Văn [Lớp 9] Truyện Kiều

Quán Lâm

Học sinh
Thành viên
19 Tháng chín 2017
42
7
21
Ninh Bình
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Câu 1: Cảm nhận của em về
1) 6 câu cuối trong đoạn trích Cảnh ngày xuân
2) Vẻ đẹp của Thúy Vân
3) Lòng thủy chung và hiếu thảo của Thúy Kiều
4) 8 câu thơ kết đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
5) 4 câu thơ đầu bài cảnh ngày xuân bằng 1 đoạn văn khoảng 10 dòng trong đoạn văn có sử dụng câu cảm thán và câu hỏi tu từ.


Câu 2: Có ý kiến cho rằng: Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích được coi là đoạn tả cảnh ngụ tình tuyệt tác trong thiên Truyện Kiều. Em có đồng ý với ý kiến này không ? Hãy viết 1 đoạn văn theo lối tổng phân hợp để nêu ý kiến của em.


Mọi người cố giúp mình nha ~
 

Do Thi Thu Huong

Học sinh tiến bộ
Thành viên
2 Tháng ba 2017
227
66
154
Câu 1: Cảm nhận của em về
1) 6 câu cuối trong đoạn trích Cảnh ngày xuân
2) Vẻ đẹp của Thúy Vân
3) Lòng thủy chung và hiếu thảo của Thúy Kiều
4) 8 câu thơ kết đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
5) 4 câu thơ đầu bài cảnh ngày xuân bằng 1 đoạn văn khoảng 10 dòng trong đoạn văn có sử dụng câu cảm thán và câu hỏi tu từ.


Câu 2: Có ý kiến cho rằng: Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích được coi là đoạn tả cảnh ngụ tình tuyệt tác trong thiên Truyện Kiều. Em có đồng ý với ý kiến này không ? Hãy viết 1 đoạn văn theo lối tổng phân hợp để nêu ý kiến của em.


Mọi người cố giúp mình nha ~
'

