhỏ xinh, tím biếc và mềm mại, trông rất dễ thương trong khi dáng vươn của thân cành lại có vẻ ngạo nghễ, có nét gì ngồ ngộ, rất ưa nhìn, khiến ai cũng thích. Các thầy cô giáo trong trường, nhất là cánh trẻ như tôi, được dịp xúm vào trêu chọc, cười rộn cả văn phòng làm tôi ngượng chín. Tất nhiên tôi rất vui, nhưng không mang nó về nhà mà đem treo trước lớp tôi chủ nhiệm. Việc này làm cánh giáo viên trẻ ngạc nhiên, nhưng tôi chỉ lặng thinh không nói. Tôi nghĩ đây là món quà "người ta" tặng cho cả lớp tôi, cả trường tôi chứ không phải riêng mình.

"Người ta" là ai ? Một cán bộ chỉ đạo chuyên môn của Sở gần đây xuất hiện ở trường tôi, trực tiếp tham gia giảng dạy. Anh chàng khá đẹp trai, thông minh, lanh lợi, lại là giáo viên Văn - cùng bộ môn với tôi nữa chứ. Theo thông báo của Ban Giám hiệu thì anh ta xuống trường để thử nghiệm đề tài "Đổi mới phương pháp dạy học" của Ngành, nhưng sau đó mọi người lại kháo nhau rằng không phải thế, đó chẳng qua chỉ là cái cớ, mà anh ta về đây để chuẩn bị thay thế cô Hiệu trưởng. Chẳng biết thực hư thế nào nhưng tôi rất bực. Cô Hiệu trưởng vốn là cô giáo chủ nhiệm cũ của tôi, cô về đây từ dạo tôi mới học lớp Mười. Hồi ấy trường tôi còn đơn giản, sơ sài lắm, toàn là nhà cấp bốn. Tiếng là trường Trung học phổ thông của thành phố nhưng lại ở xa trung tâm, mãi tít trong làng mỏ, sát bìa rừng, chẳng khác gì miền núi, so với nhiều trường khác chẳng có gì đáng kể. Từ khi cô giáo tôi làm Hiệu trưởng, trường mới khá dần lên. Tuy không xuất sắc lắm về lĩnh vực chuyên môn nhưng cô rất có uy tín với bà con làng mỏ, kể cả những ông giám đốc ở các ngành. Hễ trường tôi có việc gì, cô chỉ cần nói một câu là người ta xắn tay vào trợ giúp ngay, không có cô thì còn lâu trường tôi mới được nâng cấp lên ba tầng như vậy. Tính cô lại rất dịu dàng, nhân hậu nên ai cũng mến. Nếu bây giờ cô chuyển đi trường khác, người thay thế lại là anh chàng ấy thì... Một người còn quá trẻ, có lẽ chỉ hơn tôi dăm bảy tuổi là cùng, mà như người ta nói, còn chưa có mảnh tình vắt vai, chưa thể nói là chững chạc. Trẻ hoá cán bộ ư, hay trong chuyện này có vấn đề "nhạy cảm" ? Tôi nghĩ vậy và sinh ác cảm với anh ta, nhìn anh ta bằng con mắt đầy xét nét. Anh ta càng tỏ ra hăng hái, nhiệt tình, tôi càng thấy khó chịu. Không biết mọi người thế nào, riêng tôi, tôi cho rằng sự nhiệt tình thái quá thường đồng nghĩa với cái trò cơ hội, mà anh ta chính là người như thế.

Có lẽ vì thế, tôi sinh ra hay để ý, quan sát, lắng nghe từng lời nói, cử chỉ, việc làm của con người ấy. Có lần tôi cố tình "nghe trộm" tiết giảng của anh ta trên lớp. Hôm ấy chúng tôi trùng giờ, tôi dạy hai giờ liền ở lớp 12A do chính tôi chủ nhiệm, còn anh ấy có hai tiết Văn lớp 10B ở phòng bên. Ngay tiết đầu tôi cho học sinh làm bài kiểm tra, mục đích là tạo nên sự im ắng để nghe anh ta giảng thế nào, có đúng là "rất hay" như người ta đồn đại hay không. Không ngờ hay thật. Truyện Kiều tôi đã giảng khá nhiều và từng được đánh giá cao trong lần dạy chuyên đề, nhưng khi nghe anh giảng, tôi không khỏi ngạc nhiên. Anh không chỉ truyền đạt cho học sinh vẻ đẹp vô song của ngôn ngữ thơ trong tác phẩm, mà còn chỉ ra cho chúng biết về tính tiểu thuyết, tính điện ảnh, tính sân khấu và cả tính thời sự trong đó nữa, điều mà chính tôi cũng chưa nghĩ tới. Tuy nhiên có đôi chỗ anh đi hơi quá, chẳng hạn anh nói rằng ngay bây giờ ở ta cũng có không ít những tên Mã Giám Sinh, Hồ Tôn Hiến, Sở Khanh, Bạc Hạnh, Bạc Bà như vậy, sau đó anh dẫn ra một loạt những Năm Cam, những Bùi Tiến Dũng và những kẻ lưu manh, thủ đoạn khác từng bị phanh phui trên báo chí làm ví dụ. Sự liên hệ này có thể nói là chính xác, nhưng nói ở đâu, với đối tượng nào chứ với học sinh thì không ổn. Tuy nhiên vẫn phải công nhận rằng quả thực anh có kiến thức khá sâu rộng, có cái nhìn sắc sảo hơn người và cả tài hùng biện nữa. Tôi lặng lẽ nghe anh, hình dung ra đôi mắt sáng và gương mặt sinh động của anh, nhận ra sự tận tâm của anh qua giọng nói đầy nhiệt huyết và tôi bắt đầu có cảm tình với anh qua cuộc "kiểm nghiệm" bất thường này. Tôi nghĩ nếu mình không có định kiến về chuyện này chuyện khác mà gần gũi với anh hơn, chắc chắn sẽ học hỏi thêm được nhiều điều bổ ích.

Nhưng thật oái oăm, đúng vào thời điểm tôi muốn tiếp cận với anh thì xảy ra chuyện.

Hôm ấy tôi có tiết chiều, vừa phóng xe đến trường thì gặp thầy Hiệu phó. Thầy hỏi tôi ngay :

- Hôm nay cô cho học sinh nghỉ làm gì thế ?

Tôi ngạc nhiên :

- Thưa thầy không ạ, em đâu có cho chúng nghỉ.

- Thế sao lớp vắng tanh như vậy ?

Tôi vội dựng xe, chạy đến lớp mình. Quả là không một bóng học sinh nào. Sao lại có chuyện lạ như thế nhỉ ? Theo thời khoá biểu thì chiều nay thuộc buổi dạy của "anh chàng ấy", không lẽ anh ta tự tiện cho chúng nghỉ ?

Nhưng tôi không thể bỏ giờ dạy của mình để đi tìm hiểu về chuyện đó. Tôi xin phép thầy Hiệu phó lên lớp, hứa rằng sẽ xem xét việc này rồi báo cáo sau.

Cuối giờ chiều, đúng lúc trống tan trường thì không biết từ đâu học sinh lớp tôi ùn ùn hiện ra một đống. Đứa nào đứa ấy chân tay lấm láp, cỏ may dính khắp áo quần.

- Các em đi đâu về vậy ? - Tôi nghiêm giọng hỏi.

Bọn trẻ nhìn nhau sợ hãi, đứa nọ đùn đẩy đứa kia, mãi không đứa nào dám trả lời.

- Sao, mồm miệng đâu cả rồi ? Lớp trưởng !

- Dạ, em đây ạ !

- Đây ạ, đây ạ cái gì ? Tôi muốn em trả lời câu hỏi của tôi kia.

- Dạ thưa cô... Đấy là do...

- Do tôi, do tôi !

Một tiếng nói vang lên từ phía sau. Ngoảnh lại, tôi nhận ra anh ấy, nhưng quá đỗi ngạc nhiên : Trông anh chẳng khác gì ông thợ trồng rừng, đầu đội mũ lá, quần xắn móng lợn, tay xách một cái làn con đựng đầy những quả thông vàng xuộm.

- Anh nhặt thứ này về để làm gì vậy ? - Tôi hỏi.

- Để giảng bài.

- Giảng về quả thông ?

- Không phải quả thông mà là Lẵng quả thông.

Tôi biết, Lẵng quả thông là một truyện ngắn nổi tiếng của Pau-tốp-xki, nhưng trong chương trình giảng dạy của lớp 12, kể cả bài đọc thêm cũng không hề có. Hoá ra trước khi vào lớp, một học sinh đã hỏi anh về tác phẩm này, thế là anh nổi hứng văn chương, đưa cả lớp lên đồi thông, vừa dạo chơi vừa giảng cho chúng nghe về tài miêu tả thiên nhiên của nhà văn đó. Thực ra việc dẫn học sinh đi "dã ngoại" như thế này, đôi khi trường tôi cũng có làm, nhưng phải có lịch sắp xếp hẳn hoi chứ không thể tuỳ hứng như thế, đằng này anh ta nghiễm nhiên dẫn bọn trẻ ra khỏi trường mà không thèm hỏi tôi lấy một câu. Thật quá thể !

Nhưng điều tôi lo ngại hơn là năm nay là năm cuối cấp rồi, tôi chẳng muốn học sinh lớp mình bị phân tán bởi những trò thử nghiệm linh tinh của anh ta, không khéo đến kì thi tốt nghiệp chúng trượt ráo cả với nhau thì tội lắm.
 
