Văn [Lớp 8] Văn nghị luận

Nhók PaPy

Học sinh
Thành viên
4 Tháng ba 2018
167
105
21
19
Hà Nội
Trường Trung Học Cơ Sở Kiêu Kị
Bài làm
Sự thất thế của Nho học và giới trí thức cũ đã được Trần Tế Xương phản ánh ngắn gọn và chua xót:
Nào có ra gì cái chữ Nho
Ông nghề, ông cống cũng nằm co
Sao bằng đi học làm thồng phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò.
Riêng Vũ Đình Liên với bài Ông đồ đã in bóng dáng của một thời tàn và nỗi lòng ân hận của lớp người đương thời.
Thực vậy, Ông đồ chính là "các di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn" (Vũ Đình Liên) đã bị rơi vào quên lãng. Qua hình ảnh này, nhà thơ thể hiện niềm thương cảm chân thành với ông đồ, nỗi hoài niệm đối với một thời đại đã qua.
Trước hết là hình ảnh ông đồ trong thời đắc ý. Tầng lớp nho sĩ xưa, nếu đỗ đạt cao, làm quan to là vinh hiển nhất, nêu không thì thường dạy học, gọi là ông đồ. Đầu thế kỉ XX, chế độ thi cử phong kiến dần dần bị bãi bỏ tại Nam Kì, Bắc Kì rồi Trung Kì. Chữ nho được ít người trọng vọng. Trong hai khổ đầu, nhà thơ đã hết lời ca ngợi tài năng ông đồ. Đó là một tài năng được số đông tán thưởng, yêu mến. Ông xuất hiện cùng mục tàu giấy đỏ bên hè phố mỗi khi hoa đào nở như cùng góp thêm vào cái đông vui, cái rực rỡ của phố phường đang tưng bừng đón Tết. Hình ảnh đó đã trở thành quen thân không thể thiếu trong dịp Tết đến, xuân về. Câu đối đỏ của ông đồ là một trong những thư cần thiết để đốn xuân:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
Chữ nghĩa thánh hiền và nghề dạy học của ông trong cái xã hội tôn sư trọng đạo ấy khiến ông được mọi người kính nể. Theo phong tục, ngày Tết đến, mọi người cần sắm câu đối hoặc một đôi chữ nho viết trên giấy điều dán trên vách, trên cột, vừa để trang hoàng nhà cửa, vừa gửi gắm lời cầu chúc tốt lành. Khi đó, ông đồ được thiên hạ tìm đến. Đó là thời đắc ý của ồng đồ. Lúc này, ông đồ là người nghệ sĩ đang trổ tài trước lòng mến mộ của mọi người. Ngày ấy, viết chữ cũng còn là vẽ, là làm tranh, là làm nghệ thuật. Đã từng có ngành "thư pháp" (nghệ thuật viết chữ). Cái tài cái hoa tay của ông đồ đã để lại cho đời những nét chữ phượng múa rồng bay như những tác phẩm nghệ thuật thực sự mà người đời ngưỡng mộ, tấm tắc ngợi khen. Đấy là những dấu hiệu của vẻ đẹp văn hóa một thời, là sự tôn vinh một giá trị văn hóa cổ truyền. Có người nói chữ Nho là chữ thánh hiền vốn chỉ để dùng răn dạy và ngâm vịnh cao sang, giờ mang ra mua bán dù sao cũng là chuyện thất thế, chuyện đáng thương. Nhưng có lẽ, ở đây phải tính đến một nét sinh hoạt văn hóa phổ biến trong đời sống nói chung.
Nhưng thời gian lặp lại mà sinh hoạt ấy không lặp lại. Hai khổ 3,4 vẫn là hình ảnh ông đồ bày mực tàu giấy đỏ lên hè phố khi Tết đến, nhưng tất cả đã khác xưa. Nếu trước kia là:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
