a. mở bài :
- Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, tên tuối của ông gắn liền với tác phẩm Truyện Kiều, kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Chì xét riêng về nghệ thuật miêu tả nhận vật, Nguyễn Du đã đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sứ viết tiểu thuyết bàng thơ.
- Mười bốn câu đầu Chị em Thúy Kiều đã thế hiện được trọn vẹn vẻ đẹp, tài năng và đức hạnh cúa hai chị em với tất cả tấm lòng quý mến, trân trọng của nhà thơ. (Trích dẫn thơ)
b. Thân bài :
- Đoạn trích Chị em Thuý Kiều nằm trong phần Gập gỡ và đính ước, sau phần giới thiệu gia cánh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên đê gợi, tả, khắc hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân. Trước hết, Nguyễn Du cho ta thấy vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuỷ Kiều trong bốn câu thơ đầu bằng một nót bút cô đọng:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Môi người một vẻ mười phân vẹn mười.
- Những câu thơ đã gợi được mối thiện cảm ban đầu cho người đọc về hình ảnh hai chị em Thúy Kiều: cả hai chị em đều xinh đẹp, một vẻ đẹp thanh tao, trong trắng như mai và tuyết, từ hình dáng bên ngoài cho đến tâm hồn tính cách bên trong, đúng là mỗi người moi vẻ mười phân vẹn mười. Tác giả đã lấy vẻ đẹp mĩ lệ trong thiên nhiên, như mây và tuyết đế so sánh gián tiếp vẻ đẹp của Thúy Vân và Thúy Kiều, theo bút pháp tượng trưng và ẩn dụ, là những biện pháp tu từ quen thuộc trong thơ văn cổ điển. Một cái nhìn đầy trân trọng, lấy mai và tuyết làm chuẩn mực cho cái đẹp, Nguyễn Du miêu tả tâm hồn trong sáng, làm rõ cái thần bức chân dung thiếu nữ. Bốn câu thơ tiếp tác giả giói thiệu vẻ đẹp Thúy Vân, một thiếu nữ rất mực kiều diễm:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
- Với gương mặt xinh đẹp đầy đặn như mặt trăng tròn, lông mày đẹp như mày ngài, miệng cười tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc, tóc đẹp hơn mây, da trắng đẹp hơn tuyết. Đó là những nét miêu tả theo phương pháp ước lệ, dùng để miêu tả những đặc điểm hình thức hoặc tinh thần của con người cho thêm sinh động, gợi cảm. Từ ngữ trang trọng, đoan trang là hai nét vẽ tinh tế, gợi tả cái thần của bức chân dung Thúy Vân với vẻ đẹp quý phái, một cái nhìn đầy trân trọng của Tố Như khi miêu tả Thúy Vân.
- Bằng một loạt miêu tả có tính chất ước lệ, kết họp với một hệ thống từ ngữ có tính chọn lọc, tác giả đã thành công trong việc khắc họa đậm nét vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thúy Vân đã hiện ra trước mắt người đọc như một bức tranh truyền thần. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên, nhưng tạo sự hòa họp êm đềm với chung quanh. Từ thông điệp nghệ thuật này, phải chăng dưới ngòi bút Nguyễn Du, con người ấy với vẻ đẹp ấy, ắt hẳn cuộc đời sẽ chẳng biết đến sóng gió là gì ? Những câu tiếp theo Nguyễn Du giới thiệu vẻ đẹp sắc sảo mặn mà của Thúy Kiều. Neu Thúy Vân có một vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang thì trái lại Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo mặn mà về cả tài lẫn sắc:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So về tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua tham liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
- Đôi mắt Thúy Kiều đẹp trong như nước mùa thu, lông mày xinh đẹp như dáng núi mùa xuân. Những hình ảnh ẩn dụ này gợi lên đôi mắt trong sáng long lanh: đôi mắt đó là cửa sổ của tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của trí tuệ. Dung nhan đằm thắm khiến hoa cũng phải ghen, dáng người cao đẹp tươi xanh khiến liễu cũng phải hờn, đúng là một sẳc đẹp như người xưa thường nói nghiêng nước nghiêng thành. Nếu như ở Thúy Vân nghiêng về tả thi ở Thúy Kiều nét bút thiên về gợi, để từ đó ta mới thấy hết vẻ đẹp của một bậc giai nhân tuyệt thế.
