[Lớp9]Bài tập làm văn số 6-Help me!

M

mylove_1243

bài viết số 6

Mấy bạn giúp mình đề này nha:suy nghĩ về thân phận ngưòi phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương ở Cuyện ngưòi con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
 
L

lykem_1997

Nghĩ chuyện trên đời kì lạ thật. Chuyện tình duyên, sống chết, số phận của con người lại được định đoạt tù một câu chuyện đùa về một cái bóng. Ngày xưa, thân mẫu của Trịnh Trang Công trong Ðông Chu liệt quốc đã gây ra bao chuyện phiền phức dẫn đến cảnh đầu rơi máu chảy chỉ vì bà ghét Trịnh Trang Công khi xưa sinh ngược khiến bà phải đau đớn. Chuyện đời vẫn thế, đó là chỗ éo le phức tạp trong đời sống tâm hồn con người. Chỗ kì bút của Nguyễn Dữ là đã bắt nắm được một tình huống éo le như vậy. Trong văn chương nước ta cũng như thế giới không hiếm những câu chuyện xen những yếu tố truyền kì. Nét riêng của Chuyện người con gái Nam Xương là hai yếu tố thực và truyền kì không đan xen vào nhau mà kết cấu thành hai phần. Phần truyền kì vùa làm cho câu chuyện thêm lung linh hư ảo, vùa góp phần làm rõ những yếu tố ở phần thực. Phần thực là cơ sở để xây dựng phần truyền kì (phần thực, tôi muốn nói thực của văn học). Bằng mối liên hệ giữa hai phần, nhà văn làm nổi bật tính cách nhân vật và thể hiện chủ đề của tác phẩm.

Người con gái Nam Xương Vũ Thị Thiết là nhân vật chính xuyên suốt hai phần của tác phẩm. Nguyễn Dữ không chú trọng việc miêu tả hình thức, chúng ta chỉ biết Vũ nương là người “có tư dung tốt đẹp”. Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác nhau. Ở tùng thời điểm ấy, nhân vật bộc lộ cá tính của mình. Mối quan hệ với Trương Sinh diễn ra trên bốn thời điểm: khi chồng ở nhà, khi chia tay, khi xa chồng và khi chồng trở về. Khi chung sống với nhau, biết Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen nên “nàng giữ gìn khuôn phép” cho gia đình hoà thuận. Khi tiễn chồng đi tòng quân, tính cách của Vũ nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng nói với chồng: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Nàng nghĩ đến những khó nhọc, gian nguy của người chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi của mình. Tù cách nói đến nội dung của những câu nói hiện lên một Vũ nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh, thương chồng và giàu lòng vị tha, một tâm hồn có văn hoá. Trong những ngày xa chồng, nàng nuôi con thơ, chăm sóc mẹ chồng như mẹ đẻ của mình. Ngòi bút Nguyễn Dữ tỏ ra già dặn, nhà văn đã để cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời: “Sau này trời giúp người lành ban cho phúc trạch, giống giòng tươi tốt… xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ”. Trong con mắt của người mẹ chồng ấy, nàng là “người lành”. Ðến khi người chồng đi chinh chiến trở về nghi oan cho nàng, Vũ nương tỏ bày không được thì tự vẫn, chứ không sống “chịu tiếng nhuốc nhơ”.

Khi thì cách xủ thế, khi thông qua lời nói, khi hành động, khi thái độ hình ảnh Vũ nương hiện lên là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là một người phụ nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hoá. Dường như Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào hình tượng Vũ nương. Con người đẹp, thiết tha với hạnh phúc này phải chết - Ðó chính là bi kịch về số phận con người. Vấn đề này biết bao nhà văn xưa nay tùng trăn trở. Có lẽ đó cũng là bi kịch của muôn đời. Bởi vậy, vấn đề mà Chuyện người con gái Nam Xương đặt ra là vấn đề có tính khái, quát giàu ý nghĩa nhân văn. Phía sau tấn bi kịch của Vũ nương có một cuộc sống chinh chiến, loạn li, gây cách biệt, nhưng căn bản là người chồng mù quáng đa nghi, thiếu sáng suốt. Những kẻ như thế xưa nay tùng gây ra bao nỗi oan trái, đổ vỡ trong đời. Ðó cũng là một thứ sản phẩm hằng có trong xã hội con người. Cho nên vấn đề tưởng chùng rất riêng ấy lại là vấn đề điển hình của cuộc sống. Tất nhiên trong tấn bi kịch này có phần của Vũ nương. Nàng vùa là nạn nhân nhưng cũng là tác nhân. Bởi chính nàng đã lấy cái bóng làm cái hình, lấy cái hư làm cái thật. Âu đó cũng là một bài học sâu sắc của muôn đời vậy.