Last edited by a moderator:
K

kachia_17

Vì sự tế nhị cần thiết, tôi cho học sinh về trước rồi cùng anh ta ở lại lớp để trao đổi về sự việc vừa rồi.
- Anh làm thế không những sai về nguyên tắc mà còn làm hư học sinh đi đấy ! - Tôi lạnh lùng cảnh báo.
- Nguyên tắc là do chúng ta đặt ra. - Anh xua tay nói. - Chớ nên kết luận làm gì vội, còn việc làm hư học sinh thì tôi cam đoan với cô là không bao giờ có, không tin cô cứ kiểm tra xem, hôm nay chúng tiếp thu bài học rất tốt.
- Học hành kiểu ấy thì tốt làm sao được !
- Cô vẫn quen nghĩ một chiều, tôi cho rằng cách học này cũng hay đấy chứ. Cô biết không, có lần một cậu bé gần nhà tôi hỏi tôi về câu thơ của Tế Hanh : Tôi dang tay ôm nước vào lòng - Sông mở nước ôm tôi vào dạ nghĩa là gì ? Tôi hỏi em có biết bơi không, nó đáp không, tôi bảo thế thì em hãy về tập bơi đi, khi nào biết bơi sẽ hiểu. Quả nhiên như vậy. Thằng bé chỉ tập bơi có một buổi chiều mà học thuộc lòng cả bài thơ...
- Bơi với lội.
- Cô không thích bơi à ?
- Không !
- Nhưng chắc cô đồng ý với tôi...
- Không thể đồng ý được.
- Cô nên hiểu rằng...
- Em không cần hiểu cái gì hết ! - Tôi sẵng giọng. - Em chỉ biết đây là lớp em chủ nhiệm, vì thế không ai được phép tự tiện dẫn học sinh đi lung tung như thế, nếu anh còn làm vậy, em sẽ báo cáo việc này lên Ban Giám hiệu.
- Cô báo tôi cũng báo.
- Anh báo cái gì ?
- Tôi báo rằng cô đã cấm tôi.
- Xin mời, anh cứ việc, để rồi xem.
Nói xong tôi đứng dậy ra về, để mặc anh ta ngồi lại một mình trong lớp. Về đến nhà, tôi vẫn chưa hết bực. Đã sai lè lại còn tinh tướng, tưởng là cán bộ Sở về đây muốn làm gì cũng được hay sao ? Tức quá đi mất.
Tôi tin rằng với thái độ cứng rắn của mình, lần sau có cho kẹo anh ta cũng không dám làm thế nữa. Không ngờ chỉ lắng đi được ít ngày, sự việc lại diễn ra hệt như lần trước, có khác chăng lần này anh ta không dẫn học sinh lên rừng mà đi ra một cái hồ gần đó, chắc là để dạy chúng tập bơi như đã nói với tôi chăng ? Tôi hỏi cô giáo trực ban, cô ta trả lời rằng Ban Giám hiệu đã đồng ý cho anh ta làm vậy. Thế nghĩa là sao ? Mọi người có còn xem tôi là chủ nhiệm lớp không, sao chẳng ai thông báo cho tôi một tiếng ? Bực mình, tôi chạy thẳng lên phòng Hiệu trưởng. Nghe tôi nói xong, cô Hiệu trưởng khẽ cau mày :
- Cái cậu này hay nhỉ ? Cô đã dặn cậu ta là phải thông báo với giáo viên chủ nhiệm khi đưa học sinh ra khỏi trường kia mà ? Thôi được, em cứ về đi. Chắc cậu ta đang mải mê thử nghiệm...
- Nhưng thưa cô, em nghĩ, nếu anh ấy muốn thực hiện đổi mới phương pháp thì phải đưa học sinh vào trong thành phố cho chúng quan sát các giờ học có sử dụng phương tiện giảng dạy hiện đại như học theo giáo án điện tử chứ, sao lại...
- Nhưng trường ta chưa có điều kiện đó. Cô nghĩ có thể cậu ta muốn đổi mới bằng một ý tưởng khác chăng ?
- Chắc cô đã biết ý tưởng của anh ấy ?
Cô Hiệu trưởng khẽ lắc đầu, cho biết rằng cô chỉ được Sở thông báo về việc tạo điều kiện giúp anh ta thử nghiệm đề tài. Tôi định hỏi thêm vài chuyện ngoài lề nhưng thấy cô bận nghe điện thoại, lại thôi. Tôi mệt mỏi ra về, vừa đi vừa nghĩ ngợi vẩn vơ. Chẳng biết anh ta thử nghiệm những gì nhưng qua thái độ của cô Hiệu trưởng, tôi cảm thấy trong việc này còn ẩn chứa một điều gì đó. Hay anh ta sắp sửa thay cô thật ?
Mà thôi, tốt nhất là nên làm theo lời dặn của cô Hiệu trưởng, mặc anh ta, chẳng hơi đâu mà nghĩ ngợi cho mất thời giờ. Cần thiết mình sẽ trực tiếp hỏi học sinh xem cái cách anh ta thực nghiệm ra sao, rồi thực hư thế nào sẽ rõ. Tôi nghĩ vậy.
Một buổi sáng chủ nhật, tôi gọi lớp trưởng cùng với mấy em học sinh giỏi đến nhà, hỏi về chuyện đó. Khác với suy đoán của tôi, cả mấy đứa đều tấm tắc khen thầy giáo mới. Lớp trưởng vốn là con bé mau mồm nhất bọn, nó ôm choàng lấy tôi, cười rinh rích.
- Thầy ấy giảng hay lắm cô ơi, tuyệt vời trên cả tuyệt vời, mà đề kiểm tra cũng khác lạ cơ, khác hẳn những đề bài trước.
- Khác như thế nào ? - Tôi hỏi - Em nhớ đề nào không, đọc cho cô nghe thử.
- Thưa cô, em để quên mất ở nhà rồi, nhưng có một đề mà em vẫn nhớ như in, nó là thế này cô ạ : "Một nhà văn nói : Con đường mòn trên núi cao là biểu tượng của người dân miền núi. Nó không chỉ chứa đựng mọi thành quả lao động của họ mà còn là chiếc cầu nối của tình yêu nam nữ trong làng bản... Em có suy nghĩ gì về câu nói đó và hãy vận dụng những hiểu biết về văn học của mình để chứng minh".
- Thế các em có làm được bài không ?
- Buồn cười lắm cô ơi, lúc đầu bọn em chẳng hiểu gì cả, cả lớp chào cờ hết.
- Mà thầy cho tha hồ giở sách cô ạ. - Một cậu bé chen vào. - Nhưng vẫn không đứa nào làm được. Mãi sau thầy gợi ý, bọn em mới hiểu. Thầy bảo cách dạy của thầy là cốt để các em làm bài bằng suy nghĩ của chính mình. Thầy khuyên chúng em cứ viết thật thoải mái, không nên gò bó hoặc bắt chước những bài văn mẫu một cách thụ động.
- Thầy còn gợi ý cho bọn em một loạt cách vào đề nữa chứ. - Lớp trưởng nói thêm. - Mà thầy chẳng cần giở sách đâu, cứ thế đọc ra vanh vách những đoạn văn cực hay, làm bọn em há hốc mồm nghe. Dần dần chúng em cũng hiểu ra, làm được hết. Riêng em làm một mạch bảy trang, thích lắm cô ạ !
- Nghĩa là tất cả các em đều thích cách học này ?
Cả bọn đồng thanh :
- Thưa cô, vâng ạ !
Cuộc trò chuyện với đám học sinh phần nào đã gây lại mối thiện cảm tưởng chừng đã mất của tôi đối với người thầy giáo ấy. Và tôi bắt đầu đoán ra cái ý tưởng đổi mới về phương pháp dạy học Văn của anh. Phải chăng với cách làm này, anh muốn học sinh thoát ra khỏi cách học thụ động, lệ thuộc vào khuôn mẫu, để phát huy tính tự do sáng tạo ? Có lẽ là thế. Chỉ riêng cái đề bài mà tôi được biết vừa rồi, dù chỉ giới hạn trong phạm vi miền núi, nhưng rõ ràng anh đã khai mở cho các em những chân trời rộng lớn trong nhận thức và liên tưởng, đòi hỏi chúng không chỉ huy động kiến thức được truyền thụ trong sách giáo khoa mà còn cả những tác phẩm không có trong chương trình giảng dạy, nghĩa là không chỉ có Vợ chồng
A Phủ của Tô Hoài, Việt Bắc của Tố Hữu, Sông Đà của Nguyễn Tuân mà còn có thể dẫn ra cả những Rừng động của Mạc Phi, Đồng bạc trắng hoa xoè của Ma Văn Kháng, Hoa hậu xứ Mường của Phượng Vũ,... Nghĩa là các em có thể mở rộng một cách tuỳ hứng, được quyền suy tưởng đến cả những bức tranh xã hội sống động và hoành tráng mà các nhà văn nổi tiếng đã dựng lên trong tác phẩm của mình. Như vậy, có thể thấy đề tài "Đổi mới phương pháp dạy học" này của anh hoàn toàn không phải đơn giản như tôi nghĩ, nó đâu chỉ là sự lặp lại cái việc dẫn học sinh đi thực tế như chúng tôi đã từng làm mà còn được nâng lên tầm khái quát cao, có tính phổ biến trong phạm vi ngành. Quả là sẽ rất tuyệt vời nếu phương pháp đổi mới của anh được ứng dụng trong thực tế.
Càng nghĩ tôi càng nhận ra anh là một chàng trai không chỉ rất thông minh mà còn có một niềm say mê to lớn, và tôi thấy ngượng vì những suy đoán vẩn vơ cũng như nỗi tự ái vặt của mình. Tôi quyết định hôm sau đến trường, sẽ cởi mở hơn với anh, tỏ rằng mình rất hiểu anh, nhiệt tình ủng hộ anh, giúp anh thực hiện thành công đề tài đổi mới phương pháp dạy học Văn này.
Nhưng tôi đã không kịp làm việc đó. Sáng hôm sau đến trường, tôi tìm khắp các phòng không thấy anh đâu cả. Mãi sau mới biết là anh đã đi rồi. Anh đi trường khác để tiếp tục thử nghiệm đề tài đó. Con người này lạ thật, thoắt đến thoắt đi như làn gió, chẳng biết đâu mà lần, buồn thế ! Không biết anh nghĩ gì về mình nhỉ, và có giận mình không ? Tôi băn khoăn tự hỏi, cảm thấy trong người hụt hẫng, như vừa đánh rơi mất một cái gì. Lúc quay lại văn phòng thấy mọi người tề tựu đông đủ cả, tôi chợt nhớ hôm nay họp hội đồng và cảm thấy hơi lúng túng vì đến muộn. May sao thầy Hiệu phó vui vẻ chạy ra, cho biết rằng "cậu ấy" đã đi từ sáng sớm và trước khi đi, có nhờ thầy chuyển cho tôi một món quà nho nhỏ. Thế là ngay lập tức, dù chưa thấy quà đâu, mọi người đã xô cả đến, thi nhau trêu chọc, cười đùa làm tôi xấu hổ không biết trốn vào đâu được, đành giấu mặt đỏ dừ vào lưng cô Hiệu trưởng.
Vâng, chính là nó đấy. Một cành phong lan màu tím với một vẻ đẹp riêng mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Điều đó khiến tôi thực sự cảm động. Chỉ có điều tôi không biết rằng với món quà rất ý nghĩa này anh muốn tặng riêng tôi hay tặng cho cả lớp tôi, cả trường tôi ? Thôi thì tôi cứ tạm treo nó lên trước lớp, đợi anh về sẽ hỏi...
 