1/ 4
Mở bài:
[như đề trên] Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã chứng tỏ điều đó, đặc biệt là ở 8 câu thơ cuối: [trích thơ]
II.Thân bài:
1. Tổng:
- Vị trí đoạn trích: Gia đình bị vu oan, bị lừa, bị làm nhục và bị đẩy vào lầu xanh, Kiều rút dao tự vẫn nhưng không chết. Tú Bà đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu mới. Với tâm trạng bẽ bàng, Kiều nhớ tới người yêu, nhớ cha mẹ và quay lại tự đối thoại với lòng mình. Nguyễn Du đã chọn cách biểu hiện “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”. Mỗi cảnh vật đều làm rõ một nét tâm trạng của Kiều.
- Giải thích thế nào là bút pháp tả cảnh, ngụ tình. Giới thiệu đôi nét về nghệ thuật này trong “Truyện Kiều”.
- Tám câu cuối: bức tranh tâm trạng của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
2. Phân
-Một loạt các từ láy, các hình ảnh ẩn dụ, các câu hỏi tu từ, điệp ngữ “buồn trông” đã góp phần thể hiện rõ tâm trạng Thuý Kiều. Cảnh và tình uốn lượn song song. Ngoại cảnh cũng chính là tâm cảnh. Đúng như Nguyễn Du từng viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
a. Luận điểm 1: Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?
- Một không gian mênh mông cửa bể chiều hôm gợi nỗi buồn mênh mông như trời biển. Hình ảnh con thuyền và cánh buồm thấp thoáng, biến mất trong hoàng hôn biển gợinỗi cô đơn, lạc lõng bơ vơ, gợi hành trình lưu lạc. Cảnh tha hương gợi nỗi nhớ gia đình, quê hương và khát khao sum họp đến nao lòng.
b. Luận điểm 2: Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Nhìn cảnh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa, Kiều buồn và liên tưởng tới thân phận mình cũng như cánh hoa lìa cội, lìa cành bị ném vào dòng đời đục ngầu thác lũ. Hình ảnh “hoa trôi” gợi kiếp người trôi nổi, bập bềnh, lênh đênh, vô định và một tâm trạng lo lắng sợ hãi cho tương lai vô định của mình.
c. Luận điểm 3: Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Nhìn cảnh nội cỏ nhạt nhoà, mênh mông “rầu rầu”: màu của sự úa tàn, thê lương ảm đạm (giống màu cỏ ở nấm mộ Đạm Tiên “dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”, khác màu cỏ trong tiết thanh minh), Kiều có tâm trạng mệt mỏi chán chường, tuyệt vọng và cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnhvới một tương lai mờ mịt, hãi hùng.
d. Luận điểm 4: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiêng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Khép lại đoạn thơ lã những âm thanh dữ dội “gió cuốn, sóng kêu” như báo trước những dông tố của cuộc đời sắp ập xuống cuộc đời Kiều. Nàng hốt hoảng, kinh hoàng- chới với như sắp bị rơi xuống vực thẳm sâu của định mệnh.
3. Hợp: Đánh giá chung về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
Có thể nói, thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng ũng rất ảo. Đó là thiên nhiên được nhìn qua tâm trạng – được nhìn từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn tả nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, hãi hùng, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi, bế tắc, sự chao đảo nghiêng đổ dữ dội. Lúc này, Kiều trở nên tuyệtvọng, yếu đuối nhất, vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục. Bốn câu thơ lục bát được liên kết bởi điệp ngữ “buồn trông” nghĩa là buồn mà nhìn xa, mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làmthay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. "Buồn trông" có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang ngửa. Điệp ngữ kết hợp với các hình ảnh ẩn dụ đứng sau, câu hỏi tu từ cùng các từ láy “thấp thoáng”,”xa xa”,”rầu rầu”,”ầm ầm” đã diễn tả nỗi buồn nhiều bề trong Kiều với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Tất cả tạo nên âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc đoạn thơ, cũng là điệp khúc của tâm trạng.
III. Kết bài:
-Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế khi tả cảnh cũng như khi ngụ tình. Mỗi cảnh thiên nhiên trong đoạn đã diễn tả một sắc thái tình cảm khác nhau của Kiều. Tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầuNgưng Bích” tạo thành bức tranh tứ bình của tâm trạng, có cấu trúc cân đối hài hòa đã khiến cho bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du được nâng lên mẫu mực cổ điển.
- Đằng sau sự thành công của bút pháp tả cảnh ngụ tình ấy là một trái tim yêu thương vô hạn với con người, là sự đồng cảm, sẻ chia xót thương cho một kiếp hồng nhan bạc mệnh và ngầm tố cáo xã hội bất công đã chà đạp lên quyền sống và nhân phẩm con người.
 

Quang Trungg

Học sinh xuất sắc
Thành viên
14 Tháng mười một 2015
4,677
7,747
879
20
Hà Nội
THCS Mai Dịch
Câu 1: Cảm nhận của em về
1) 6 câu cuối trong đoạn trích Cảnh ngày xuân
2) Vẻ đẹp của Thúy Vân
3) Lòng thủy chung và hiếu thảo của Thúy Kiều
4) 8 câu thơ kết đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
5) 4 câu thơ đầu bài cảnh ngày xuân bằng 1 đoạn văn khoảng 10 dòng trong đoạn văn có sử dụng câu cảm thán và câu hỏi tu từ.


Câu 2: Có ý kiến cho rằng: Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích được coi là đoạn tả cảnh ngụ tình tuyệt tác trong thiên Truyện Kiều. Em có đồng ý với ý kiến này không ? Hãy viết 1 đoạn văn theo lối tổng phân hợp để nêu ý kiến của em.


Mọi người cố giúp mình nha ~
Câu 2:
Sau khi Kiều bị Mã Giám Sinh lừa gạt, nàng rơi vào nanh vuốt của mụ Tú Bà bán thịt buôn người. Hiểu ra tình cảnh nhục nhã, éo le của mình. Kiều đã liều tự sát. Sợ bị mất món lời to, Tú Bà hoảng hốt vội cứu sống Kiều và tạm cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích, với lời hứa sẽ gả chồng tử tế cho nàng. Trong những ngày này, Kiều sống trong tâm trạng khôn xiết buồn bã, đau đớn. Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã vẽ nên cảnh Kiều ở lầu Ngưng Bích thành một bức tranh tâm tình đầy xúc động:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

…………………………………..