Phần truyền kì trong câu chuyện là chuyện Vũ nương không chết, trở về sống trong Quy động của Nam Hải Long Vương… đó là cuộc sống đời đời. Nhà văn đã tạo ra một cuộc gặp gỡ kì thú giữa Phan Lang - một người dương thế - với Vũ Nương nơi động tiên. Cuộc gặp gỡ ấy đã làm sáng tỏ thêm những phẩm chất của Vũ nương. Khi Phan Lang nhắc đến chuyện nhà của tổ tiên thì Vũ nương “ứa nước mắt khóc”. Nàng quả thật là một con người thiện căn, thiết tha gắn bó với quê hương đời sống mà không được sống. Tính cách của nàng và bi kịch như được tô đậm khơi sâu một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn đưa phần truyền kì vào câu chuyện không chỉ có thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một chân lí nghệ thuật: cái Ðẹp là bất tủ. Vũ nương không sống được ở cõi đời thì sẽ sống vĩnh hằng ở cõi tiên, vì nàng là cái Ðẹp.

Nói cho cùng, hiện thực của câu chuyện là hiện thực về tấm lòng của nhà văn trước những vấn đề của cuộc sống. Nhà văn đã đi sâu khai thác những vẻ đẹp và nỗi đau khổ xót xa phức tạp của tâm hồn con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội đương thời như Vũ nương. Cũng qua đó, nhà văn khẳng định một chân lí nghệ thuật phảng phất như trong các truyện cổ dân gian… Thánh Gióng về trời, An Dương Vương xuống biển… kì lạ mà cũng rất thực.
 
T

th0ng0c_lc_9x

Bài làm văn số 6

bài làm văn số 6:suy nghĩ của em về đ/s tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn "Chiếc lược ngà"của Nguyễn Quang Sáng
 
L

lykem_1997

Chúng ta đang sống trong một đất nước hoà bình, được sự dìu dắt, yêu thương của cha mẹ, được đùa vui dưới mái trường đầy ắp tiếng ca. Chúng ta có thể quên được chăng những trang sử hào hùng ấy, ngày các lớp cha anh đi trước đã hi sinh cả tính mạng. Máu của các anh đã nhuộm màu phì nhiêu cho đất nước, sự hi sinh tươi đẹp cho thế hệ chúng ta ngày hôm nay. Các anh đã hi sinh cả thể xác lẫn tinh thần, hi sinh cả những hạnh phúc mà lẽ ra các anh phải được hưởng. Chiến tranh, vùng trời của tan thương và chết chóc. Trong mưa bom lửa đạn, trong chất cay xè của mùi thuốc súng, tình cảm cao đẹp nhất của tình đồng chí đồng đội trào dâng. Những bùi ngùi dấu tận đáy lòng của những người cha lên đường chiến đấu gởi lại quê hương đứa con thân yêu nhất của mình để rồi trong giờ phút hiếm hoi giữa cuộc hành quân nỗi nhớ con không còn dấu được. Tình cảm thiêng liêng ấy càng mãnh liệt hơn trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1945, tập kết ra Bắc Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng thuộc nhiều thể loại : Truyện ngắn có “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”, “Người đàn bà đức hạnh”, “Vẽ lại bức tranh xưa”…
Các tiểu thuyết “Đất lửa”, “Mùa gió chướng”, “Dòng sông thơ ấu” được nhiều độc giả biết đến và đặc biệt là kịch bản phim nổi tiếng “Một thời để nhớ một thời để yêu”. Có lẽ vì sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu ở chiến trường miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình.
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truỵên ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích SGK đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử .
“Chiếc lược ngà ” được viết vào năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Nội dung văn bản trong SGK là cuộc gặp gỡ của anh Sáu - một người xa nhà đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu - con gái anh không nhận cha , trái lại đã đối xử lạnh nhạt, có lúc vô lễ với cha. Điều đó làm anh Sáu đau lòng, nhưng anh vẫn yêu thương con bằng tình cha con ruột thịt. Sau vài ngày ngắn ngủi sum họp gia đình, anh Sáu phải ra đi. Đến lúc ấy Bé Thu bỗng thay đổi thái độ. Em ôm chặt lấy cha không muốn cha con phải xa nhau .Mọi người ngỡ ngàng sửng sốt. Thì ra mấy ngày trước do nhìn thấy trên mặt anh Sáu có vết sẹo lớn, bé Thu thấy anh không giống cha chụp chung ảnh với mẹ. Nhờ bà ngoại giảng giải, Thu đã hiểu ra mọi chuyện, em cất tiếng gọi “Ba…ba!..” và hẹn “Ba mua cho con một cây lược nghe!”. Ở khu căn cứ, anh Sáu dồn hết tình cảm yêu quí nhớ con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để mang về tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng trong một cuộc chiến đấu anh đã ngã xuống. Trước lúc nhắm mắt anh còn kịp trao cây lược cho người bạn, gửi về tận tay cho con. Truyện được viết theo lời kể qua cái nhìn của ông Ba - nhân vật xưng tôi. Tuy đây là một đề tài khá phổ biến trong văn chương nhưng chính vì thế mà giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc.
Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá ấy là chiếc lược ngà. Nhưng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời, suốt cả cuộc đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị và thiêng liêng bậc nhất cõi đời này: tiếng cha!. Câu chuyện “Chiếc lược ngà” đã kể lại thật cảm động về cuộc gặp gỡ và những tình cảm của cha con anh Sáu. Hình ảnh anh Sáu đã để lại trong lòng người đọc nỗi cảm thông, yêu mến và những ấn tượng sâu sắc.
Cũng như bao người khác anh Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong anh nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi anh đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng anh. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần anh hỏi “Sao không cho con bé lên cùng ?’’. Không gặp được con anh đành ngắm con qua ảnh vậy … Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng anh luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của anh thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà ngoại và má. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẳng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con anh sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, anh Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước găp bố.
Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Anh Sáu được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà anh Sáu cứ nôn nao cả người. Anh đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí khiến anh không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng vừa cập bến, anh Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng cũng rất hiểu anh nên không hề trách. Tôi không thể quên được giây phút vô cùng thiêng liêng và trọng đại của anh Sáu, là giây phút người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm xiết lấy mình, là bước trở về sau bao xa cách…
Hẳn vì quá xúc động nên lúc ấy anh Sáu đã có những cử chỉ mà ngay cả người bạn của anh cũng không ngờ tới “giọng anh tập bập run run”, anh dang hai tay chờ đó con và sải những bước dài đến gần con. Tưởng rằng con bé sẽ chạy tới nhào vào lòng anh nhưng không ngờ bỗng nó hét lên “má…má” và bỏ chạy. Tại sao Thu lại có những hành động như vậy ? Nó yêu ba nó lắm cơ mà ? Nó mong ba về từng ngày từng giờ. Vậy mà tất cả đều lật ngược với nó. Ba nó thật đây, sao nó không nhận ? Hành động của con bé khiến anh sững sờ. Bao yêu thương, mong chờ mà anh dồn nén bấy lâu dường như tan biến hết chỉ còn lại trong anh là nỗi đau khổ vô bờ.
 