- Với các biện pháp nghệ thuật như ước lệ kết hợp với ẩn dụ - ỉàn thu thủy nét xuân sơn, nhân hóa kết họp với thậm xưng hoa ghen thua tham, liễu hờn kém xanh, và cả phép dùng điển cố - một hai nghiêng nước nghiêng thành, Nguyên Du đã dựng lên được bức chân dung tuyệt sắc về Thúy Kiều với cái đẹp sắc sảo mặn mà, hoa ghen liễu hờn, khác hẳn cái đẹp mày thua tuyết nhường đoan trang phúc hậu của Thúy Vân.
- Qua mười bốn câu đầu đoạn trích Chị em Thuý Kiều , hình ảnh hai chị em hiện lên rõ nét là hai con người với vẻ đẹp và tài năng hơn người. Đồng thời, đoạn thơ còn thể hiện dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn Du. Với nghệ thuật ước lệ và bút pháp chấm phá trong hội họa, Nguyễn Du đã rất tài tình trong việc giới thiệu và miêu tả tài sắc Thúy Kiều, Thúy Vân. Cả hai chị em đều mang vẻ đẹp quý phái, thanh thoát, sắc nước hương trời. Đọc đoạn thơ, mỗi người chúng ta có một cảm nhận, tưởng tượng khác nhau về bức chân dung của hai thiếu nữ. Chính vì vậy, Chị em Thúy Kiều luôn tươi mới, xinh đẹp và để lại cho độc giả biết bao cảm xúc thân thương.
c. Kết bài :
- Có thể nói, với đoạn trích Chị em Thúy Kiều, lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, hỉnh ảnh người phụ nữ hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút thiên tài Nguyễn Du một cách say sưa, nồng nhiệt và trân trọng nhất.
- Càng nâng niu, quý trọng Thúy Kiều, chúng ta càng cảm phục tài năng và đức độ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Đó là cái một nhìn của con người có tấm lòng nhân đạo mênh mông.
3) Lòng thủy chung và hiếu thảo của Thúy Kiều
Nguyễn Du – nhà thơ lớn của nước ta cuối thế kỉ XVIII, bằng tâm huyết và tài năng trác tuyệt của mình đã xây dựng thành công một hình tượng nhân vật bất hủ là Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn Thúy Kiều là người con chí hiếu, là người tình chung thủy, là người trọn nhân nghĩa và giàu đức hi sinh. Mặc dù cuộc đời nàng chìm ngập trong nỗi bất hạnh, đau thương, nhưng nàng vần cố gắng vươn lên và phẩm hạnh của nàng luôn tỏa sáng.
Trước hết, Kiều là một người con hiếu thảo. Trước tai họa bất ngờ của gia đình, cha bị vu oan, bị tra tấn dã man; nhà cửa bị lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa cướp phá tan hoang, trái tim Kiều đau đớn như bị xé ra từng mảnh: Rường cao rứt ngược dẩy oan, Dẫu là đá cũng nát gan lọ người. Bị bọn quan lại tham nhũng đẩy vào thế cùng: Có ba trăm lạng việc này mới xong; không còn cách nào khác, Kiều đã đi đến quyết định hành động ngoài dự tính của mọi người, ngoài dự tính của chính bản thân nàng: bán mình chuộc cha. Cơ sở của hành động cao đẹp ấy chính là lòng hiếu thảo. Kiều đã gạt chữ tình sang một bên để đáp đền chữ hiếu, mặc dù mối tình đầu đời trong trắng, thiêng liêng với Kim Trọng được coi là lẽ sống của đời nàng.
Suốt mười lăm năm lưu lạc nơi đất khách quê người: Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương; lênh đênh chìm nổi: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, nhưng không lúc nào Kiều nguôi nhớ đến gia đình và cha mẹ.
Lúc ở lầu Ngưng Bích, xa nhà chưa bao lâu mà nàng tưởng như đã trải qua biết mấy nắng mưa. Nàng hình dung cha mẹ tựa cửa hôm mai, mỏi mòn trông đợi, mà mình thì xa xôi cách biệt, hỏi ai là người chăm sóc sớm tối?
Đến lúc buộc phải chấp nhận làm kĩ nữ ở lầu xanh, Kiều lại cùng thương cha nhớ mẹ. Nỗi nhớ ấy đã thấm đẫm trong nỗi thương thân khiến lời than thở của Kiều nghe muốn rơi nước mắt: Dặm nghìn nước thẳm non xa, Nghĩ đâu thân phận con ra thế này! Nàng đau khổ cho mình và cũng đau khổ cho cha mẹ. Lúc bán mình, nàng cứ nghĩ rằng mình chỉ đem thân làm thiếp, làm vợ lẽ người ta chứ đâu đến nỗi ô nhục như vậy !