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Đoạn trích trên nói lên tâm trạng nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích: buồn tủi, thương nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, xót thựơng thân phận cay đắng của mình.

Đoạn thơ là một minh chứng cho quan điểm: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của thi hào Nguyễn Du. Cảnh vật thiên nhiên ở đây bị bao phủ một nỗi buồn trĩu nặng bởi Kiều nhìn cảnh bằng cặp mắt u uất, đau thương. Nỗi buồn tơ lòng người thấm vào cảnh vật và cảnh vật hoang vắng, đìu hiu càng gợi mối sầu trong lòng người con gái bất hạnh là Kiều.

Đang sống trong không khí ấm êm, đùm bọc của gia đình; đang say sưa hạnh phúc với mối tình đầu ngọt ngào, trong sáng, Kiều bỗng dưng bị rơi vào cạm bẫy của cuộc đời. Nàng bị lừa gạt trắng trợn, bị đánh đập dã man, bị xúc phạm đến phẩm hạnh. Bao tai biến dồn dập đến với nàng trong một thời gian quá ngắn. Cả thể xác lẫn tâm hồn nàng bị những thế lực đen tối giày xéo, chà đạp không thương tiếc. Giờ đây, một mình ngồi trước lầu Ngưng Bích, giữa chốn đất khách quê người, Kiều hoàn toàn cô đơn, không một người thân thích để chia sẻ tâm sự đau thương. Bởi vậy, nỗi buồn đau càng lớn, càng sâu. Thúy Kiều chỉ còn biết san sẻ nỗi lòng cùng cảnh vật quanh nàng.

Sáu câu đầu là cảnh lầu Ngưng Bích. Cảnh được tác giả vẽ lên bằng những nét chấm phá: vẻ non xa, tấm trăng gần, bốn bề bát ngát, cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Cảnh đẹp, nhưng thật buồn, mênh mông hoang vắng, lạnh lẽo. Nguyễn Du đã mượn cảnh để nói lên tâm trạng nàng Kiều:

Trước lầu Ngưng Bích khóa son,

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.

Cha mẹ, các em, người yêu,... tất cả đã xa xôi, cách biệt với Kiều. Sống giữa một lũ mặt người dạ thú như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Kiều chẳng khác gì một chú cừu non giữa bầy lang sói. Có ai hiểu nổi lòng nàng trong tình huống này? Nhìn một dáng núi xa, ngắm một vầng trăng gần, nàng cảm thấy đó là bè bạn. Nhưng những những người bạn không lời này đâu có an ủi, chia sẻ được nỗi buồn đang chất ngất trong lòng nàng? Bởi thế, nỗi buồn không thể nào vơi cạn.

Dõi tầm mắt ra bốn phương, tám hướng, không hướng nào lóe lên được một chút vui:

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Không một bóng người, chỉ có không gian mênh mông, hoang vắng và buồn tẻ. Ướm vào thân phận nàng, nàng nào có khác chi hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi kia? Giữa người với cảnh vừa có nét tương phản, vừa có nét tương đồng. Nỗi buồn của Kiều dường như cũng mở ra đến vô cùng như không gian bát ngát trước mắt nàng. Càng cảm thương cho thân phận, cõi lòng nàng càng tan nát:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Cảnh buồn hay gợi nhớ. Kiều lặng lẽ, âm thầm gạt lệ khi hồi tưởng về bao điều tốt đẹp nay đã thành quá khứ.

Nàng nhớ người yêu cùng với mối tình đầu mãnh liệt và trong sáng:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Hình ảnh hai người cùng uống chén rượu thề trăm năm gắn bó đêm nào dưới vầng trăng vằng vặc giữa trời giờ vẫn còn đậm nét, tươi nguyên trong kí ức nàng. Nàng thương chàng Kim giờ này đang sốt ruột chờ trông tin tức người yêu. Nghĩ về cha mẹ, lòng Kiều xót xa, đau đớn:

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai biết mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Nàng đã đi xa biền biệt, lấy ai chăm sóc mẹ cha? Tuy đã cố dứt chữ tình để đền chữ hiếu nhưng nàng vẫn không khỏi băn khoăn, thổn thức khi nghĩ đến cảnh cha già mẹ yếu tựa cửa hôm mai, mòn mỏi đợi mong con trong vô vọng. Điều đó càng khẳng định rõ nàng là người con hiếu thảo.