B

bimichael

BÀi vĂn số 6

Cả nhà ơi em phải làm đề về Suy nghĩ của em về Thúy Kiều trong đoạn trích MGS mua Kiều ai giúp với :-ss
 
N

nghiemdung2011

bài làm hòan chỉnh đấy bạn
nếu bạn muốn sở hữu thì đừng có lo không phải từ văn mẫu ra đâu mà do cô giáo mình đọc đấy
Sống trong xã hội phong kiến người phụ nữ phải chịu nhiều đau đớn, tủi nhục lầm than , nghèo khổ , có những sự đau đớn tủi nhục còn lớn hơn đó chính là số phân đau đớn của thân phận con người mà số phận thúy kiều trong đoạn trích mã giám sinh mua kiều là tiêu biểu
trước hết thúy kiều là cô gái sinh ra trong 1 gđ trung lưu lương thiện . Đang cùng em gái sống trong cảnh "trướng rủ nàm che". Hơn thế nữa kiều vốn là cô gái tài sắc vẹn toàn mà nói như Nguyễn Du "sắc đành tài 1 , tài đành họa 2"_sắc đẹp thì nàng đẹp nhất còn về tài năng thì may ra có người thứ 2 . Nhưng bỗng đâu 1 ngày tai bay vại gió đến với gđ Thúy kiều , cha &em bị đánh đập dã man , của rả trong nhà bị khuân đi hết . Kiều đành chấp nhận bán mình để nhân 300 lượng vàng cứu cha .
Vẫn biết khi chấp nhận bán mình cứu cha nàng sẽ trở thành món hàng nhưng là 1 cô gái luôn có ý thức về nhân phẩm của mình nàng ra mắt MGS mà lòng vẫn ngổn ngang bao nỗi tơ vò . Mỗi bước nàng đi chang chứa những dòng nước mắt
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa 1 bước lệ hoa mấy hàng
Nhìn cảnh vật nàng thấy xấu hổ ngại ngùng :
Ngại ngùng dơn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn tronggương mặt dày
Nỗi đau khổ ấy đã đến tột cùng khi chẳng một ai mảy may động tâm thương cho nàng , mụ mối thì vén tóc bắt tay , lạ lùng đối xử với 1 một món hàng còn MGS thì đặt tài năng và nhan sắc lên cân đo đong đếm . Đến lúc này người con gái tài hoa nhan sắc ấy cảm thấy tủi hổ bẽ bàng:
Mối càng vén tóc bắt bắt tay
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai
Có thể nói đoạn trích là 1 tiếng khóc ai oán cho thân phận con người , cho nhân phẩn con người bị chà đạp phải chăng trái tim của nhà thơ đang rung lên nức nở cùng với nỗi đau của Thúy Kiều . từ đó biết bao nhiêu tinh hoa , tài năng trong nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng con người được Nguyễn Du sử dụng ở đây
Đoạn trích không dài , đặc biệt khi nhắc đến nhân vật Thúy Kiều , Nguyễn Du chỉ sử dung 4 cặp câu lục bát .Ấy vậy mà biết bao nhiêu lời tố cáo xã hoịphong kiến chà đạp lên con người ở đây . Biết bao nhiêu niềm thương cảm xót xa cho số phận con người được toát lên từ đây . Đọc trích đoạn thương kiều bao nhiêu ta càng căng ghét chế độ phong kiến bấy nhiêu
 