Last edited by a moderator:
C

conmuabuon_uotlanhhontoi_

hic dài wa!ngại đọc ghê,cuối cùng cũng xong!bài viết có ý nghĩa wa!tôi thấy cách học ấy hay mà!ước gì minhg cũng đc học như vậy
 
K

kachia_17

22

Trẻ con không được ăn thịt chó!


Hắn hút đến điếu này là điếu thứ ba. Ba điếu thông luôn. Cái thuốc lào, hút vào một buổi sáng lành lạnh như buổi sáng hôm nay, sao mà ngon thế! Khói đậm đà như vị mật, thấm qua lưỡi để pha vào với máu, lan đi từng thớ thịt, làm da thịt đê mê. Đôi mắt hắn gà gà; hơi thở phì phò như ống bễ lò rèn, những ngón tay lờ rờ trên không khí mơn man một dáng hình tưởng tượng. Như thế trong vài ba phút. Rồi cơn say lại nhạt. Cái thú vị chính là ở đó. Những cơn say, nếu kéo dài ra tất thành nôn nao. Người ta đâm chúi đầu vào bức vách hoặc xều dãi ra như một con chó trước khi hóa dại! Còn cái gì thô tục bằng? Đằng này những cơn say rất chóng qua. Người hút, vừa hút xong, đã bị muốn hút luôn điếu nữa. Hút bằng nào cũng không biết chán. Hút đi, hút lại mà vẫn còn thấy ngon.


Cái điếu là một vật vô tri mà dường như cũng biết nịnh đời. Vốn dĩ xưa nay nó là một cái điếu rất tồi. Hút không kêu.


Nó chỉ xìn xịt như tiếng một vật gì bị ẩm. Nghe chán lắm. Thế mà hôm nay, chẳng biết cao hứng thế nào, nó lại kêu. Những tiếng nổ tanh tách nẩy lên trên không khí khô nỏ và trong veo của mùa thu như một chuỗi cười giòn. À, thì ra cái điếu hình như cũng có hồn. Vào một buổi sáng mát mẻ như buổi sáng hôm nay, tự nhiên nó hết ươn ao, và thấy cần phải ầm ĩ thì mới khoái. Người cũng vậy. Hắn thấy lúc này mà phải bó gối ngồi nhà thì cái đời thật khổ. Ấy thế là hắn càu nhàu chửi tục. Hắn chửi những quân hàng bưởi không chịu đến mua cây bưởi đào nhà hắn để hắn có dăm đồng bạc tiêu. Năm đồng bạc!... Mắt hắn sáng hẳn lên một chút. Chúng có vẻ vừa trông thấy con chó thui béo căng và vàng óng treo lủng lẳng bên trên cái chõng hàng nhà mụ Tam. Nước dãi tứa ra đầy miệng hắn, một hơi rượu rất mong manh thoáng qua mũi hắn rồi vụt biến. Chà! Hôm nay mát trời lắm nhỉ? Rượu với thịt chó mà lại gặp khí trời mát thì ngon biết chừng nào là ngon! Hắn nuốt dãi hai, ba lượt. Rồi hắn lại nhịt thuốc vào nõ điếu, châm đóm hút thêm điếu nữa. Cái điếu vẫn kêu tanh tách. Nhưng khói thuốc bây giờ sao nhạt thế! Khi đang hút thì nó nhạt như nước lã, mà hút xong thì lại hơi đắng miệng. Hắn nhổ bọt vào chân cột rồi vừa chép chép môi vừa hếch mặt nhìn lên nóc nhà. Rượu... thịt chó... rượu... thịt chó... óc hắn cứ luẩn quẩn nghĩ đến hai thứ ấy. Sắc vàng bóng của một cái mông chó thui nhầy nhầy mỡ với sắc xanh nhạt của một chai Văn-điển đầy ăm ắp cứ lần lượt hiện ra. Ờ! Ờ! Mát trời thế này mà được uống rượu thì tuyệt quá! Nhưng đào đâu ra tiền? Ấy thế là hắn lại chửi những quân hàng bưởi. Rồi nhân tiện, hắn chửi luôn vợ hắn cái "con mèo mù" đà đẫn mãi, bưởi chín đã gần muốn rụng mà vẫn chưa chịu rước người vào mua. Chửi chán, hắn tặc lưỡi một cái để bảo hắn rằng: không chửi nữa. Hắn quăng mạnh hai chân xuống đất để đứng lên và ra đi. Hắn đi cúi mặt, bước những bước mải mốt và cả quyết. Người ta cứ tưởng hắn như đã định sẵn một nơi nào để đến.


Nhưng không phải. Đến đầu ngõ, hắn tần ngần dừng lại. Bởi đến đầu ngõ, hắn gặp một con đường hai ngả. Biết đi ngả dưới hay là ngả trên? Đi ngả dưới là đến nhà con mẹ Vụ để gạ bán non cho nó mươi gốc chuối. Nhưng con mẹ Vụ sẽ nhớ ra rằng: đã có lần hắn bán cho thị mười gốc chuối lấy hai đồng bạc đi xóc đĩa rồi lại bán lần nữa cho người khác lấy ngót hai đồng bạc. Giá mỗi cây chuối có sinh ra lấy hai buồng thì hắn không đến nỗi là người lật lọng đâu. Nhưng cái giống chuối từ cổ chí kim, mỗi cây chỉ sinh được một buồng. Vậy thì hắn đích thực là một con người hay lật lọng.


Chậc! Ừ thì hắn là người lật lọng, như vậy thì đã sao? Không sao cả. Bởi ai đã chửi hắn luôn ba hôm mới biết rằng chửi hắn vô ích thật. Chửi hắn thì mỏi miệng. Nhưng nên buộc chỉ cổ tay để nhớ cho thật kỹ: từ giờ đừng bao giờ dại dột tham lợi mà mua chuối non cho hắn một lần thứ hai. Con mẹ Vụ sẽ không mua chuối non cho hắn một lần thứ hai. Không những thế. Rất có thể, nó sẽ xỉa xói vào mặt hắn mà mắng cho đến nhục. Vậy thì cái ngả dưới rành rành là bất lợi. Hắn quay mặt về ngả trên. Thế nghĩa là cứ đến thẳng hàng thịt chó nhà mụ Tam. Nhưng mụ Tam vốn không ưa bán chịu. Mà hắn thì lại đã chịu của mụ luôn ba bữa, chưa đào đâu ra tiền trả. Cái mặt mụ chắc chắn là sẽ không được tươi tỉnh lắm. Mụ sẽ vác nó lên. Mụ sẽ nhìn cái tổ chim vô hình trên lưng chừng một cây tre ở trước cửa hàng nhà mụ chứ không thèm nhìn hắn. Nếu hắn có lài nhài lắm, thì mụ sẽ hướng đôi môi lên hướng trời xanh mà bảo hắn: trả nợ cũ đi đã rồi hãy ăn. Như vậy thì cũng nhục. Hắn dùng dằng không nỡ bước. Trong khi ấy thì nước dãi từ từ nâng lên miệng hắn. Rượu... thịt chó!... Rượu... thịt chó!... Trước mắt hắn lại lập lòe hai sắc: vàng bóng và xanh nhợt. Hắn nuốt dãi kêu ừng ực. Rồi hắn tặc lưỡi một cái để ra hiệu cho hắn đừng do dự nữa.


Việc gì mà do dự nữa? Thịt chó của mụ Tam để bán chứ không phải để cho ôi thối. Còn hắn muốn ăn thì phải mua. Không có tiền thì mua chịu. Trời sinh ra thế. Dẫu rằng mụ Tam không ưa bán chịu thì hắn cũng đã chịu luôn được ba bữa. Thêm một bữa nữa thì đã sao? Ấy thế là hắn bước. Hắn bước nhanh nhẹn và vui vẻ. Y như một ông phó mới đi đến một đám mời ăn khao.


Nhưng gần đến hàng mụ Tam, hắn nghe tiếng mụ Tam the thé. Đích là mụ vừa xoắn được một kẻ ăn hàng chịu mất mặt mũi, bây giờ mới thấy. Đen đủi thực. Hắn tần ngần đứng lại. Để nghe ngóng xem sao đã! Chà cái con mụ la sát này thật là chua ngoa. Nó bảo người kia: ăn mà không muốn trả thì ăn này, ăn nọ cho nó. Miếng ăn là miếng nhục. Thế này thì khó lòng mà nuốt cho trôi được. Hắn thở dài một tiếng, quay trở về...


Bây giờ thì những bước đi thẫn thờ hơn. Hắn thấy người mỏi mệt, chân tay rời rã. Đúng là một anh nghiện đến bữa chưa được hút, thỉnh thoảng hắn lại đưa tay che miệng ngáp thật to, như một con trâu nghé ngọ, nước mắt ứa ra òng ọng. Khỏi một rặng tre cao, đến cánh đồng. Nắng bừng lên. Nắng mùa thu dìu dịu. Trời thì đẹp. Cánh đồng lúa mơn mởn, run gờn gợn như một làn da quen ủ kín, đột nhiên phơi ra gió lạnh. Phong cảnh quyến rũ như một nhan sắc hoàn toàn nẩy nở. Chao ôi! Giá hắn không bận nghĩ đến rượu và thịt chó! Giá hắn không khổ sở vì một cái dạ dày ưa đòi hỏi thì hắn đã sung sướng lắm, nhưng hắn lại thèm rượu và thịt chó mà không được uống rượu, ăn thịt chó. Bởi vậy hắn cho là đời thật đáng buồn. Kiếp người nản lắm. Trời thì cay nghiệt như một bà già thiếu ăn ngay từ lúc còn thơ. Mà cái nắng hanh của mùa thu vô cùng khó chịu. Đầu hắn ngoẹo xuống vai. Đôi mắt hắn lim dim. Hắn có vẻ vừa đi vừa ngủ. Hắn đã gần ngủ thật thì một việc bỗng làm hắn đột nhiên tỉnh người.