Mang một tâm trạng như thế nên Kiều nhìn đâu cũng chỉ thấy buồn:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Bốn lần, từ "buồn trông” được nhắc lại; mỗi lần mở đầu cho một cảnh. Kiểu kết cấu lặp này gây ấn tượng mạnh về nỗi buồn sâu sắc của Kiều. Tám câu thơ, bốn bức tranh phong cảnh nhỏ trong một bức tranh phong cảnh - tâm tình rộng lớn. Bức thứ nhất: “cửa bể chiều hôm” mênh mông màu xám bạc. Trên cái nền ấy nổi lên một cánh buồm đơn độc, thấp thoáng ẩn hiện, không biết về phương trời nào. Bức thứ hai: “ngọn nước mới sa” (nước đổ từ trên cao xuống), cuốn theo những cánh hoa bị sóng gió dập vùi, đẩy đưa vào cõi vô định. Bức thứ ba: “nội cỏ rầu rầu”, héo úa, không còn sức sống. Bức thứ tư: “gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng sóng...”

Chúng ta bắt gặp ở đây bút pháp quen thuộc của Nguyễn Du. Cảnh vật chỉ mang tính ước lệ nhưng phản ánh rõ tình người, cụ thể là nỗi buồn không giới hạn của Kiều. Mỗi cảnh ngụ một ý, tăng dần lên theo suy nghĩ và mặc cảm về thân phận con người: lẻ loi, cô độc, trôi nổi, dập vùi, héo tàn và linh tính báo trước về một tương lai đen tối đầy bão tố.

Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, thi hào Nguyễn Du tỏ ra rất tài hoa trong việc tả cảnh, tả tâm lí nhân vật. Ngòi bút của ông đi sâu vào từng ngõ ngách tâm tư sâu kín của nàng Kiều, khiến người đọc thực sự xúc động, xót xa cho số phận bất hạnh của người con gái tài sắc ấy. Cảnh và tình cứ đan xen, hòa quyện, bổ sung ý nghĩa cho nhau, làm nổi bật chủ đề của đoạn trích. Có thể nói, đây là một trong những đoạn hay nhất trong Truyện Kiều.



Nguồn:St
 
  • Like
Reactions: Moon Crush

Xiao Fang

Học sinh gương mẫu
Thành viên
17 Tháng ba 2017
1,068
2,193
354
Earth
Hà Nội
THPT Xuân Khanh
2) Vẻ đẹp của Thúy Vân
a. mở bài :

- Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, tên tuối của ông gắn liền với tác phẩm Truyện Kiều, kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Chì xét riêng về nghệ thuật miêu tả nhận vật, Nguyễn Du đã đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sứ viết tiểu thuyết bàng thơ.

- Mười bốn câu đầu Chị em Thúy Kiều đã thế hiện được trọn vẹn vẻ đẹp, tài năng và đức hạnh cúa hai chị em với tất cả tấm lòng quý mến, trân trọng của nhà thơ. (Trích dẫn thơ)

b. Thân bài :

- Đoạn trích Chị em Thuý Kiều nằm trong phần Gập gỡ và đính ước, sau phần giới thiệu gia cánh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên đê gợi, tả, khắc hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân. Trước hết, Nguyễn Du cho ta thấy vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuỷ Kiều trong bốn câu thơ đầu bằng một nót bút cô đọng:

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Môi người một vẻ mười phân vẹn mười.