N

nghiemdung2011

bài làm hòan chỉnh đấy bạn

bài làm hòan chỉnh đấy bạn
nếu bạn muốn sở hữu thì đừng có lo không phải từ văn mẫu ra đâu mà do cô giáo mình đọc đấy
Sống trong xã hội phong kiến người phụ nữ phải chịu nhiều đau đớn, tủi nhục lầm than , nghèo khổ , có những sự đau đớn tủi nhục còn lớn hơn đó chính là số phân đau đớn của thân phận con người mà số phận thúy kiều trong đoạn trích mã giám sinh mua kiều là tiêu biểu
trước hết thúy kiều là cô gái sinh ra trong 1 gđ trung lưu lương thiện . Đang cùng em gái sống trong cảnh "trướng rủ nàm che". Hơn thế nữa kiều vốn là cô gái tài sắc vẹn toàn mà nói như Nguyễn Du "sắc đành tài 1 , tài đành họa 2"_sắc đẹp thì nàng đẹp nhất còn về tài năng thì may ra có người thứ 2 . Nhưng bỗng đâu 1 ngày tai bay vại gió đến với gđ Thúy kiều , cha &em bị đánh đập dã man , của rả trong nhà bị khuân đi hết . Kiều đành chấp nhận bán mình để nhân 300 lượng vàng cứu cha .
Vẫn biết khi chấp nhận bán mình cứu cha nàng sẽ trở thành món hàng nhưng là 1 cô gái luôn có ý thức về nhân phẩm của mình nàng ra mắt MGS mà lòng vẫn ngổn ngang bao nỗi tơ vò . Mỗi bước nàng đi chang chứa những dòng nước mắt
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa 1 bước lệ hoa mấy hàng
Nhìn cảnh vật nàng thấy xấu hổ ngại ngùng :
Ngại ngùng dơn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn tronggương mặt dày
Nỗi đau khổ ấy đã đến tột cùng khi chẳng một ai mảy may động tâm thương cho nàng , mụ mối thì vén tóc bắt tay , lạ lùng đối xử với 1 một món hàng còn MGS thì đặt tài năng và nhan sắc lên cân đo đong đếm . Đến lúc này người con gái tài hoa nhan sắc ấy cảm thấy tủi hổ bẽ bàng:
Mối càng vén tóc bắt bắt tay
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai
Có thể nói đoạn trích là 1 tiếng khóc ai oán cho thân phận con người , cho nhân phẩn con người bị chà đạp phải chăng trái tim của nhà thơ đang rung lên nức nở cùng với nỗi đau của Thúy Kiều . từ đó biết bao nhiêu tinh hoa , tài năng trong nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng con người được Nguyễn Du sử dụng ở đây
Đoạn trích không dài , đặc biệt khi nhắc đến nhân vật Thúy Kiều , Nguyễn Du chỉ sử dung 4 cặp câu lục bát .Ấy vậy mà biết bao nhiêu lời tố cáo xã hoịphong kiến chà đạp lên con người ở đây . Biết bao nhiêu niềm thương cảm xót xa cho số phận con người được toát lên từ đây . Đọc trích đoạn thương kiều bao nhiêu ta càng căng ghét chế độ phong kiến bấy nhiêu:)|:)|:)|:)|
 
P

pro_girl_97

Trong các nhà văn hiện thực Việt Nam .Nam Cao là một trong những cây bút sáng giá đã để lại cho đời những tác phẩm xuất sắc sống mãi với thời gian ,với bạn đọc .Những nhân vật của ông như đang hiện diện trước mắt chúng ta những cuộc sống gian truân ,trắc trở , éo le .Với nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của ông đã bộc lộ rõ điều đó.Tác phẩm này được coi là một trong những truyện ngắn mang đậm giá trị hiện thực xuất sắc trong trào lưu hiện thực phê phán của thời kì 1930-1945.Trước xã hộ suy tàn đó nổi bật lên là hình ảnh một lão nông dân đáng kính với phẩm chất của một con người đôn hậu ,giàu lòng tự trọng và rất mực yêu thương con.