thì giờ đây, cảnh tượng sao mà vắng vẻ:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Điệp ngữ mỗi năm mỗi vắng đã diễn tả độ tàn phai nhanh chóng của thị hiếu truyền thống. Từ mỗi lặp lại như không chỉ gỗ nhịp cho bước đi suy tàn của thời gian mà còn gọi được cả không gian ngày càng vắng lặng. Câu hỏi phiếm định: Người thuê viết nay đâu? Được thốt lên như một nỗi cảm thông da diết đến nhức nhối về tình cảnh khôngcó người thích thú thưởng thức văn hay chữ tốt nữa. Đây không đơn giản là chuyện thị hiếu, mà còn là chuyện tri âm, lòng ngưỡng mộ tài hoa. Còn duyên thì giấy thắm mực đượm, hết duyên giấy mực đều tàn phai. Các định ngữ vắng, vắng, buồn, đọng, không thắm, sầu khắc họa ‘Sự buồn bã, lụi tàn của một sự sống, ông đồ bị rơi vào quên lãng, vô tình bởi một thị hiếu đã chết, một phong tục bị bỏ quên, bởi sự vô cảm của người đời:
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.
Đoạn thơ giàu chất tạo hình với ngòi bút đặc tả đầy sức gợi trong sự đối lập giữa cái tĩnh và cái động: ông đồ - người qua đường, giấy - lá rơi, mưa bay. Tất cả chỉ làm tăng thêm dáng vẻ bất động của ông đồ. ông đồ ngồi đấy, như một pho tượng bị lãng quên, không còn một chút giao cảm, đồng điệu với cuộc đời, như một di tích dù đẹp nhưng bị từ chối vì không hợp thời, ông đồ sống mà như không tồn tại, cố mà cũng như không, buồn bã, đơn côi, xa vắng giữa dòng đời tấp nập. Hình ảnh ông đồ lạc lõng, cô đơn giữa đám đông mới chua xót làm sao!
Ngoài trời mưa bụi bay... Có lẽ đây là câu hay nhất của bài thơ. Chỉ là câu tả cảnh bình dị, nhưng lại là câu thơ chất chứa tâm trạng, tâm hồn... Không phải là mưa to gió lớn hay mưa rả rích sầu não ghê gớm gì, chỉ là mưa bụi bay. Nhưng cảnh mưa bụi đầy trời ấy sao mà ảm đạm, mà lạnh lẽo... Mười hai thế kỉ trước, một nhà thơ đời Đường đã viết bài Thanh minh, trong đó có hai câu:
Thanh minh thời vũ tiết phân phân
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn
Có người dịch:
Thanh minh lất phất mưa phùn
Khách đi đường thắm nỗi buồn xót xa.
Thì ra cái mưa phùn lất phất, cái mưa bụi bay chỉ nhè nhẹ man mác thế thôi mà cũng làm nát hồn người (dục đoạn hồn).
Bài thơ mở đầu là Mỗi năm hoa đào nở - Lại thấy ông thấy ông đồ già và kết thúc là Năm nay đào lại nở - Không thấy ông đồ xưa có tác dụng làm nỗi bật chủ đề. Đó là cái tứ "cảnh cũ người đâu", thường gặp trong thơ cổ. Năm nay đào lại nở, Tết lại đến, mùa xuân lại về, nhưng ông đồ xưa thì không thấy nữa. Từ nay hình ảnh ông đồ vĩnh viễn đi vào quá khứ, vĩnh viễn vắng bóng trong cuộc sống sôi động.
Hai câu cuối cùng là lời tự vấn của nhà thơ, là nỗi bâng khuâng thương tiếc ngậm ngùi... Hai câu trực tiếp phát biểu cảm xúc dâng trào kết đọng suốt cả bài thơ và mang ý nghĩa khái quát sâu xa. Từ một ông đồ ngồi viết câu đối bán Tết, nhà thơ nghĩ đên những người muốn năm cũ không còn nữa... Họ không còn nữa nhưng anh hồn của họ, những giá trị mà họ đã góp vào cuộc sống tinh thần của quê huơng đất nước này, giờ ở đâu?
Câu hỏi ấy cứ vương vấn không dứt trong lòng người đọc sau khi đọc xong bài thơ bình dị mà hàm súc. Dư ba đó là một chút bâng khuâng đến ngỡ ngàng, như một niềm ân hận. Đoạn thơ như những nén hương tưởng nhớ của hậu sinh trót lỗi vô tình.
Hình ảnh ông đồ với hai cảnh đối lập xưa, nay đã thể hiện sâu sắc niềm cảm thương chân thành trước cảnh đời thất thế của một lớp nhà nho cuối mùa, thể hiện lòng hoài niệm về một thời đã qua.
 