- Những câu thơ đã gợi được mối thiện cảm ban đầu cho người đọc về hình ảnh hai chị em Thúy Kiều: cả hai chị em đều xinh đẹp, một vẻ đẹp thanh tao, trong trắng như mai và tuyết, từ hình dáng bên ngoài cho đến tâm hồn tính cách bên trong, đúng là mỗi người moi vẻ mười phân vẹn mười. Tác giả đã lấy vẻ đẹp mĩ lệ trong thiên nhiên, như mây và tuyết đế so sánh gián tiếp vẻ đẹp của Thúy Vân và Thúy Kiều, theo bút pháp tượng trưng và ẩn dụ, là những biện pháp tu từ quen thuộc trong thơ văn cổ điển. Một cái nhìn đầy trân trọng, lấy mai và tuyết làm chuẩn mực cho cái đẹp, Nguyễn Du miêu tả tâm hồn trong sáng, làm rõ cái thần bức chân dung thiếu nữ. Bốn câu thơ tiếp tác giả giói thiệu vẻ đẹp Thúy Vân, một thiếu nữ rất mực kiều diễm:

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

- Với gương mặt xinh đẹp đầy đặn như mặt trăng tròn, lông mày đẹp như mày ngài, miệng cười tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc, tóc đẹp hơn mây, da trắng đẹp hơn tuyết. Đó là những nét miêu tả theo phương pháp ước lệ, dùng để miêu tả những đặc điểm hình thức hoặc tinh thần của con người cho thêm sinh động, gợi cảm. Từ ngữ trang trọng, đoan trang là hai nét vẽ tinh tế, gợi tả cái thần của bức chân dung Thúy Vân với vẻ đẹp quý phái, một cái nhìn đầy trân trọng của Tố Như khi miêu tả Thúy Vân.

- Bằng một loạt miêu tả có tính chất ước lệ, kết họp với một hệ thống từ ngữ có tính chọn lọc, tác giả đã thành công trong việc khắc họa đậm nét vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thúy Vân đã hiện ra trước mắt người đọc như một bức tranh truyền thần. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên, nhưng tạo sự hòa họp êm đềm với chung quanh. Từ thông điệp nghệ thuật này, phải chăng dưới ngòi bút Nguyễn Du, con người ấy với vẻ đẹp ấy, ắt hẳn cuộc đời sẽ chẳng biết đến sóng gió là gì ? Những câu tiếp theo Nguyễn Du giới thiệu vẻ đẹp sắc sảo mặn mà của Thúy Kiều. Neu Thúy Vân có một vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang thì trái lại Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo mặn mà về cả tài lẫn sắc:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So về tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua tham liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

- Đôi mắt Thúy Kiều đẹp trong như nước mùa thu, lông mày xinh đẹp như dáng núi mùa xuân. Những hình ảnh ẩn dụ này gợi lên đôi mắt trong sáng long lanh: đôi mắt đó là cửa sổ của tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của trí tuệ. Dung nhan đằm thắm khiến hoa cũng phải ghen, dáng người cao đẹp tươi xanh khiến liễu cũng phải hờn, đúng là một sẳc đẹp như người xưa thường nói nghiêng nước nghiêng thành. Nếu như ở Thúy Vân nghiêng về tả thi ở Thúy Kiều nét bút thiên về gợi, để từ đó ta mới thấy hết vẻ đẹp của một bậc giai nhân tuyệt thế.

- Với các biện pháp nghệ thuật như ước lệ kết hợp với ẩn dụ - ỉàn thu thủy nét xuân sơn, nhân hóa kết họp với thậm xưng hoa ghen thua tham, liễu hờn kém xanh, và cả phép dùng điển cố - một hai nghiêng nước nghiêng thành, Nguyên Du đã dựng lên được bức chân dung tuyệt sắc về Thúy Kiều với cái đẹp sắc sảo mặn mà, hoa ghen liễu hờn, khác hẳn cái đẹp mày thua tuyết nhường đoan trang phúc hậu của Thúy Vân.

- Qua mười bốn câu đầu đoạn trích Chị em Thuý Kiều , hình ảnh hai chị em hiện lên rõ nét là hai con người với vẻ đẹp và tài năng hơn người. Đồng thời, đoạn thơ còn thể hiện dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn Du. Với nghệ thuật ước lệ và bút pháp chấm phá trong hội họa, Nguyễn Du đã rất tài tình trong việc giới thiệu và miêu tả tài sắc Thúy Kiều, Thúy Vân. Cả hai chị em đều mang vẻ đẹp quý phái, thanh thoát, sắc nước hương trời. Đọc đoạn thơ, mỗi người chúng ta có một cảm nhận, tưởng tượng khác nhau về bức chân dung của hai thiếu nữ. Chính vì vậy, Chị em Thúy Kiều luôn tươi mới, xinh đẹp và để lại cho độc giả biết bao cảm xúc thân thương.

c. Kết bài :

- Có thể nói, với đoạn trích Chị em Thúy Kiều, lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, hỉnh ảnh người phụ nữ hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút thiên tài Nguyễn Du một cách say sưa, nồng nhiệt và trân trọng nhất.