Nàng ân hận bởi bổn phận làm con không vẹn. Dù rằng ở nhà đã có hai em, nhưng chăm sóc cha mẹ là bồn phận của người con gái lớn trong nhà. Tấm lòng hiếu thảo của một người con như thế quý biết bao, thương biết bao!
Lúc khuyên cha, Kiều đã dùng đến mấy lời khuyên về đạo làm con của Nho gia nhưng chữ hiếu của Kiều không phải chỉ là chữ hiếu phục tòng. Nó đơn giản nhưng hồn nhiên và sâu thẳm bởi nó là chữ hiếu của tình thương, của trái tim Thúy Kiều.
Bởi với Kim Trọng, Thúy Kiều là một người tình chung thủy. Tình yêu đầu đời của nàng thật trong sáng, mãnh liệt. Nó khiến nàng dám vượt qua những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến để đến với người yêu: Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình; cùng chàng Kim tình tự, trao nhau kỉ vật làm tin và thề nguyền gắn bó trăm năm:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song.
Bỗng dưng sóng gió cuộc đời nổi lên dập dồn trong khoảnh khắc: gia biến, cướp ngày, quan tham, bán mình… Đến đêm, Kiều mới nghĩ đến bản thân: tình mình, tình người, cảnh mình, cảnh người. Nàng thức thâu đêm và khóc. Nghĩ tới sáng mai mình sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính mình là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh ghê gớm cho chàng Kim. Nàng tự trách: Vì ta khăng khít cho người dở dang. Không chỉ dở dang mà còn tan cửa nát nhà. Nghe qua tưởng như vô lí. Sao lại vì ta? Vì cả người nữa, vì người trước chứ! Nhưng Kiều cứ nghĩ như thế bởi Kiều chỉ nghĩ đến người yêu, thương người yêu, đau trước cái đau của người yêu. Còn mình, Kiều quên hết, nếu có nghĩ đến thì cũng cam chịu: Phận dầu, dầu vậy cũng dầu…
Không chỉ thương, chỉ đau mà Kiều còn lo lắng nữa. Duyên mình đã lở, còn cái dở dang của người yêu thì sao? Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có thể cứu vãn phần nào là Thuý Vân sẽ thay mình đền đáp tình chàng:
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tinh máu mủ thay lời nước non.
Duyên có thể trao, nhưng tình lâm sao trao được ? Nó như một món nợ. Mà nợ tình thì làm sao trả được? Sau khi cậy em, lạy em ! hình dung ra cả lúc ngậm cười chín suối biết ơn em, đến lúc trao các kỉ vật thiêng liêng, cầu chúc hạnh phúc cho em thì Kiều không còn tỉnh táo nữa. Nàng trở lại hoàn toàn bản chất con người mình, cảm nhận đầy đủ nỗi đau của mình và thốt lên thống thiết:
Ôi Kim lang, hời Kim lang !
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim, nhưng trái tim nàng thì không thế.
Từ đó, bão tố cuộc đời vùi dập nàng đến thảm thương: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Bị dìm xuống tận bùn đen nhơ nhớp nhưng nàng vẫn không nguôi nhớ đến mối tình đầu, nhớ tới chàng Kim. Nhớ đêm: Vầng trăng vằng vặc giữa trời, nhớ lời thề son sắt nguyện ước ba sinh. Nhớ tình đã cũ nhưng nghĩa còn vương:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
Sau mười lăm năm, gặp lại chàng Kim, hỏi còn niềm vui nào lớn hơn đối với Kiều?! Tái hợp, duyên cũ về với tình xưa là chuyện hiển nhiên, ấy vậy nhưng cũng bởi trân trọng tình mình, tình người mà Kiều đã: Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì, từ chối tất cả mọi lời khuyên của chàng Kim và của gia đình.
Trước sau, Kiều vẫn chấp nhận thiệt thòi, hi sinh hạnh phúc của mình cho người khác. Lòng thủy chung, đức vị tha cao cả ấy của Kiều thật đáng ngợi ca muôn đời.
Trong gia đình và xã hội, Kiều đều tỏ ra là người trọng nhân, trọng nghĩa. Trên bước đường đời phiêu bạt, kẻ áp bức đọa đày nàng rất nhiều mà người xót thương, giúp đỡ cùng không ít, Kiều đều khắc cốt, ghi tâm. Đến lúc báo ân báo oán, Kiều trả ân trước, báo thù sau. Thường tình, người ta ghi sâu oán hơn ân nên trả oán trước trả ân. Nhưng Kiều là con người trung hậu, vị tha, nghĩ đến người nhiều hơn nghĩ đến mình nên nàng trọng ân hơn oán.