Nhók PaPy

Học sinh
Thành viên
4 Tháng ba 2018
167
105
21
19
Hà Nội
Trường Trung Học Cơ Sở Kiêu Kị
”Ông đồ” là kiệt tác của Vũ Đình Liên tác giả nổi bật trong phong trào thơ mới. Bài thơ ngũ ngôn gồm 5 khổ để lại cho người đọc nhiều suy nghĩ về hình ảnh ông đồ từ khắc hoàng kim cho đến khi còn vang bóng.
Ông đồ thời xưa là những nhà nho, làm nhiệm vụ dạy học, ông đồ gắn liền với vòng lặp của thời gian:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”.
Khi hoa đào nở đó là thời gian mùa xuân sắp về hình ảnh ông đồ xuất hiện, ông lại làm công việc quen thuộc của mình, với tài năng ông “thảo những nét phượng múa rồng bay”, nhiều người thuê ông viết và ai cũng khen ngợi tài năng của ông đồ.
Nhưng thời thế đã đổi thay, Hán học đang trong giai đoạn suy thoái trong thời gian thực dân nửa phong kiến, câu thơ “Người thuê viết nay đâu?”, câu hỏi bâng quơ và đầy cảm thương. Giấy đỏ, nghiên mực những hành trang gắn liền với ông đồ trên con đường tạo ra cái đẹp cho người đời nhưng giờ đây cũng u buồn, lặng lẽ. Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa để diễn tả nỗi buồn u sầu của những đồ vật vô tri vô giác. Không chỉ vậy “người buồn cảnh có vui bao giờ” nỗi buồn của ông đồ còn đủ sức lan tỏa vào không gian khiến cho cảnh vật xung quanh cũng có gam màu tối, ảm đạm.
“Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay”
Câu thơ đọc qua như có ý tả cảnh nhưng tác giả cũng nói lên nỗi lòng của ông đồ, đây là phép tả cảnh ngụ tình. Lá vàng rơi kết hợp với mưa rơi càng làm cho nỗi buồn trong chính nhân vật trở nên tê tái. Ông đồ vẫn ngồi đó, phố vẫn đông nhưng có điều không còn ai cảm thấy sự có mặt của ông nữa. Chính ông như cảm thấy cô đơn, lạc lõng trước khung cảnh quen thuộc.
“Năm này, đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ”
Năm nay hình ảnh ông đồ đã không còn nữa, cái đẹp, tinh hoa giá trị tinh thần đã biến mất. Những người muôn năm cũ là ông đồ, người thuê viết hay bất kì ai điều đó cũng không còn quan trọng nữa, câu thơ đọc lên như một niềm day dứt,ngậm ngùi cho chính số phận của ông đồ. Giá trị cái đẹp đang dần bị lãng quên, câu hỏi như muốn nhắc nhở mọi người đừng quên quá khứ, văn hóa bởi đó là tinh hoa của dân tộc.
Bài thơ Ông đồ như muốn nhắc nhở chúng ta đừng nên lãng quên quá khứ, hãy biết trân trọng và gìn giữ những giá trị đẹp đẽ của văn hóa, tinh thần để không phải hối tiếc, ân hận.
 

Dương Sảng

The Little Angel |Bio Hero
Thành viên
28 Tháng một 2018
2,884
2,779
451
Hà Nội
HMF
Đề bài: Cảm nhận về hình ảnh ông đồ.
BÀI LÀM
Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ lớp đầu trong phong trào Thơ mới. Thơ ông mạng nặng lòng thương người và niềm hoài cổ.Kiệt tác “Ông đồ” ra đời là kết tinh của hai nguồn thi cảm ấy. Hình ảnh ông đồ trong bài thơ để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc, gợi nỗi xót thương của nhà thơ với một lớp người bị lãng quên rồi vắng bóng trong xã hội hiện đại và những nuối tiếc cho một nền văn hóa mất đi cùng thế hệ những ông đồ.
Bài thơ ra đời những năm 1935-1936 khi nền Nho học đã suy tàn, chữ Quốc ngữ đã thay thế cho chữ Nho, chế độ khoa cử đã bị bãi bỏ. Ông đồ là những người học chữ Nho nhưng không đỗ đạt, sống bằng nghề dạy học. Khi các trường học không còn dạy chữ Nho mà dạy chữ Quốc ngữ, mỗi khi giáp Tết, các ông thường bày mực tàu, giấy đỏ bên hè phố viết chữ Nho, vừa để trổ tài vừa để kiếm sống. Thời gian trôi qua, phong tục chơi chữ mai một dần, ông đồ trở nên vắng bóng trong cuộc sống nhộn nhịp, xô bồ thời hiện đại.Trong bài thơ, Vũ Đình Liên không bàn bạc về sự hết thời, sự vắng bóng của chữ Nho, của ông đồ mà chỉ thể hiện sự ngậm ngùi, day dứt, xót thương trước số phận của một lớp người. Hai mươi câu thơ ngũ ngôn, năm khổ thơ giản dị mà in đủ bóng dáng của một thời tàn và lòng ân hận của một lớp người đương đại.
Khi nền Nho học còn được coi trọng – ông đồ thường xuất hiện khi xuân về tết đến. Khổ thơ đầu gợi lại hình ảnh đã trở nên thân quen trong đời sống văn hóa của người Việt Nam trong hàng ngàn năm trước đây:

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Ông đồ xuất hiện mỗi khi xuân sang tết đến, cùng với hoa đào, mực tàu, giấy đỏ, ông góp mặt vào cái không khí đông vui, náo nhiệt của phố phường. Từ “mỗi năm”, “lại” đã nhấn mạnh sự quen thuộc dường như không thể thiếu của ông đồ mỗi dịp Tết đến. Ông viết câu đối thuê, viết chữ để bán, nghĩa là cung cấp một thứ hàng hóa mỗi gia đình cần sắm vào ngày tết theo phong tục. Thời thế thay đổi, không còn dạy chữ nữa, ông đồ chỉ biết kiếm sống bằng tài thư pháp của mình mà thôi. Sự có mặt của ông thu hút mọi người:

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay

Chữ dùng trong hai câu thơ đầu rất chính xác. “Bao nhiêu” nghĩa là rất nhiều, “tấm tắc” là luôn miệng khen ngợi. Người ta tìm đến ông đồ không chỉ để thuê viết, mua chữ mà còn để ngắm, chiêm ngưỡng, thưởng thức tài nghệ của ông đồ. Lúc này, ông đồ trở thành trung tâm của sự chú ý, là đối tượng của sự ngưỡng mộ. Nghệ thuật so sánh trong hai câu thơ cuối mang đến ấn tượng về vẻ đẹp trong nét chữ của ông đồ. Chữ Hán, chữ Nho qua bàn tay tài hoa của ông đồ đã trở nên đẹp, mềm mại, uyển chuyển, sang trọng như con chim phượng hoàng đang múa và rắn rỏi, mạnh mẽ, khí phách như con rồng bay trong mây. Mặc dù được mọi người trọng vọng song việc viết câu đối thuê và phải bán chữ đã là bước thất thể của người theo nghiệp khoa bảng. Niềm vui đắt khách, đắt hàng dù sao cũng che khỏa nỗi buồn từ trong sâu thẳm và dù sao thì ông đồ vẫn còn sống được, tồn tại được bằng nghề của mình.
Theo thời gian, theo quy luật biến thiên, xã hội tiến theo hướng văn minh, hiện đại, ông đồ dần trở thành “di tích tiều tụy, đáng thương của một thời tàn”: Bắt đầu từ sự đối chiều còn – mất. Tất cả vẫn còn đấy, vẫn không gian ấy, vẫn xuân về tết đến với hoa đào nở, vẫn là ông đồ với mực tàu, giấy đỏ nhưng tất cả đã khác xưa, đã có sự đổi thay:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.

Câu thơ “Nhưng mỗi năm mỗi vắng – Người thuê viết nay đâu?”là một câu hỏi buồn, vang lên như một tiếng kêu thảng thốt, xót xa. Thời gian điểm ngược, người thuê viết trước đây bây giờ trở thành kẻ qua đường, ông đồ rơi vào tình cảnh ế hàng, mất khách như người nghệ sĩ đã hết thời, không còn được công chúng hân hoan chào đón... Nỗi buồn tủi của ông lan sang những vật vô tri. Ngòi bút Vũ Đình Liên đã diễn tả sâu sắc, cảm động tâm trạng của ông đồ bằng nghệ thuật nhân hóa. Giấy đỏ không được đụng đến, không được viết lên, nằm phơi ra trở nên bẽ bàng, vô duyên, phai nhạt đi, không “thắm” lên được thành giấy đỏ buồn. Mực trong nghiên lâu không được mài, không được chấm, kết đọng lại như giọt lệ chứa đựng bao sầu tủi nên nghiên trở thành nghiên sầu.Nỗi buồn tủi của ông đồ đã lan sang cả giấy mực, bút nghiên. Việc thổi buồn sầu vào giấy mực, nhà thơ đã mặc nhiên can thiệp vào số phận của ông đồ, thể hiện niềm xót thương vô hạn trước cái chết từ từ, không gì cứu vãn được của một lớp người, một kiếp người, của một nền văn hóa.