- Càng nâng niu, quý trọng Thúy Kiều, chúng ta càng cảm phục tài năng và đức độ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Đó là cái một nhìn của con người có tấm lòng nhân đạo mênh mông.
3) Lòng thủy chung và hiếu thảo của Thúy Kiều
Nguyễn Du – nhà thơ lớn của nước ta cuối thế kỉ XVIII, bằng tâm huyết và tài năng trác tuyệt của mình đã xây dựng thành công một hình tượng nhân vật bất hủ là Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn Thúy Kiều là người con chí hiếu, là người tình chung thủy, là người trọn nhân nghĩa và giàu đức hi sinh. Mặc dù cuộc đời nàng chìm ngập trong nỗi bất hạnh, đau thương, nhưng nàng vần cố gắng vươn lên và phẩm hạnh của nàng luôn tỏa sáng.

Trước hết, Kiều là một người con hiếu thảo. Trước tai họa bất ngờ của gia đình, cha bị vu oan, bị tra tấn dã man; nhà cửa bị lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa cướp phá tan hoang, trái tim Kiều đau đớn như bị xé ra từng mảnh: Rường cao rứt ngược dẩy oan, Dẫu là đá cũng nát gan lọ người. Bị bọn quan lại tham nhũng đẩy vào thế cùng: Có ba trăm lạng việc này mới xong; không còn cách nào khác, Kiều đã đi đến quyết định hành động ngoài dự tính của mọi người, ngoài dự tính của chính bản thân nàng: bán mình chuộc cha. Cơ sở của hành động cao đẹp ấy chính là lòng hiếu thảo. Kiều đã gạt chữ tình sang một bên để đáp đền chữ hiếu, mặc dù mối tình đầu đời trong trắng, thiêng liêng với Kim Trọng được coi là lẽ sống của đời nàng.
Suốt mười lăm năm lưu lạc nơi đất khách quê người: Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương; lênh đênh chìm nổi: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, nhưng không lúc nào Kiều nguôi nhớ đến gia đình và cha mẹ.

Lúc ở lầu Ngưng Bích, xa nhà chưa bao lâu mà nàng tưởng như đã trải qua biết mấy nắng mưa. Nàng hình dung cha mẹ tựa cửa hôm mai, mỏi mòn trông đợi, mà mình thì xa xôi cách biệt, hỏi ai là người chăm sóc sớm tối?

Đến lúc buộc phải chấp nhận làm kĩ nữ ở lầu xanh, Kiều lại cùng thương cha nhớ mẹ. Nỗi nhớ ấy đã thấm đẫm trong nỗi thương thân khiến lời than thở của Kiều nghe muốn rơi nước mắt: Dặm nghìn nước thẳm non xa, Nghĩ đâu thân phận con ra thế này! Nàng đau khổ cho mình và cũng đau khổ cho cha mẹ. Lúc bán mình, nàng cứ nghĩ rằng mình chỉ đem thân làm thiếp, làm vợ lẽ người ta chứ đâu đến nỗi ô nhục như vậy !
Nàng ân hận bởi bổn phận làm con không vẹn. Dù rằng ở nhà đã có hai em, nhưng chăm sóc cha mẹ là bồn phận của người con gái lớn trong nhà. Tấm lòng hiếu thảo của một người con như thế quý biết bao, thương biết bao!

Lúc khuyên cha, Kiều đã dùng đến mấy lời khuyên về đạo làm con của Nho gia nhưng chữ hiếu của Kiều không phải chỉ là chữ hiếu phục tòng. Nó đơn giản nhưng hồn nhiên và sâu thẳm bởi nó là chữ hiếu của tình thương, của trái tim Thúy Kiều.