Thúc Sinh, mụ quản gia, Kiều Nhi, Giác Duyên… đều dược nàng đền ơn rất hậu và đánh giá rất cao hành động tốt đẹp của họ trước đây đối với nàng:
Ngàn vàng gợi chút lễ thường,
Mà tòng Phiếu Mẫu mấy vàng cho cân!
Việc báo ân của Kiều và tấm lòng nhân nghĩa của nàng dễ mấy ai sánh kịp. Người xưa nói: ơn ai một chút chẳng quên, Oán ai một chút ghi bên dạ này. Kiều cũng vậy, báo ân xong xuôi, nàng mới trả thù và hành động trả thù của nàng cũng thật quyết liệt, ghê gớm. Trừ Hoạn Thư được Kiều tha vì lẽ này lẽ khác, còn cả lũ Mã, Sở, Tú Bà… đều phải chịu cảnh Máu rơi thịt nát tan tành, Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời, đúng như lời thề thốt trước đây của chính chúng. Đó là hợp với lẽ trời : Cho hay muôn sự tại trời, Kẻ gieo gió ắt phải gặt bão. Kẻ gây ra tội ác ắt phải đền tội giữa thanh thiện bạch nhật. Đó là quy luật và cũng là chân lí cuộc đời.
Sau khi báo ân báo oán, mọi cơ cực, oán trái, gian truân của đời Kiều như được trút sạch. Từ địa vị thấp hèn, Kiều được nâng lên địa vị của một bậc phu nhân, một quan tòa. Cuộc đời nàng từ đây tưởng tràn trề niềm vui và ánh sáng, nhưng éo lo thay, như một định mệnh đã ghi trong số đoạn trường, Kiều lại rời vào một tai họa khác mà nàng vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Vì tin lời hứa của Hồ Tôn Hiến, Kiều đã khuyên Từ Hải ra hàng. Kiều thực sự không muôn tiếp diễn cảnh Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu, không muôn Từ Hải tiếp tục sống ngoài vòng pháp luật và bản thân nàng mong muôn sớm được sum họp với gia đình. Tên Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến đã đẩy đau thương của Kiều tới mức tột cùng! Nàng ân hận và chỉ còn một lối thoát duy nhất là tìm đến cái chết dế chấm dứt Cuộc đời và chuộc lại lỗi lầm. Cội nguồn sâu xa của hành động sai lầm này là lòng nhân ái, nhẹ dạ tin người. Xét kĩ, ta có thể thông cảm và tha thứ cho nàng.
Có lẽ cả Nguyễn Du lẫn người đọc không ai muốn người con gái tài sắc, đức hạnh nhường ấy phải chết trong sóng nước Tiền Dương. Cái kết thúc có hậu theo quan điểm nhân dân của tác giả đã dưa nàng trở về cõi sống, cho nàng đoàn tụ với người thân sau bao năm xa cách. Điều đó có làm giảm nhẹ đôi phần bi thương trong số phận nhân vật nhưng thật ra từ đây, Kiều tuy sống mà bóng dáng chỉ còn thấp thoáng sau màn khói sương hư ảo.
Đọc Truyện Kiều, chúng ta thấy tâm huyết của tác giả như máu chảy trên đầu ngọn bứt. Tác giả dành bao yêu thương, trân trọng, xót xa cho nhân vật chính của mình – người con gái tài hoa mà bạc mệnh.
Truyện Kiều là tiếng kêu. đứt ruột về thân phận con người – nhất là người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà nhân cách bị chà đạp, vùi dập thảm thương. Thúy Kiều là cô gái có nghĩa có tình. Mặc dù rơi vào cảnh ngộ éo le, đau khố triền miên nhưng trong bối cảnh cuộc đời tăm tối ấy, phẩm giá Thúy Kiều vẫn thanh cao, rạng ngời. Có thế ví Thúy Kiều như một bông sen nở giữa đầm lầy. Phẩm hạnh quý giá ấy khiến cho hình tượng Thúy Kiều trở nên bất diệt. Nhân vật Thúy Kiều đã để lại cho chúng ta những bài học đạo lí thấm thía và bổ ích. Dó là giá trị nhân văn lớn lao của tác phẩm.
Nguồn :internet