Ấy là lúc hắn lò dò về đến sân. Hắn đang đi bỗng giật mình. Một con chó đang thiu thiu trong một bụi dong ở đầu sân nhảy cẫng lên một cái. Và hắn sực nhớ ra rằng: nhà hắn có một con chó vện, con chó vện ấy hay trông gà hóa cuốc, nên lắm khi chực đớp cả chân người nhà. Đó là một cái tật không thể tha thứ được. Bởi không ai nuôi chó để nó cắn què chân bao giờ. Ờ, mà lại còn điều này nữa: nuôi mèo hay nuôi chó thì cũng phải tùy gia cảnh: nhà giàu nuôi là phải, bởi nhà giàu sợ trộm mà lại nhiều cơm hớt; còn nghèo rớt mồng tơi như nhà hắn, nuôi làm gì? Giá thử nhà còn trẻ nhỏ, thì nuôi chó cũng được việc. Nhưng nhà không còn trẻ nhỏ. Thằng cu con đã lên ba. Nó đã có thể ra vườn được. Hạt gạo năm nay khó chuốc như hạt ngọc. Đến bữa ăn, phải tính đầu để chia cơm. Cứ tình hình ấy, thì phải dở hơi lắm lắm mới nuôi một con chó để chẳng có việc gì cho nó làm... Thế là đủ lắm. Hắn sung sướng vì đã nghĩ ra điều ấy. Hắn gật đầu luôn mấy cái. Rồi hắn đưa mắt nhìn trộm con chó vện. Con chó vện đã lại nằm thiu thiu bên một gốc chuối. Quả thật, nó đã đến ngày tận số. Hắn đi tìm cái thúng. Hắn rón rén đi vòng lại phía sau đuôi con chó. Ập! Con chó giật mình đến thót. Nỗi nguy chụp xuống. Nó bị thu gọn trong cái thúng, không còn chỗ nào mà giẫy giụa. Trong khi ấy, thằng người kêu rối rít: - Chúng mày ơi! Chúng mày ơi! Tao úp được con chó rồi.


Lũ trẻ con đang nghịch đất, quăng cả những cái bẹ mèo chuối đi, xô đẩy nhau ngã kêu chí chóe, và vừa chạy về vừa reo lên: - Chúng mày ơi! Chúng mày ơi! Thầy úp được con chó rồi!...


A ha!


Người cha bảo:


- Chúng mày xúm cả lại đây, đè chặt lấy. Đè thật chặt.


Con Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ, cu Con xúm lại; đứa tì tay, đứa tì chân, đứa ngồi cả lên trên thúng. Người bố đi tìm gậy để ngấng lên cổ chó mà nhận xuống. Lũ trẻ bắt đầu bàn tán:


- Thầy giết chó, nhỉ?


- Ừ, thầy giết con chó để làm thịt chén.


- Thích nhỉ, cu Con nhỉ?


- Thầy cho cả chúng ta ăn thịt chó nhỉ?


- Tao cũng ăn thịt chó.


- Ừ, thầy cho cả mày, cả tao.


- Cả chị Gái...


- Chúng mày có im cả không, chó ra bây giờ thì mất ăn.


Người đàn bà ở chợ về. Thị tủm tỉm cười. Thị cười vì nghĩ đến đàn con. Hôm nay, chẳng biết cao hứng thế nào, thị đã mua cho chúng những bốn cây mía lách. Những ba trinh kia đấy, như thế kể đã nhiều lắm. Cả đội hàng của thị đem đi buổi sáng, bán được vừa sáu xu. Vì đâu thị có sự hoang phí ấy? Có lẽ bởi hôm nay trời mát. Có lẽ bởi thị thương hại thằng cu Con. Mỗi lần mẹ về chợ, cứ nghe tiếng các anh réo là cu Con lại thét lên. Hình như nó sợ các anh chạy ra trước nó. Có khi nó khóc. Có khi mải mốt quá, nó ngã lộn tùng phèo từ trên hè xuống sân.


- Ấy thế mà mười lần thì đến chín, mẹ nó chỉ chìa cho nó bàn tay không. Người đàn bà, nghĩ đến cái bộ mặt tiu nghỉu của con lúc nào, rỏ nước mắt ra lúc ấy. Trông thương đứt ruột. Nhưng biết làm sao được? Đã đành quà của nó, chỉ một đồng trinh là đủ. Nhưng không thể đong một hào chín xu rưỡi gạo. Mà cả ngữ tiêu trong nhà thị, mỗi ngày không thể quá hai đồng hào. Vậy có thương con thì để bụng. Còn cái sự mua quà thật khó lòng thay! Nhưng thời tiết có ảnh hưởng đến người ta rất lạ lùng. Hôm nay, người mẹ đáng thương kia thấy dễ chịu trong người. Khí nóng nặng nề của mùa hạ đã tan rồi. Cái rét sắc như dao của mùa đông chưa tới. Trời xanh ngắt. Nắng êm êm. Gió phơi phới trên da, cho người ta cái cảm giác nhẹ nhõm sau khi tắm. Tạo vật hiền hòa lắm. Tạo vật không đè nén và dọa nạt. Người ta tin tưởng vào đời hơn. Người mẹ nghĩ rằng: mát mẻ thế này thì làm việc là một trò chơi. Rồi thị lại nghĩ rằng nếu mía lách đem đi chợ mà không có người mua thì chẳng ai đem đến chợ. Ấy thế là thị đánh liều bỏ ra xu rưỡi và chọn lấy bốn cây vừa ngon vừa dài. Chọn xong, thị cũng thấy tiếc tiền. Và trên đường về, thị còn lẩn quất nghĩ đến xu rưỡi mãi. Nhưng thị lại nghĩ đến thằng cu Con, đến lúc nó sẽ bíu chặt lấy mấy cây mía lách mà cười nấc lên. Vậy thì thị chẳng nên tiếc nữa. Có mất đâu mà tiếc? Con thị nó sẽ ăn vào miệng.


Về đến nhà, thị cảm động quá, hơi run. Môi thị tự nhiên mỉm cười. Nhưng chẳng có đứa nào reo. Chẳng đứa nào trông thấy mẹ. Chúng đi đâu cả? Thị vừa gọi vừa hoảng hốt chạy ra ngoài bờ ao. À! Hú vía... chúng nó đây cả rồi. Nhưng làm gì mà dao thớt bừa bộn thế? Thị hơi sửng sốt vì bố chúng nó đang thả một con chó thui xuống nước và cầm một búi rơm kỳ cọ. Sao lại có sự long trọng ấy? Thị đã toan hỏi nhưng lại nín, vì lại có cả mấy người anh em bạn chồng. À, thôi phải... có lẽ hôm nay là ngày giỗ ông nào, bà nào đây. Thị ngây mặt ra, cố nhớ... Hăm nhăm tháng chín... không, mà không phải... Giỗ chạp gì hôm nay? Lửa giận chợt bốc lên ngùn ngụt. Thị thâm tím mặt. Thị biết chẳng phải giỗ chạp gì cả. Và có giỗ cũng chẳng cần giết chó. Xưa nay có bao giờ phải giết chó mới làm giỗ được? Nhà nghèo, chỉ bát cơm, bát canh thượng số vài, ba hào chỉ là đủ lắm. Gọi là có nhớ đến ông bà tiên tổ cho khỏi tội. Làm gì mà phải linh đình thế? Khốn nạn! Khốn nạn cho thị lắm! Cái số thị chẳng ra gì nên vớ phải một thằng chồng không biết lo, biết nghĩ, chỉ thích ăn, thích uống. Con chó to bằng ấy, lúc này bán đâu không nổi ba đồng bạc? Cả nhà ăn gạo nửa tháng. Ấy thế mà cái môi nó vừa máy lên một cái, nó đã phải đè ra mà giết ngay. Ăn hoang, ăn hại. Ăn uống thế, có khác gì ăn thịt con không, hở trời? Thị nghẹn ngào cả cổ. Thị muốn gào thật lớn. Nhưng còn vướng mấy người bạn đấy. Thôi, cũng đành cắn răng. Nhưng thị không còn sức mà đứng nhìn nó nữa. Thị chạy về nhà bình bịch. Thị quăng thị xuống cái phản gỗ sung đến phịch. Chao ôi là chán nản, thị thấy một nỗi chán nản rời rã xâm lấn người... Một lúc thật lâu, anh chồng về. Anh vừa lau tay vào vạt áo, vừa tươi cười hỏi:


- Nhà còn gạo không?


- Làm gì mà còn gạo!


- Thế thì làm sao được?


- Muốn làm sao thì làm!


Anh bẽ lắm. Giá phải như lúc khác thì anh đã cho cái tát.


Nhưng lúc này làm thế có khác gì đuổi bạn. Vả lại chị vợ đang tức tối. Đánh thị, chắc thị sẽ gào lên đến bảy làng nghe thấy. Còn ra quái gì! Anh cũng đành cười gượng mà nịnh nọt cho xong chuyện.


- Bu mày chịu khó đi đong chịu vậy?


- Tôi không rỗi!


Hắn đã lộn tiết lên rồi, không còn nhịn được. Mắt hắn trợn lên. Hắn gườm gườm nhìn vợ một giây, rồi hục hặc:


- Cái giống nhà mày khó bảo!


Mắt người vợ đã rân rấn nước. Hắn biết là hắn thắng. Chỉ cần khéo hơn một chút. Hắn lại xoay ra đấu dịu:


- Cái thứ người đâu mà ngang như cua vậy? Phải biết: tao muốn mất tiền làm gì chứ? Nhưng chết cái ăn của người ta mãi, chẳng lẽ không mời lại người ta một bữa thì cái mặt mình còn ra mặt gì? Nhân tiện con chó nó ăn phải bả hay sao chẳng biết, sáng hôm nay cứ rú lên rồi lăn ra giẫy chết...