Bởi với Kim Trọng, Thúy Kiều là một người tình chung thủy. Tình yêu đầu đời của nàng thật trong sáng, mãnh liệt. Nó khiến nàng dám vượt qua những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến để đến với người yêu: Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình; cùng chàng Kim tình tự, trao nhau kỉ vật làm tin và thề nguyền gắn bó trăm năm:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song.

Bỗng dưng sóng gió cuộc đời nổi lên dập dồn trong khoảnh khắc: gia biến, cướp ngày, quan tham, bán mình… Đến đêm, Kiều mới nghĩ đến bản thân: tình mình, tình người, cảnh mình, cảnh người. Nàng thức thâu đêm và khóc. Nghĩ tới sáng mai mình sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính mình là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh ghê gớm cho chàng Kim. Nàng tự trách: Vì ta khăng khít cho người dở dang. Không chỉ dở dang mà còn tan cửa nát nhà. Nghe qua tưởng như vô lí. Sao lại vì ta? Vì cả người nữa, vì người trước chứ! Nhưng Kiều cứ nghĩ như thế bởi Kiều chỉ nghĩ đến người yêu, thương người yêu, đau trước cái đau của người yêu. Còn mình, Kiều quên hết, nếu có nghĩ đến thì cũng cam chịu: Phận dầu, dầu vậy cũng dầu…

Không chỉ thương, chỉ đau mà Kiều còn lo lắng nữa. Duyên mình đã lở, còn cái dở dang của người yêu thì sao? Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có thể cứu vãn phần nào là Thuý Vân sẽ thay mình đền đáp tình chàng:

Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tinh máu mủ thay lời nước non.

Duyên có thể trao, nhưng tình lâm sao trao được ? Nó như một món nợ. Mà nợ tình thì làm sao trả được? Sau khi cậy em, lạy em ! hình dung ra cả lúc ngậm cười chín suối biết ơn em, đến lúc trao các kỉ vật thiêng liêng, cầu chúc hạnh phúc cho em thì Kiều không còn tỉnh táo nữa. Nàng trở lại hoàn toàn bản chất con người mình, cảm nhận đầy đủ nỗi đau của mình và thốt lên thống thiết:

Ôi Kim lang, hời Kim lang !
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim, nhưng trái tim nàng thì không thế.

Từ đó, bão tố cuộc đời vùi dập nàng đến thảm thương: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Bị dìm xuống tận bùn đen nhơ nhớp nhưng nàng vẫn không nguôi nhớ đến mối tình đầu, nhớ tới chàng Kim. Nhớ đêm: Vầng trăng vằng vặc giữa trời, nhớ lời thề son sắt nguyện ước ba sinh. Nhớ tình đã cũ nhưng nghĩa còn vương:

Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.

Sau mười lăm năm, gặp lại chàng Kim, hỏi còn niềm vui nào lớn hơn đối với Kiều?! Tái hợp, duyên cũ về với tình xưa là chuyện hiển nhiên, ấy vậy nhưng cũng bởi trân trọng tình mình, tình người mà Kiều đã: Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì, từ chối tất cả mọi lời khuyên của chàng Kim và của gia đình.
Trước sau, Kiều vẫn chấp nhận thiệt thòi, hi sinh hạnh phúc của mình cho người khác. Lòng thủy chung, đức vị tha cao cả ấy của Kiều thật đáng ngợi ca muôn đời.

Trong gia đình và xã hội, Kiều đều tỏ ra là người trọng nhân, trọng nghĩa. Trên bước đường đời phiêu bạt, kẻ áp bức đọa đày nàng rất nhiều mà người xót thương, giúp đỡ cùng không ít, Kiều đều khắc cốt, ghi tâm. Đến lúc báo ân báo oán, Kiều trả ân trước, báo thù sau. Thường tình, người ta ghi sâu oán hơn ân nên trả oán trước trả ân. Nhưng Kiều là con người trung hậu, vị tha, nghĩ đến người nhiều hơn nghĩ đến mình nên nàng trọng ân hơn oán.
Thúc Sinh, mụ quản gia, Kiều Nhi, Giác Duyên… đều dược nàng đền ơn rất hậu và đánh giá rất cao hành động tốt đẹp của họ trước đây đối với nàng:

Ngàn vàng gợi chút lễ thường,
Mà tòng Phiếu Mẫu mấy vàng cho cân!