Điều đầu tiên phải nói đến đó là tấm lòng đôn hậu , rất mực yêu thương con của Lão Hạc .Vợ chết sớm một mình sống trong cảnh ngộ gà trống nuôi con. Khi con đến tuổi trưởng thành ,vì nhà nghèo nên làm lỡ mất duyên con khiến lão ân hận và cảm thấy mình có lỗi. Vì thế ,con trai lão phẫn uất đi đồn điền cao su , để lại một mình lão thui thủi ở nhà một mình với cậu Vàng - như cách gọi của lão .Nó là một hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con trai độc nhất .Hơn thế nữa ,cậu Vàng còn là niềm an ủi của một lão già cô đơn không nơi nương tựa.Lão cho cậu ăn trong bát sứ,chia sẻ thức ăn chăm sóc trò chuyện với cậu như một người bạn tâm giao.Bởi thế ,cái ý định “có lẽ tôi bán con chó đấy” của lão Hạc bao lần chần chừ không thực hiện nhưng rồi cuối cùng cậu Vàng cũng được bán đi với giá năm đồng bạc.

Cậu Vàng bán đi ! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất của đời lão.Năm đồng bạc Đông Dương kể ra cũng là một món tiền to , nhất là giữa buổi đói deo , đói dắt như thế này . Nhưng lão Hạc bán cậu Vàng không phải vì tiền , bởi “gạo thì cứ kém mãi đi” , “ mà mỗi ngày lo ba hào gạo” thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng nhưng bán cậu rồi , lão Hạc lại đau khổ, dày vò chính mình trong tâm trạng năng trĩu .

Khoảnh khắc “ lão cố làm ra vẻ vui vẻ” cũng không giấu được với khuôn mặt “ cười như mếu và đôi mắt lão ầng ầng nước” . Nỗi đau đớn cố kìm nén của lão Hạc như cắt nghĩa cho việc làm bất đ ắc dĩ , khiến ông Giáo là người báo tin cũng không tránh khỏi cảm giác ái ngại cho lão . Ông Giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung thành của mình . Cảm giác ân hận cứ đeo đuổi , giày vò lão Hạc tạo nên sự đột biến trên khuôn mặt “ mặt lão đột nhiên co rúm l ại . Những nếp nhăn xô lại với nhau , ép cho ra nước mắt . Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít , lão huhu khóc”.Bản chất của một con người lương thiện , tính chất của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu , nghĩa tình , trung thực và giàu lòng vị tha đã được bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn này . Lão Hạc chỉ vì bán một con chó mà tự oán trách mình đau khổ đến thế. Liệu Binh Tư ,vợ ông Giáo và bao người khác nữa , họ có hiểu không , hay họ chỉ thấy Lão gàn dở , ngu ngốc.Ta cảm thương số phận của lão , ta cảm phục trước đức hi sinh và lòng nhân hậu của lão -một con người cao đẹp.

Trong cuộc sống đói khổ , cùng cực ấy của lão Hạc phải ăn củ chuối , củ ráy ... ông Giáo đã mời lão Hạc ăn khoai , uống nước chè nhưng lão xin khất “ông Giáo để cho khi khác”. Vì trận ốm kéo dài , lão Hạc đã suy sụp hẳn, lão không đủ sức để làm và cũng chẳng có gì để ăn nhưng lòng tự trọng của lão không cho phép mình xâm phạm đến số tiền của con. Từ lúc đó , lão Hạc bắt đầu cuộc lựa chọn tàn khốc nhưng rồi lão đã chọn cái chết.Trước khi chết lão đã nhờ ông Giáo giữ tiền làm ma và trông hộ mảnh vườn để đỡ làm phiền hàng xóm.Tám lòng của lão thật trong sáng lỡ may khi lão chết ông Giáo sẽ lấy mảnh vườn đó thì sẽ sao? Laõ không nghĩ đến điều đó, lão luôn nghĩ mọi người đều tốt cả . Nói đến lòng tự trọng thì có lẽ đó cũng là một điều đáng quý ,lòng tự trọng của lão Hạc đẹp biết bao ,lão từ chối sự giúp đỡ của mọi người kể cả ông Giáo nữa.Kết cục của lão đã được báo trước .Lão đã trải qua những chua chát , tủi cực của một kiếp người , khi phải đối mặt với hiện thực nghiệt ngã đó là phải đứt ruột tiễn đưa người con trai ra khỏi vòng tay của lão , cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi cậu Vàng. Suy cho cùng việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha yêu thương con và luôn lo lắng cho hạnh phúc , tương lai của con sau này . Những lời gửi gắm và món tiền trao cho ông Giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ đâu nó cũng là những lời trăng trối cuối cùng của lão Hạc .Tuy cái chết đã được báo trước nhưng mọi người cũng vẫn bất ngờ , thương cảm cho lão Cái chết của lão thật giữ dội , lão chết “ vật vã ở trên giường , đầu tóc rũ rượi ...; khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái nảy lên” Lão Hạc tượng trưng cho người nông dân bước tới đ ường cùng , không còn lối thoát đành phải tìm đến cái chết - cái chết đó cũng không thanh thảnh như bao người . Nếu lão Hạc muốn đứng vững trên bờ lương thiện thì cái chết là giải pháp cuối cùng để lão khỏi ngã quỵ giữa vực sâu của sự tha hoá .