À, ra thế... Thị hơi nguôi lòng một chút. Thật ra thì thị biết không nguôi, không được. Nó cục như chó vậy. Ương với nó, nó thượng cẳng chân, hạ cẳng tay là thường. Thiệt thân, mà kết cục cũng vẫn phải đủ gạo cho nó thổi. Thị đứng lên, vừa nguýt hắn, vừa lạu bạu:


- Đong mấy hào?


Thế là hắn lại đổi mặt ra tươi cười:


- Thì bu mày liệu đấy. Có ba người khách với tôi là bốn. Với lại mẹ con nhà mày nữa.


- Mẹ con chúng tôi thì nhịn. Đong chịu chỉ có thể đong đến năm hào là hết đất. Ai bán cho mình hơn?


- Ừ thì đong năm hào. Với bảo mẹ Xuyên bán chịu cho tao chai rượu nữa. Mà cầm cả chai nước mắm đi mua chịu cho tao một hào. Bao nhiêu là thứ! Thị rên lên như một người mất cướp. Nhưng nó đã muốn thế thì mặc nó. Thị cứ mua cho nó. Rồi bán gì đi mà trả nợ thì cứ bán. Còn thì ăn, hết thì nhịn. Bố ăn lắm thì con chết đói. Cùng lắm thì bồng bế nhau đi ăn mày...


Thị vừa thở dài vừa đi.


Bây giờ thì mọi thức đã xong rồi. Con chó hơi gầy. Nhưng gầy thì cũng tốt. Hai bát tiết canh đông lắm. Ấy là cái điềm lành báo rằng cuộc vui sẽ hoàn toàn. Những miếng thịt ngon thái tái trộn ngay vào hai cái bát chậu thật to cho khỏi lôi thôi. Vẽ vời đơm vào đĩa hẳn hoi thì biết bằng nào đĩa cho xuể? Nồi xáo bốc hơi thơm lựng, chẳng cần múc làm gì cho rếch bát. Sau khi đã hỏi qua ý khách, chủ nhà định bê cả nồi lên để lúc nào ăn cơm hãy múc ra. Múc ngay vào những bát bây giờ dùng đựng tái. Như vậy, tiện. Chỉ có hai cái bát mà đủ cả. Ăn hết rồi lại múc. Ăn thịt chó chứ có ăn bát đâu mà cần... Hắn lảm nhảm bênh vực cho cách dự định của hắn như thế mãi, tuy chẳng có ai phản đối. Họ cũng thừa biết cả cửa nhà cơ nghiệp nhà hắn chỉ có hai cái bát chậu ấy thôi. Nhưng có gì. Miễn là được uống rượu sớm hơn một chút. Anh nào anh ấy đói ngấu. Mà cái mùi thịt chó bốc lên thơm vô cùng. Bao nhiêu là nước răng?


Chủ nhân, sau một cái liếm môi rất nhẹn, hất hàm hỏi khách:


- Xong rồi chứ?


- Xong!


- Bưng mâm nhé?


- Ừ, làm thì làm!


- Nào, bưng mâm!...


Hắn dạng hai chân, khuỳnh hai cánh tay và thè lè cái lưỡi ra như một con chó về mùa nắng. Trông như hắn muốn vần một cái cối đá nhất chứ không phải để bưng một cái mâm bằng gỗ. Nhưng thật ra đó chỉ là một cử chỉ trịnh trọng và sung sướng. Binh Hựu giơ bàn tay trái lên làm trống khẩu, dùng ngón trỏ tay kia làm dùi, ưỡn ngực ra, vừa gõ vừa kêu:


- Tung! Tung!... Tung!


Ấy là cái hiệu trống để cho phu nhắc kiệu lên vai. Chủ nhân ý tứ nâng cái mâm thịt chó lên ngang mặt...


- Tung! Tung!


Thế nghĩa là: Đi! Đi! Và chúng đi. Lũ trẻ, thấy người lớn cũng làm trò như chúng, thích chí cười sằng sặc. Chúng à à tuồn vào nhà trước, như đàn ruồi. Cu Nhỡ trèo lên phản ngồi xếp bằng sẵn. Cu Con trèo không kịp khóc òa lên. Nhưng người bố trợn mắt thật to và quát:


- Những thằng này hỗn! Chỗ chúng mày ngồi đấy à? Cu Nhỡ cười như mếu, vội vàng tụt xuống. Cu Nhớn thấy thế làm khoái lắm. Nó vừa lêu lêu em, vừa nhạo:


- Xấu! Không ngồi đấy đi... xấu! Không ngồi đấy đi... Nhưng nó cũng cụt hứng ngay. Bố nó quay lại nó: - Còn mày nữa! Không xách thằng cu Con đi à? Đưa nhau xuống bếp, rồi ăn cơm. Khi cả ba đứa trẻ đã lụt cụt chạy ra rồi, hắn mới đặt mâm xuống phản, nháy mắt và xếch môi lên để làm cái điệu bộ cười, rồi toang toang bảo như một kẻ cả vẫn đi ăn, đi họp:


- Láo toét! Chỗ này là chỗ quan viên uống rượu. Có phải không, các cụ?


Nhiêu Cừ bẹp mồm ra:


- Bẩm cụ bá dạy thế thật là chí lý.


- Ồ, có chăng thì thế chứ!... Vậy mời quan viên nào!


Ba ông khách ngồi. Chủ nhân chắp hai tay trước ngực, rồi lại đưa tay phải lên đầu gãi, lầm rầm như khấn ông vải về ăn cỗ:


- Bẩm các cụ, chả mấy khi các cụ có lòng chiếu cố đến chơi nhà chúng cháu... Gọi là có chén rượu nhạt, xin rước các cụ cứ thật thà đi cho.


- Ờ!


Nghe tiếng! "ờ" rất sang rung lên trong cái cổ họng của binh Hựu bắt chước giọng ông chánh Ngạc, cả bốn anh cùng cười. Chủ nhân rót rượu ra hai cái bát. Hai người uống chung một bát. Chúng bắt đầu ăn, uống, tranh nhau nói và cười rung. Người mẹ rất còm cõi và bốn đứa con gầy ốm, quây quần với nhau trong xó bếp. Trong gia đình này, năm mẹ con thường giống như một bọn dân hèn yếu, cùng chung phận con sâu, cái kiến. Thấy lũ con đứa nào cũng nhăn nhăn, nhó nhó, người mẹ thương đứt ruột. Thị biết rằng chúng đói. Khi người ta đã đói mà ngửi thấy mùi thịt chó, thì bụng càng đói thêm. Thế mà bữa rượu của người bố với ba ông khách cứ kéo dài ra mãi. Nghĩ mà bực quá! Cái thể không chết được, giá chết được thì thị chỉ thắt cổ mà chết đi cho rồi... Thị dỗ con:


- Cố mà nhịn lúc nữa, các con ạ! Đợi trên nhà ăn xong, còn thừa thì ta ăn.


Rồi muốn cho chúng quên đi, thị sổ tóc ra cho chúng xúm vào bắt chấy. Úi chà! Nhiều chấy quá! Chỉ việc rẽ một đám tóc ra là đủ thấy bốn, năm con bò lổm ngổm. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ thi nhau bắt. Chúng cho cu Con mấy con chấy kềnh làm trâu. Mới đầu cái trò ấy cũng hay hay. Nhưng chỉ một lúc là chúng chán. Thằng cu Con ra hiệu đình công trước. Nó lăn vào lòng mẹ, oằn oại vừa hụ hị kêu:


- Đói! Bu ơi! Đói.


Tức khắc những đứa kia cũng nhớ ra rằng chúng đói. Chúng không bắt chấy cho mẹ nữa. Chúng thở dài. Chúng nuốt nước bọt nhem nhép. Chúng thừ mặt ra. Chúng nằm ẹp xuống đất và lật áo lên để khoe cái bụng. Bụng đứa nào cũng gần dính lưng.


Mắt thị rơm rớm nước. Cũng may, tiếng người bố trên nhà gọi:


- Cái Gái đâu! Dẹp mâm đi, này!


Bốn đứa trẻ cùng nhỏm dậy: mặt chúng đột nhiên tươi tỉnh lại. Gái "vâng" một tiếng thật to và chạy lên. Cu Nhớn, cu Nhỡ ngồi chồm chồm đợi... Một lát sau, Gái bê mâm xuống. Nó nâng nâng lên ngang má như cha lúc nãy. Các em nó đứng lên, chực đu lấy cái mâm. Nó càng nâng cao hơn, mồm thét:


- Khoan! Khoan! Kẻo vỡ...


Cu Nhớn thét:


- Thì bỏ xuống?...


Gái vênh mặt lên, trêu nó:


- Không bỏ. Không cho chúng mày ăn.


- Có sợ thành tật không?


- Không cho ăn thật đấy.


Cu Nhỡ sốt ruột, khoặm mặt lại, vằng nhau với chị:


Gái hạ nhanh mâm xuống đất bảo:


- Này, ăn đi!


- Nó ngẩng mặt nhìn các em, cười the thé. Người mẹ xịu ngay mặt xuống. Trong mâm, chỉ còn bát không. Thằng cu Con khóc òa lên. Nó lăn ra, chân đập như một người giẫy chết, tay cào xé mẹ. Người mẹ đỏ mũi lên và mếu xệch đi, rưng rưng khóc. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ cùng khóc theo.



Nam Cao.
 
K

kachia_17

Các bạn nghĩ gì khi đọc xong tác phẩm này? Có thể nó đã quá xa vời với chúng ta chăng? Theo các bạn câu chuyện này dừng lại ở đây đã được chưa? Hãy viết tiếp đoạn kết cho tác phẩm này các bạn nhé.Đừng để bọn trẻ phải chịu khổ như vậy....
Bạn nào có cách viết hay và đọc đáo nhất mình sẽ gửi tặng cuốn truyện ngắn ''Làng nhỏ trong thung'' ( Các bạn hãy để lại địa chỉ liên lạc nhé :D )
 
L

liknight_kamihame

Nghe lạ lạ....... cái mà trẻ con không đc ăn thịt chó í. Mà thôi, em hết thắc mắc rồi. Nhìn xuống thấy tác giả Văn cao là hết í kiến.
 