Việc báo ân của Kiều và tấm lòng nhân nghĩa của nàng dễ mấy ai sánh kịp. Người xưa nói: ơn ai một chút chẳng quên, Oán ai một chút ghi bên dạ này. Kiều cũng vậy, báo ân xong xuôi, nàng mới trả thù và hành động trả thù của nàng cũng thật quyết liệt, ghê gớm. Trừ Hoạn Thư được Kiều tha vì lẽ này lẽ khác, còn cả lũ Mã, Sở, Tú Bà… đều phải chịu cảnh Máu rơi thịt nát tan tành, Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời, đúng như lời thề thốt trước đây của chính chúng. Đó là hợp với lẽ trời : Cho hay muôn sự tại trời, Kẻ gieo gió ắt phải gặt bão. Kẻ gây ra tội ác ắt phải đền tội giữa thanh thiện bạch nhật. Đó là quy luật và cũng là chân lí cuộc đời.

Sau khi báo ân báo oán, mọi cơ cực, oán trái, gian truân của đời Kiều như được trút sạch. Từ địa vị thấp hèn, Kiều được nâng lên địa vị của một bậc phu nhân, một quan tòa. Cuộc đời nàng từ đây tưởng tràn trề niềm vui và ánh sáng, nhưng éo lo thay, như một định mệnh đã ghi trong số đoạn trường, Kiều lại rời vào một tai họa khác mà nàng vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Vì tin lời hứa của Hồ Tôn Hiến, Kiều đã khuyên Từ Hải ra hàng. Kiều thực sự không muôn tiếp diễn cảnh Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu, không muôn Từ Hải tiếp tục sống ngoài vòng pháp luật và bản thân nàng mong muôn sớm được sum họp với gia đình. Tên Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến đã đẩy đau thương của Kiều tới mức tột cùng! Nàng ân hận và chỉ còn một lối thoát duy nhất là tìm đến cái chết dế chấm dứt Cuộc đời và chuộc lại lỗi lầm. Cội nguồn sâu xa của hành động sai lầm này là lòng nhân ái, nhẹ dạ tin người. Xét kĩ, ta có thể thông cảm và tha thứ cho nàng.

Có lẽ cả Nguyễn Du lẫn người đọc không ai muốn người con gái tài sắc, đức hạnh nhường ấy phải chết trong sóng nước Tiền Dương. Cái kết thúc có hậu theo quan điểm nhân dân của tác giả đã dưa nàng trở về cõi sống, cho nàng đoàn tụ với người thân sau bao năm xa cách. Điều đó có làm giảm nhẹ đôi phần bi thương trong số phận nhân vật nhưng thật ra từ đây, Kiều tuy sống mà bóng dáng chỉ còn thấp thoáng sau màn khói sương hư ảo.

Đọc Truyện Kiều, chúng ta thấy tâm huyết của tác giả như máu chảy trên đầu ngọn bứt. Tác giả dành bao yêu thương, trân trọng, xót xa cho nhân vật chính của mình – người con gái tài hoa mà bạc mệnh.

Truyện Kiều là tiếng kêu. đứt ruột về thân phận con người – nhất là người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà nhân cách bị chà đạp, vùi dập thảm thương. Thúy Kiều là cô gái có nghĩa có tình. Mặc dù rơi vào cảnh ngộ éo le, đau khố triền miên nhưng trong bối cảnh cuộc đời tăm tối ấy, phẩm giá Thúy Kiều vẫn thanh cao, rạng ngời. Có thế ví Thúy Kiều như một bông sen nở giữa đầm lầy. Phẩm hạnh quý giá ấy khiến cho hình tượng Thúy Kiều trở nên bất diệt. Nhân vật Thúy Kiều đã để lại cho chúng ta những bài học đạo lí thấm thía và bổ ích. Dó là giá trị nhân văn lớn lao của tác phẩm.
Nguồn :internet
 
Top Bottom