Kết thúc bi kịch cũng là sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão .Cái đẹp và cái xấu xa bao giờ cũng là cánh tay của một thân thể .Không vì cánh tay trái xấu xa mà đem tay phải chặt đứt cánh tay trái đi thì chính thân thể này sẽ đau đớn chứ không phải là cánh tay trái .

Cũng như nhân vật Chí Phèo ở làng Vũ Đại trong tác phẩm “ Chí Phèo” Nam Cao đã dựng lên hình ảnh của những người thuộc tầng lớp thấp cùng của xã hội phong kiến , họ có đ ời sống bần cùng nhưng lại có phẩm chất cao đẹp .Lão Hạc thương con đứt ruột nhưng lại bất lực khi thấy con ra đi “thẻ của nó người ta giữ ,hình của nó người ta đã chụp rồi .Nó lại đã lấy tiền của người ta rồi nó là của người ta chứ đâu còn là con tôi nữa”.T ừng lời nói của lão Hạc là những tiếng nấc nghẹn ngào bật ra từ con tim , từ tận đáy lòng của người cha dường như không còn chút uất ức , cam chịu . Lòng tự trọng của lão đã bị vắt kiệt , xoá sạch nỗi cao ngạo đối với một con chó và đầy ắp nỗi cưu mang đối với giá trị nhân phẩm của niềm luân lí Á Đông .

Thời gian cứ thế trôi qua ,nhưng hình ảnh người nông dân Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám vẫn luôn thắm đượm trong mỗi ch úng ta những hình ảnh về một Lão Hạc với bao phẩm chất tốt đẹp .............
 
H

hieufronze1

Quạt giấy là một người bạn gắn bó cùng ta trong những trưa hè oi bức, cúp điện.Chẳng ồn ào, tốn kém và cồng kềnh như những chiếc quạt máy đắt tiền mà lại còn tạo ra những làn gió mát tự nhiên, thân thiện với môi trường. Nó như một chiếc ô nho nhỏ giúp ta che nắng mỗi khi đi đường và còn là một người bạn của nhà nông được dùng làm quạt thóc cho vụ mùa. Chưa dừng lại ở đó, quạt giấy còn là một đạo cụ không thể thiếu trong sân khấu chèo, tuồng,… nhằm làm tăng lên nét đẹp thùy mị, nết na của các tiểu thư khuê các, e lệ. Còn đối với giới nho sĩ thời xưa thì chiếc quạt còn là một vật bất ly thân, thường được họ mang theo bên mình trong những lúc bình thơ, viết văn. Không những thế, chiếc quạt thường được đề thơ nôm còn để làm quà kỉ niệm cho bạn bè, tri hữu. Ngoài ra, nó còn được mượn để bày tỏ ẩn ý sâu xa nhưng được giễu bằng những lời nhẹ nhàng và thâm thúy qua bài thơ “Vịnh cái quạt” của thi sĩ Hồ Xuân Hương như sau:



Mười bảy hay là mười tám đây

Cho anh yêu dấu chẳng rời tay

Mỏng dày chừng ấy chành ba góc

Rộng hẹp đường nào cấm 1 cây

Càng nóng bao nhiêu càng muốn mát

Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày

Hồng hồng má phấn duyên gì vậy

Chúa dấu vua yêu một cái này.

Cây quạt giấy có cách làm đơn giản và cũng rất tiện dụng. Mọi người đều có thể sử dụng nó một cách dễ dàng, từ già đến trẻ, từ thành thị đến nông thôn,…Đi đến đâu ta cũng có thể thấy được cái thói quen dùng quạt giấy của người dân. Ngay cả khách nước ngoài đến Việt Nam cũng rất thích chiếc quạt giấy. Hình thù đơn giản mà bền chắc của chiếc quạt, không những vừa tạo ra làn gió mát mà việc phe phẩy chiếc quạt giấy còn giúp kích thích huyệt “Thốn Quan Xích” nơi cổ tay_một phương cách tuyệt vời để điều chỉnh khí huyết, cân bằng âm dương trong cơ thể từ đó làm cho cơ thể luôn ở trạng thái “thủy hỏa ký tế”. Cũng vì vậy mà cây quạt giấy còn là một đạo cụ trong môn Thái Cực Quyền, một môn thể dục dưỡng sinh của người có độ tuổi trung niên giúp cho cơ thể luôn ở trạng thái thủy hỏa cân bằng, mọi tật bệnh tiêu tan, và khi đó con người mới thật sự được làm mát. Đó mới chính là dụng ý của sâu xa của người xưa trong thói quen phe phẩy cây quạt giấy.