K

kachia_17

22

liknight_kamihame said:
Nghe lạ lạ....... cái mà trẻ con không đc ăn thịt chó í. Mà thôi, em hết thắc mắc rồi. Nhìn xuống thấy tác giả Văn cao là hết í kiến.
Hjx, Nam Cao mà bạn lại nhầm sang cả nhạc sĩ Văn Cao được sao! Lạy chúa tôi!!!!!!!!!
 
H

huyenbang

nick yahoo của cậu?
tớ muốn cậu chia sẻ với tớ chút kn được ko?
haydetinhyeuchiloi_ls
nick tớ đấy
pm nhé!
 
V

vananhkc

Re: 22

kachia_17 said:
Trẻ con không được ăn thịt chó!


Hắn hút đến điếu này là điếu thứ ba. Ba điếu thông luôn. Cái thuốc lào, hút vào một buổi sáng lành lạnh như buổi sáng hôm nay, sao mà ngon thế! Khói đậm đà như vị mật, thấm qua lưỡi để pha vào với máu, lan đi từng thớ thịt, làm da thịt đê mê. Đôi mắt hắn gà gà; hơi thở phì phò như ống bễ lò rèn, những ngón tay lờ rờ trên không khí mơn man một dáng hình tưởng tượng. Như thế trong vài ba phút. Rồi cơn say lại nhạt. Cái thú vị chính là ở đó. Những cơn say, nếu kéo dài ra tất thành nôn nao. Người ta đâm chúi đầu vào bức vách hoặc xều dãi ra như một con chó trước khi hóa dại! Còn cái gì thô tục bằng? Đằng này những cơn say rất chóng qua. Người hút, vừa hút xong, đã bị muốn hút luôn điếu nữa. Hút bằng nào cũng không biết chán. Hút đi, hút lại mà vẫn còn thấy ngon.


Cái điếu là một vật vô tri mà dường như cũng biết nịnh đời. Vốn dĩ xưa nay nó là một cái điếu rất tồi. Hút không kêu.


Nó chỉ xìn xịt như tiếng một vật gì bị ẩm. Nghe chán lắm. Thế mà hôm nay, chẳng biết cao hứng thế nào, nó lại kêu. Những tiếng nổ tanh tách nẩy lên trên không khí khô nỏ và trong veo của mùa thu như một chuỗi cười giòn. À, thì ra cái điếu hình như cũng có hồn. Vào một buổi sáng mát mẻ như buổi sáng hôm nay, tự nhiên nó hết ươn ao, và thấy cần phải ầm ĩ thì mới khoái. Người cũng vậy. Hắn thấy lúc này mà phải bó gối ngồi nhà thì cái đời thật khổ. Ấy thế là hắn càu nhàu chửi tục. Hắn chửi những quân hàng bưởi không chịu đến mua cây bưởi đào nhà hắn để hắn có dăm đồng bạc tiêu. Năm đồng bạc!... Mắt hắn sáng hẳn lên một chút. Chúng có vẻ vừa trông thấy con chó thui béo căng và vàng óng treo lủng lẳng bên trên cái chõng hàng nhà mụ Tam. Nước dãi tứa ra đầy miệng hắn, một hơi rượu rất mong manh thoáng qua mũi hắn rồi vụt biến. Chà! Hôm nay mát trời lắm nhỉ? Rượu với thịt chó mà lại gặp khí trời mát thì ngon biết chừng nào là ngon! Hắn nuốt dãi hai, ba lượt. Rồi hắn lại nhịt thuốc vào nõ điếu, châm đóm hút thêm điếu nữa. Cái điếu vẫn kêu tanh tách. Nhưng khói thuốc bây giờ sao nhạt thế! Khi đang hút thì nó nhạt như nước lã, mà hút xong thì lại hơi đắng miệng. Hắn nhổ bọt vào chân cột rồi vừa chép chép môi vừa hếch mặt nhìn lên nóc nhà. Rượu... thịt chó... rượu... thịt chó... óc hắn cứ luẩn quẩn nghĩ đến hai thứ ấy. Sắc vàng bóng của một cái mông chó thui nhầy nhầy mỡ với sắc xanh nhạt của một chai Văn-điển đầy ăm ắp cứ lần lượt hiện ra. Ờ! Ờ! Mát trời thế này mà được uống rượu thì tuyệt quá! Nhưng đào đâu ra tiền? Ấy thế là hắn lại chửi những quân hàng bưởi. Rồi nhân tiện, hắn chửi luôn vợ hắn cái "con mèo mù" đà đẫn mãi, bưởi chín đã gần muốn rụng mà vẫn chưa chịu rước người vào mua. Chửi chán, hắn tặc lưỡi một cái để bảo hắn rằng: không chửi nữa. Hắn quăng mạnh hai chân xuống đất để đứng lên và ra đi. Hắn đi cúi mặt, bước những bước mải mốt và cả quyết. Người ta cứ tưởng hắn như đã định sẵn một nơi nào để đến.


Nhưng không phải. Đến đầu ngõ, hắn tần ngần dừng lại. Bởi đến đầu ngõ, hắn gặp một con đường hai ngả. Biết đi ngả dưới hay là ngả trên? Đi ngả dưới là đến nhà con mẹ Vụ để gạ bán non cho nó mươi gốc chuối. Nhưng con mẹ Vụ sẽ nhớ ra rằng: đã có lần hắn bán cho thị mười gốc chuối lấy hai đồng bạc đi xóc đĩa rồi lại bán lần nữa cho người khác lấy ngót hai đồng bạc. Giá mỗi cây chuối có sinh ra lấy hai buồng thì hắn không đến nỗi là người lật lọng đâu. Nhưng cái giống chuối từ cổ chí kim, mỗi cây chỉ sinh được một buồng. Vậy thì hắn đích thực là một con người hay lật lọng.


Chậc! Ừ thì hắn là người lật lọng, như vậy thì đã sao? Không sao cả. Bởi ai đã chửi hắn luôn ba hôm mới biết rằng chửi hắn vô ích thật. Chửi hắn thì mỏi miệng. Nhưng nên buộc chỉ cổ tay để nhớ cho thật kỹ: từ giờ đừng bao giờ dại dột tham lợi mà mua chuối non cho hắn một lần thứ hai. Con mẹ Vụ sẽ không mua chuối non cho hắn một lần thứ hai. Không những thế. Rất có thể, nó sẽ xỉa xói vào mặt hắn mà mắng cho đến nhục. Vậy thì cái ngả dưới rành rành là bất lợi. Hắn quay mặt về ngả trên. Thế nghĩa là cứ đến thẳng hàng thịt chó nhà mụ Tam. Nhưng mụ Tam vốn không ưa bán chịu. Mà hắn thì lại đã chịu của mụ luôn ba bữa, chưa đào đâu ra tiền trả. Cái mặt mụ chắc chắn là sẽ không được tươi tỉnh lắm. Mụ sẽ vác nó lên. Mụ sẽ nhìn cái tổ chim vô hình trên lưng chừng một cây tre ở trước cửa hàng nhà mụ chứ không thèm nhìn hắn. Nếu hắn có lài nhài lắm, thì mụ sẽ hướng đôi môi lên hướng trời xanh mà bảo hắn: trả nợ cũ đi đã rồi hãy ăn. Như vậy thì cũng nhục. Hắn dùng dằng không nỡ bước. Trong khi ấy thì nước dãi từ từ nâng lên miệng hắn. Rượu... thịt chó!... Rượu... thịt chó!... Trước mắt hắn lại lập lòe hai sắc: vàng bóng và xanh nhợt. Hắn nuốt dãi kêu ừng ực. Rồi hắn tặc lưỡi một cái để ra hiệu cho hắn đừng do dự nữa.


Việc gì mà do dự nữa? Thịt chó của mụ Tam để bán chứ không phải để cho ôi thối. Còn hắn muốn ăn thì phải mua. Không có tiền thì mua chịu. Trời sinh ra thế. Dẫu rằng mụ Tam không ưa bán chịu thì hắn cũng đã chịu luôn được ba bữa. Thêm một bữa nữa thì đã sao? Ấy thế là hắn bước. Hắn bước nhanh nhẹn và vui vẻ. Y như một ông phó mới đi đến một đám mời ăn khao.


Nhưng gần đến hàng mụ Tam, hắn nghe tiếng mụ Tam the thé. Đích là mụ vừa xoắn được một kẻ ăn hàng chịu mất mặt mũi, bây giờ mới thấy. Đen đủi thực. Hắn tần ngần đứng lại. Để nghe ngóng xem sao đã! Chà cái con mụ la sát này thật là chua ngoa. Nó bảo người kia: ăn mà không muốn trả thì ăn này, ăn nọ cho nó. Miếng ăn là miếng nhục. Thế này thì khó lòng mà nuốt cho trôi được. Hắn thở dài một tiếng, quay trở về...


Bây giờ thì những bước đi thẫn thờ hơn. Hắn thấy người mỏi mệt, chân tay rời rã. Đúng là một anh nghiện đến bữa chưa được hút, thỉnh thoảng hắn lại đưa tay che miệng ngáp thật to, như một con trâu nghé ngọ, nước mắt ứa ra òng ọng. Khỏi một rặng tre cao, đến cánh đồng. Nắng bừng lên. Nắng mùa thu dìu dịu. Trời thì đẹp. Cánh đồng lúa mơn mởn, run gờn gợn như một làn da quen ủ kín, đột nhiên phơi ra gió lạnh. Phong cảnh quyến rũ như một nhan sắc hoàn toàn nẩy nở. Chao ôi! Giá hắn không bận nghĩ đến rượu và thịt chó! Giá hắn không khổ sở vì một cái dạ dày ưa đòi hỏi thì hắn đã sung sướng lắm, nhưng hắn lại thèm rượu và thịt chó mà không được uống rượu, ăn thịt chó. Bởi vậy hắn cho là đời thật đáng buồn. Kiếp người nản lắm. Trời thì cay nghiệt như một bà già thiếu ăn ngay từ lúc còn thơ. Mà cái nắng hanh của mùa thu vô cùng khó chịu. Đầu hắn ngoẹo xuống vai. Đôi mắt hắn lim dim. Hắn có vẻ vừa đi vừa ngủ. Hắn đã gần ngủ thật thì một việc bỗng làm hắn đột nhiên tỉnh người.