Ngày nay, con người thường bị chi phối bởi cái hình thức bên ngoài nên ngày càng rời xa những thói quen tốt đẹp trong đời sống bình thường. Xã hội phân hóa giàu nghèo, phân biệt giai cấp chủ tớ, người giàu có xu hướng ngày càng ít cầm đến cây quạt mà chuyển dần sang người đầy tớ quạt thay cho mình. Quả nhiên ông Trời thật không công bằng, người chủ thì được sung sướng, được phục vụ, được quạt mát bên ngoài mà không tốn công còn người đầy tớ thì ngược lại mang cái hình cực khổ phải quạt cho người, phải phục vụ cho người nhưng lại luôn trong bản chất hưởng thụ, vì nhờ lao động mà có sức khỏe, có gì quí bằng thân mình khỏe mạnh! Rồi xã hội càng hiện đại hơn, con người càng làm “hại điện” bằng cách chế ra cái quạt điện, cái máy lạnh… để làm mát con người nhưng đâu biết đang tự đưa mình vào cái vòng lẩn quẩn làm khó chính mình, càng làm cho trái đất nóng lên từng ngày, môi trường sống ngày càng khắc nghiệt. Mặc dù có không ít lời cảnh báo từ các bác sĩ, thầy thuốc rằng dùng quạt máy, máy lạnh quá mức là không tốt cho sức khỏe nhưng người ta vẫn cứ “xài thả ga”. Nên đâu đó ta vẫn nghe mấy vụ chết người vì thổi quạt máy vào người! Cái máy lạnh thì ngày càng nhốt con người vào những “cái hộp” tách biệt với thế giới tự nhiên bên ngoài, rồi người ta dần nhận ra nó là khắc tinh của những người mắc chứng viêm xoang, chứng lạnh thấu xương sau sinh của phụ nữ… Con người làm mình ngày càng yếu hơn! Người xưa có thể sinh hơn 10 người con mà vẫn khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, 60-70 tuổi mà mắt vẫn sáng đến xỏ lỗ kim còn được. Người đời nay đến sinh bằng cách tự nhiên cũng sinh không được, đến 30-40 tuổi là bệnh tật liên miên, mắt mờ chân run, khi trái gió trở trời là y như rằng không thể chịu nổi, ngày nào cũng phải uống một nắm thuốc tây. Cái tuổi thọ hơn xưa mà con người đang kêu ca, chẳng qua là vì con người luôn phải được nuôi lây lất bằng thuốc. Đó cũng chính là những tác hại của việc ngồi quạt máy và máy lạnh hàng nhiều giờ liền của người dân thành phố nói riêng và của người Việt Nam nói chung.



Ngày nay với công cuộc hiện đại hoá nhu cầu của con người ngày càng cao hơn quạt máy, điều hoà đã ra đời thay thế quạt thủ công. Nhưng vật dụng mộc mạc giản dị ấy vẫn còn cần thiết trong nhiều căn nhà vùng sâu vùng xa, đặc biệt là trong lao động nghệ thuật tôn giáo , sinh hoạt , tín ngưỡng. Chẳng thứ vật dụng nào có thể thể hiện tâm trạng, tính cách, tâm hồn, tình cảm của con người hơn chiếc quạt thủ công.Đó cũng chính là sức sống tiềm tàng của nó. Tôi tin rằng chiếc quạt giấy sẽ luôn song hành cùng với đời sống văn hoá của người Việt Nam chúng ta sau này và mãi mãi về sau.
.

Nguồn: internet
 
H

hieufronze1

Quạt giấy là một người bạn gắn bó cùng ta trong những trưa hè oi bức, cúp điện.Chẳng ồn ào, tốn kém và cồng kềnh như những chiếc quạt máy đắt tiền mà lại còn tạo ra những làn gió mát tự nhiên, thân thiện với môi trường. Nó như một chiếc ô nho nhỏ giúp ta che nắng mỗi khi đi đường và còn là một người bạn của nhà nông được dùng làm quạt thóc cho vụ mùa. Chưa dừng lại ở đó, quạt giấy còn là một đạo cụ không thể thiếu trong sân khấu chèo, tuồng,… nhằm làm tăng lên nét đẹp thùy mị, nết na của các tiểu thư khuê các, e lệ. Còn đối với giới nho sĩ thời xưa thì chiếc quạt còn là một vật bất ly thân, thường được họ mang theo bên mình trong những lúc bình thơ, viết văn. Không những thế, chiếc quạt thường được đề thơ nôm còn để làm quà kỉ niệm cho bạn bè, tri hữu. Ngoài ra, nó còn được mượn để bày tỏ ẩn ý sâu xa nhưng được giễu bằng những lời nhẹ nhàng và thâm thúy qua bài thơ “Vịnh cái quạt” của thi sĩ Hồ Xuân Hương như sau:



Mười bảy hay là mười tám đây

Cho anh yêu dấu chẳng rời tay

Mỏng dày chừng ấy chành ba góc

Rộng hẹp đường nào cấm 1 cây

Càng nóng bao nhiêu càng muốn mát

Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày

Hồng hồng má phấn duyên gì vậy

Chúa dấu vua yêu một cái này.