Ấy là lúc hắn lò dò về đến sân. Hắn đang đi bỗng giật mình. Một con chó đang thiu thiu trong một bụi dong ở đầu sân nhảy cẫng lên một cái. Và hắn sực nhớ ra rằng: nhà hắn có một con chó vện, con chó vện ấy hay trông gà hóa cuốc, nên lắm khi chực đớp cả chân người nhà. Đó là một cái tật không thể tha thứ được. Bởi không ai nuôi chó để nó cắn què chân bao giờ. Ờ, mà lại còn điều này nữa: nuôi mèo hay nuôi chó thì cũng phải tùy gia cảnh: nhà giàu nuôi là phải, bởi nhà giàu sợ trộm mà lại nhiều cơm hớt; còn nghèo rớt mồng tơi như nhà hắn, nuôi làm gì? Giá thử nhà còn trẻ nhỏ, thì nuôi chó cũng được việc. Nhưng nhà không còn trẻ nhỏ. Thằng cu con đã lên ba. Nó đã có thể ra vườn được. Hạt gạo năm nay khó chuốc như hạt ngọc. Đến bữa ăn, phải tính đầu để chia cơm. Cứ tình hình ấy, thì phải dở hơi lắm lắm mới nuôi một con chó để chẳng có việc gì cho nó làm... Thế là đủ lắm. Hắn sung sướng vì đã nghĩ ra điều ấy. Hắn gật đầu luôn mấy cái. Rồi hắn đưa mắt nhìn trộm con chó vện. Con chó vện đã lại nằm thiu thiu bên một gốc chuối. Quả thật, nó đã đến ngày tận số. Hắn đi tìm cái thúng. Hắn rón rén đi vòng lại phía sau đuôi con chó. Ập! Con chó giật mình đến thót. Nỗi nguy chụp xuống. Nó bị thu gọn trong cái thúng, không còn chỗ nào mà giẫy giụa. Trong khi ấy, thằng người kêu rối rít: - Chúng mày ơi! Chúng mày ơi! Tao úp được con chó rồi.


Lũ trẻ con đang nghịch đất, quăng cả những cái bẹ mèo chuối đi, xô đẩy nhau ngã kêu chí chóe, và vừa chạy về vừa reo lên: - Chúng mày ơi! Chúng mày ơi! Thầy úp được con chó rồi!...


A ha!


Người cha bảo:


- Chúng mày xúm cả lại đây, đè chặt lấy. Đè thật chặt.


Con Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ, cu Con xúm lại; đứa tì tay, đứa tì chân, đứa ngồi cả lên trên thúng. Người bố đi tìm gậy để ngấng lên cổ chó mà nhận xuống. Lũ trẻ bắt đầu bàn tán:


- Thầy giết chó, nhỉ?


- Ừ, thầy giết con chó để làm thịt chén.


- Thích nhỉ, cu Con nhỉ?


- Thầy cho cả chúng ta ăn thịt chó nhỉ?


- Tao cũng ăn thịt chó.


- Ừ, thầy cho cả mày, cả tao.


- Cả chị Gái...


- Chúng mày có im cả không, chó ra bây giờ thì mất ăn.


Người đàn bà ở chợ về. Thị tủm tỉm cười. Thị cười vì nghĩ đến đàn con. Hôm nay, chẳng biết cao hứng thế nào, thị đã mua cho chúng những bốn cây mía lách. Những ba trinh kia đấy, như thế kể đã nhiều lắm. Cả đội hàng của thị đem đi buổi sáng, bán được vừa sáu xu. Vì đâu thị có sự hoang phí ấy? Có lẽ bởi hôm nay trời mát. Có lẽ bởi thị thương hại thằng cu Con. Mỗi lần mẹ về chợ, cứ nghe tiếng các anh réo là cu Con lại thét lên. Hình như nó sợ các anh chạy ra trước nó. Có khi nó khóc. Có khi mải mốt quá, nó ngã lộn tùng phèo từ trên hè xuống sân.


- Ấy thế mà mười lần thì đến chín, mẹ nó chỉ chìa cho nó bàn tay không. Người đàn bà, nghĩ đến cái bộ mặt tiu nghỉu của con lúc nào, rỏ nước mắt ra lúc ấy. Trông thương đứt ruột. Nhưng biết làm sao được? Đã đành quà của nó, chỉ một đồng trinh là đủ. Nhưng không thể đong một hào chín xu rưỡi gạo. Mà cả ngữ tiêu trong nhà thị, mỗi ngày không thể quá hai đồng hào. Vậy có thương con thì để bụng. Còn cái sự mua quà thật khó lòng thay! Nhưng thời tiết có ảnh hưởng đến người ta rất lạ lùng. Hôm nay, người mẹ đáng thương kia thấy dễ chịu trong người. Khí nóng nặng nề của mùa hạ đã tan rồi. Cái rét sắc như dao của mùa đông chưa tới. Trời xanh ngắt. Nắng êm êm. Gió phơi phới trên da, cho người ta cái cảm giác nhẹ nhõm sau khi tắm. Tạo vật hiền hòa lắm. Tạo vật không đè nén và dọa nạt. Người ta tin tưởng vào đời hơn. Người mẹ nghĩ rằng: mát mẻ thế này thì làm việc là một trò chơi. Rồi thị lại nghĩ rằng nếu mía lách đem đi chợ mà không có người mua thì chẳng ai đem đến chợ. Ấy thế là thị đánh liều bỏ ra xu rưỡi và chọn lấy bốn cây vừa ngon vừa dài. Chọn xong, thị cũng thấy tiếc tiền. Và trên đường về, thị còn lẩn quất nghĩ đến xu rưỡi mãi. Nhưng thị lại nghĩ đến thằng cu Con, đến lúc nó sẽ bíu chặt lấy mấy cây mía lách mà cười nấc lên. Vậy thì thị chẳng nên tiếc nữa. Có mất đâu mà tiếc? Con thị nó sẽ ăn vào miệng.


Về đến nhà, thị cảm động quá, hơi run. Môi thị tự nhiên mỉm cười. Nhưng chẳng có đứa nào reo. Chẳng đứa nào trông thấy mẹ. Chúng đi đâu cả? Thị vừa gọi vừa hoảng hốt chạy ra ngoài bờ ao. À! Hú vía... chúng nó đây cả rồi. Nhưng làm gì mà dao thớt bừa bộn thế? Thị hơi sửng sốt vì bố chúng nó đang thả một con chó thui xuống nước và cầm một búi rơm kỳ cọ. Sao lại có sự long trọng ấy? Thị đã toan hỏi nhưng lại nín, vì lại có cả mấy người anh em bạn chồng. À, thôi phải... có lẽ hôm nay là ngày giỗ ông nào, bà nào đây. Thị ngây mặt ra, cố nhớ... Hăm nhăm tháng chín... không, mà không phải... Giỗ chạp gì hôm nay? Lửa giận chợt bốc lên ngùn ngụt. Thị thâm tím mặt. Thị biết chẳng phải giỗ chạp gì cả. Và có giỗ cũng chẳng cần giết chó. Xưa nay có bao giờ phải giết chó mới làm giỗ được? Nhà nghèo, chỉ bát cơm, bát canh thượng số vài, ba hào chỉ là đủ lắm. Gọi là có nhớ đến ông bà tiên tổ cho khỏi tội. Làm gì mà phải linh đình thế? Khốn nạn! Khốn nạn cho thị lắm! Cái số thị chẳng ra gì nên vớ phải một thằng chồng không biết lo, biết nghĩ, chỉ thích ăn, thích uống. Con chó to bằng ấy, lúc này bán đâu không nổi ba đồng bạc? Cả nhà ăn gạo nửa tháng. Ấy thế mà cái môi nó vừa máy lên một cái, nó đã phải đè ra mà giết ngay. Ăn hoang, ăn hại. Ăn uống thế, có khác gì ăn thịt con không, hở trời? Thị nghẹn ngào cả cổ. Thị muốn gào thật lớn. Nhưng còn vướng mấy người bạn đấy. Thôi, cũng đành cắn răng. Nhưng thị không còn sức mà đứng nhìn nó nữa. Thị chạy về nhà bình bịch. Thị quăng thị xuống cái phản gỗ sung đến phịch. Chao ôi là chán nản, thị thấy một nỗi chán nản rời rã xâm lấn người... Một lúc thật lâu, anh chồng về. Anh vừa lau tay vào vạt áo, vừa tươi cười hỏi:


- Nhà còn gạo không?


- Làm gì mà còn gạo!


- Thế thì làm sao được?


- Muốn làm sao thì làm!


Anh bẽ lắm. Giá phải như lúc khác thì anh đã cho cái tát.


Nhưng lúc này làm thế có khác gì đuổi bạn. Vả lại chị vợ đang tức tối. Đánh thị, chắc thị sẽ gào lên đến bảy làng nghe thấy. Còn ra quái gì! Anh cũng đành cười gượng mà nịnh nọt cho xong chuyện.


- Bu mày chịu khó đi đong chịu vậy?


- Tôi không rỗi!


Hắn đã lộn tiết lên rồi, không còn nhịn được. Mắt hắn trợn lên. Hắn gườm gườm nhìn vợ một giây, rồi hục hặc:


- Cái giống nhà mày khó bảo!


Mắt người vợ đã rân rấn nước. Hắn biết là hắn thắng. Chỉ cần khéo hơn một chút. Hắn lại xoay ra đấu dịu:


- Cái thứ người đâu mà ngang như cua vậy? Phải biết: tao muốn mất tiền làm gì chứ? Nhưng chết cái ăn của người ta mãi, chẳng lẽ không mời lại người ta một bữa thì cái mặt mình còn ra mặt gì? Nhân tiện con chó nó ăn phải bả hay sao chẳng biết, sáng hôm nay cứ rú lên rồi lăn ra giẫy chết...