Cây quạt giấy có cách làm đơn giản và cũng rất tiện dụng. Mọi người đều có thể sử dụng nó một cách dễ dàng, từ già đến trẻ, từ thành thị đến nông thôn,…Đi đến đâu ta cũng có thể thấy được cái thói quen dùng quạt giấy của người dân. Ngay cả khách nước ngoài đến Việt Nam cũng rất thích chiếc quạt giấy. Hình thù đơn giản mà bền chắc của chiếc quạt, không những vừa tạo ra làn gió mát mà việc phe phẩy chiếc quạt giấy còn giúp kích thích huyệt “Thốn Quan Xích” nơi cổ tay_một phương cách tuyệt vời để điều chỉnh khí huyết, cân bằng âm dương trong cơ thể từ đó làm cho cơ thể luôn ở trạng thái “thủy hỏa ký tế”. Cũng vì vậy mà cây quạt giấy còn là một đạo cụ trong môn Thái Cực Quyền, một môn thể dục dưỡng sinh của người có độ tuổi trung niên giúp cho cơ thể luôn ở trạng thái thủy hỏa cân bằng, mọi tật bệnh tiêu tan, và khi đó con người mới thật sự được làm mát. Đó mới chính là dụng ý của sâu xa của người xưa trong thói quen phe phẩy cây quạt giấy.



Ngày nay, con người thường bị chi phối bởi cái hình thức bên ngoài nên ngày càng rời xa những thói quen tốt đẹp trong đời sống bình thường. Xã hội phân hóa giàu nghèo, phân biệt giai cấp chủ tớ, người giàu có xu hướng ngày càng ít cầm đến cây quạt mà chuyển dần sang người đầy tớ quạt thay cho mình. Quả nhiên ông Trời thật không công bằng, người chủ thì được sung sướng, được phục vụ, được quạt mát bên ngoài mà không tốn công còn người đầy tớ thì ngược lại mang cái hình cực khổ phải quạt cho người, phải phục vụ cho người nhưng lại luôn trong bản chất hưởng thụ, vì nhờ lao động mà có sức khỏe, có gì quí bằng thân mình khỏe mạnh! Rồi xã hội càng hiện đại hơn, con người càng làm “hại điện” bằng cách chế ra cái quạt điện, cái máy lạnh… để làm mát con người nhưng đâu biết đang tự đưa mình vào cái vòng lẩn quẩn làm khó chính mình, càng làm cho trái đất nóng lên từng ngày, môi trường sống ngày càng khắc nghiệt. Mặc dù có không ít lời cảnh báo từ các bác sĩ, thầy thuốc rằng dùng quạt máy, máy lạnh quá mức là không tốt cho sức khỏe nhưng người ta vẫn cứ “xài thả ga”. Nên đâu đó ta vẫn nghe mấy vụ chết người vì thổi quạt máy vào người! Cái máy lạnh thì ngày càng nhốt con người vào những “cái hộp” tách biệt với thế giới tự nhiên bên ngoài, rồi người ta dần nhận ra nó là khắc tinh của những người mắc chứng viêm xoang, chứng lạnh thấu xương sau sinh của phụ nữ… Con người làm mình ngày càng yếu hơn! Người xưa có thể sinh hơn 10 người con mà vẫn khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, 60-70 tuổi mà mắt vẫn sáng đến xỏ lỗ kim còn được. Người đời nay đến sinh bằng cách tự nhiên cũng sinh không được, đến 30-40 tuổi là bệnh tật liên miên, mắt mờ chân run, khi trái gió trở trời là y như rằng không thể chịu nổi, ngày nào cũng phải uống một nắm thuốc tây. Cái tuổi thọ hơn xưa mà con người đang kêu ca, chẳng qua là vì con người luôn phải được nuôi lây lất bằng thuốc. Đó cũng chính là những tác hại của việc ngồi quạt máy và máy lạnh hàng nhiều giờ liền của người dân thành phố nói riêng và của người Việt Nam nói chung.



Ngày nay với công cuộc hiện đại hoá nhu cầu của con người ngày càng cao hơn quạt máy, điều hoà đã ra đời thay thế quạt thủ công. Nhưng vật dụng mộc mạc giản dị ấy vẫn còn cần thiết trong nhiều căn nhà vùng sâu vùng xa, đặc biệt là trong lao động nghệ thuật tôn giáo , sinh hoạt , tín ngưỡng. Chẳng thứ vật dụng nào có thể thể hiện tâm trạng, tính cách, tâm hồn, tình cảm của con người hơn chiếc quạt thủ công.Đó cũng chính là sức sống tiềm tàng của nó. Tôi tin rằng chiếc quạt giấy sẽ luôn song hành cùng với đời sống văn hoá của người Việt Nam chúng ta sau này và mãi mãi về sau.
.
 
N

ngocdoll97

các bạn giúp mình với
Suy nghĩ của em về tình cảm của người nông dân thời kháng chiến chống Pháp qua nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng
 
Top Bottom