À, ra thế... Thị hơi nguôi lòng một chút. Thật ra thì thị biết không nguôi, không được. Nó cục như chó vậy. Ương với nó, nó thượng cẳng chân, hạ cẳng tay là thường. Thiệt thân, mà kết cục cũng vẫn phải đủ gạo cho nó thổi. Thị đứng lên, vừa nguýt hắn, vừa lạu bạu:


- Đong mấy hào?


Thế là hắn lại đổi mặt ra tươi cười:


- Thì bu mày liệu đấy. Có ba người khách với tôi là bốn. Với lại mẹ con nhà mày nữa.


- Mẹ con chúng tôi thì nhịn. Đong chịu chỉ có thể đong đến năm hào là hết đất. Ai bán cho mình hơn?


- Ừ thì đong năm hào. Với bảo mẹ Xuyên bán chịu cho tao chai rượu nữa. Mà cầm cả chai nước mắm đi mua chịu cho tao một hào. Bao nhiêu là thứ! Thị rên lên như một người mất cướp. Nhưng nó đã muốn thế thì mặc nó. Thị cứ mua cho nó. Rồi bán gì đi mà trả nợ thì cứ bán. Còn thì ăn, hết thì nhịn. Bố ăn lắm thì con chết đói. Cùng lắm thì bồng bế nhau đi ăn mày...


Thị vừa thở dài vừa đi.


Bây giờ thì mọi thức đã xong rồi. Con chó hơi gầy. Nhưng gầy thì cũng tốt. Hai bát tiết canh đông lắm. Ấy là cái điềm lành báo rằng cuộc vui sẽ hoàn toàn. Những miếng thịt ngon thái tái trộn ngay vào hai cái bát chậu thật to cho khỏi lôi thôi. Vẽ vời đơm vào đĩa hẳn hoi thì biết bằng nào đĩa cho xuể? Nồi xáo bốc hơi thơm lựng, chẳng cần múc làm gì cho rếch bát. Sau khi đã hỏi qua ý khách, chủ nhà định bê cả nồi lên để lúc nào ăn cơm hãy múc ra. Múc ngay vào những bát bây giờ dùng đựng tái. Như vậy, tiện. Chỉ có hai cái bát mà đủ cả. Ăn hết rồi lại múc. Ăn thịt chó chứ có ăn bát đâu mà cần... Hắn lảm nhảm bênh vực cho cách dự định của hắn như thế mãi, tuy chẳng có ai phản đối. Họ cũng thừa biết cả cửa nhà cơ nghiệp nhà hắn chỉ có hai cái bát chậu ấy thôi. Nhưng có gì. Miễn là được uống rượu sớm hơn một chút. Anh nào anh ấy đói ngấu. Mà cái mùi thịt chó bốc lên thơm vô cùng. Bao nhiêu là nước răng?


Chủ nhân, sau một cái liếm môi rất nhẹn, hất hàm hỏi khách:


- Xong rồi chứ?


- Xong!


- Bưng mâm nhé?


- Ừ, làm thì làm!


- Nào, bưng mâm!...


Hắn dạng hai chân, khuỳnh hai cánh tay và thè lè cái lưỡi ra như một con chó về mùa nắng. Trông như hắn muốn vần một cái cối đá nhất chứ không phải để bưng một cái mâm bằng gỗ. Nhưng thật ra đó chỉ là một cử chỉ trịnh trọng và sung sướng. Binh Hựu giơ bàn tay trái lên làm trống khẩu, dùng ngón trỏ tay kia làm dùi, ưỡn ngực ra, vừa gõ vừa kêu:


- Tung! Tung!... Tung!


Ấy là cái hiệu trống để cho phu nhắc kiệu lên vai. Chủ nhân ý tứ nâng cái mâm thịt chó lên ngang mặt...


- Tung! Tung!


Thế nghĩa là: Đi! Đi! Và chúng đi. Lũ trẻ, thấy người lớn cũng làm trò như chúng, thích chí cười sằng sặc. Chúng à à tuồn vào nhà trước, như đàn ruồi. Cu Nhỡ trèo lên phản ngồi xếp bằng sẵn. Cu Con trèo không kịp khóc òa lên. Nhưng người bố trợn mắt thật to và quát:


- Những thằng này hỗn! Chỗ chúng mày ngồi đấy à? Cu Nhỡ cười như mếu, vội vàng tụt xuống. Cu Nhớn thấy thế làm khoái lắm. Nó vừa lêu lêu em, vừa nhạo:


- Xấu! Không ngồi đấy đi... xấu! Không ngồi đấy đi... Nhưng nó cũng cụt hứng ngay. Bố nó quay lại nó: - Còn mày nữa! Không xách thằng cu Con đi à? Đưa nhau xuống bếp, rồi ăn cơm. Khi cả ba đứa trẻ đã lụt cụt chạy ra rồi, hắn mới đặt mâm xuống phản, nháy mắt và xếch môi lên để làm cái điệu bộ cười, rồi toang toang bảo như một kẻ cả vẫn đi ăn, đi họp:


- Láo toét! Chỗ này là chỗ quan viên uống rượu. Có phải không, các cụ?


Nhiêu Cừ bẹp mồm ra:


- Bẩm cụ bá dạy thế thật là chí lý.


- Ồ, có chăng thì thế chứ!... Vậy mời quan viên nào!


Ba ông khách ngồi. Chủ nhân chắp hai tay trước ngực, rồi lại đưa tay phải lên đầu gãi, lầm rầm như khấn ông vải về ăn cỗ:


- Bẩm các cụ, chả mấy khi các cụ có lòng chiếu cố đến chơi nhà chúng cháu... Gọi là có chén rượu nhạt, xin rước các cụ cứ thật thà đi cho.


- Ờ!


Nghe tiếng! "ờ" rất sang rung lên trong cái cổ họng của binh Hựu bắt chước giọng ông chánh Ngạc, cả bốn anh cùng cười. Chủ nhân rót rượu ra hai cái bát. Hai người uống chung một bát. Chúng bắt đầu ăn, uống, tranh nhau nói và cười rung. Người mẹ rất còm cõi và bốn đứa con gầy ốm, quây quần với nhau trong xó bếp. Trong gia đình này, năm mẹ con thường giống như một bọn dân hèn yếu, cùng chung phận con sâu, cái kiến. Thấy lũ con đứa nào cũng nhăn nhăn, nhó nhó, người mẹ thương đứt ruột. Thị biết rằng chúng đói. Khi người ta đã đói mà ngửi thấy mùi thịt chó, thì bụng càng đói thêm. Thế mà bữa rượu của người bố với ba ông khách cứ kéo dài ra mãi. Nghĩ mà bực quá! Cái thể không chết được, giá chết được thì thị chỉ thắt cổ mà chết đi cho rồi... Thị dỗ con:


- Cố mà nhịn lúc nữa, các con ạ! Đợi trên nhà ăn xong, còn thừa thì ta ăn.


Rồi muốn cho chúng quên đi, thị sổ tóc ra cho chúng xúm vào bắt chấy. Úi chà! Nhiều chấy quá! Chỉ việc rẽ một đám tóc ra là đủ thấy bốn, năm con bò lổm ngổm. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ thi nhau bắt. Chúng cho cu Con mấy con chấy kềnh làm trâu. Mới đầu cái trò ấy cũng hay hay. Nhưng chỉ một lúc là chúng chán. Thằng cu Con ra hiệu đình công trước. Nó lăn vào lòng mẹ, oằn oại vừa hụ hị kêu:


- Đói! Bu ơi! Đói.


Tức khắc những đứa kia cũng nhớ ra rằng chúng đói. Chúng không bắt chấy cho mẹ nữa. Chúng thở dài. Chúng nuốt nước bọt nhem nhép. Chúng thừ mặt ra. Chúng nằm ẹp xuống đất và lật áo lên để khoe cái bụng. Bụng đứa nào cũng gần dính lưng.


Mắt thị rơm rớm nước. Cũng may, tiếng người bố trên nhà gọi:


- Cái Gái đâu! Dẹp mâm đi, này!


Bốn đứa trẻ cùng nhỏm dậy: mặt chúng đột nhiên tươi tỉnh lại. Gái "vâng" một tiếng thật to và chạy lên. Cu Nhớn, cu Nhỡ ngồi chồm chồm đợi... Một lát sau, Gái bê mâm xuống. Nó nâng nâng lên ngang má như cha lúc nãy. Các em nó đứng lên, chực đu lấy cái mâm. Nó càng nâng cao hơn, mồm thét:


- Khoan! Khoan! Kẻo vỡ...


Cu Nhớn thét:


- Thì bỏ xuống?...


Gái vênh mặt lên, trêu nó:


- Không bỏ. Không cho chúng mày ăn.


- Có sợ thành tật không?


- Không cho ăn thật đấy.


Cu Nhỡ sốt ruột, khoặm mặt lại, vằng nhau với chị:


Gái hạ nhanh mâm xuống đất bảo:


- Này, ăn đi!


- Nó ngẩng mặt nhìn các em, cười the thé. Người mẹ xịu ngay mặt xuống. Trong mâm, chỉ còn bát không. Thằng cu Con khóc òa lên. Nó lăn ra, chân đập như một người giẫy chết, tay cào xé mẹ. Người mẹ đỏ mũi lên và mếu xệch đi, rưng rưng khóc. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ cùng khóc theo.



Nam Cao.
Nhìn mấy đứa con đói meo,khóc lóc,người mẹ nước mắt ngắn dài.Nghe tiếng khóc,mọi người quanh xóm chạy sang xem có chuyện gì bên nhà chị.Trông mấy đứa trẻ khóc mà thương,từ sáng chúng chưa có gì vào bụng cả.Tội nghiệp,nhất là thằng cu Con. Nó gần như lả đi.Thương quá,hàng xóm,người góp bát gạo,người góp ít muối,có người lại cho vài con tôm con tép.Người mẹ cảm ơn rối rít,cầm những thứ mọi người cho mà không kìm được nước mắt.Cảm ơn mọi người xong,chị đi nấu cơm cho mấy đứa nhỏ ăn.Vậy alf mấy đứa trẻ cũng có một bữa no..............
===>một kết thúc vừa ngắn gọn,vừa xúc tích,lại có hậu.Vừa ý rùi nha :D :D :D :D
 
Top Bottom