Nhưng không dừng lại ở đó, ,cuộc đời ngày một thêm đáng buồn. Cuối cùng rồi cũng đến lúc:
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Ở đây có sự đối lập giữa cái không thay đổi và cái đã thay đổi. Ông đồ vẫn xuất hiện, kiên trì, cố gắng bám trụ lấy cuộc sống và vẫn muốn có mặt với cuộc đời nhưng cuộc đời thì đã quên hẳn ông, người ta lạnh lùng gạt ông ra khỏi cuộc sống hiện đại – một sự lãng quên tuyệt đối. Ông đồ trở nên lạc lõng, lẻ loi giữa phố đông, lòng ông trống vắng, sụp đổ; đất trời cũng lạnh lẽo, thê lương. Hai dòng thơ cuối của khổ thơ là một hình ảnh ẩn dụ, ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh, tết nhưng không có hoa đào mà lại có lá vàng, mưa bụi; nó phủ lên mặt giấy, lên vai người, cảnh đó thật mờ mịt, lạnh, buồn, vắng, u ám, tàn tạ làm tê tái lòng người. Tất cả dường như tạo nên một chiếc khăn tang phủ lên chiếc quan tài từ từ đưa ông đồ về miền quên lãng, ngay khi ông còn sống.

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ

Cũng đến lúc, nhà nho tài hoa, hiền lành nhưng “sinh bất phùng thời” đã bị xã hội hiện đại đào thải. Đào vẫn nở, xuân vẫn về nhưng chẳng còn ông đồ và mực tàu, giấy đỏ nữa. Năm ngoái thôi đã thành ngày xưa, thành dĩ vãng, thành muôn năm cũ. Ông đồ già đã trở thành “ông đồ xưa”, thành “người muôn năm cũ”, thành “hồn”. Kết cấu đầu cuối tương ứng của bài thơ đã làm nổi bật chủ đề, ông đồ cũng đã chới với, cố gắng giữa dòng đời nhưng vẫn bị xã hội buông rơi, bị xóa sổ hẳn và đã hoàn toàn vắng bóng. Câu hỏi tu từ ở cuối bài – một câu hỏi không lời đáp thể hiện tâm trạng xót xa, cảm giác hụt hẫng của nhà thơ trước sự thăng trầm, dâu bể của cuộc đời. Nỗi ngậm ngùi, xót thương cho số phận của những ông đồ và niềm tiếc nuối trước sự mai một, lụi tàn của một nền văn hóa. Đây chính là biểu hiện của ngòi bút nhân văn, nhân đạo của nhà thơ Vũ Đình Liên.
Nhà thơ xót thương cho ông đồ già bị lãng quên, thờ ơ, bị xô đẩy xa hoa đào, mùa xuân, xa mực tàu, giấy đỏ - xa cái đẹp, sự sống, bị rơi khỏi dòng chảy thời gian. Hai khổ thơ đầu khi xuân về, hoa đào nở, ông đồ viết chữ trong sự ngợi khen tấm tắc của mọi người, ngòi bút của tác giả cũng hân hoan, phấn chấn. Nhưng khi ông đồ ế khách thì từ giọng điệu, nhịp thơ ấy bị chi phối bởi tình cảm, cảm xúc của tác giả. Những câu thơ lắng đọng nỗi sầu thương như:
+ Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
+ Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Khi mọi người đã lãng quên ông đồ, ánh mắt nhà thơ vẫn đau đáu dõi theo: Ông đồ vẫn ngồi đấy - Qua đường không ai hay. Cảm xúc xót thương tỏa ra cả một lớp người:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ
Sự cảm thương đó là tấm lòng nhân đạo sâu sắc dành cho những cuộc đời, những số phận bất hạnh. Bài thơ “Ông đồ” còn chan chứa niềm hoài cổ. Bài thơ là niềm luyến tiếc, nhớ nhung cảnh cũ người xưa nay vắng bóng. Vũ Đình Liên không chỉ ngậm ngùi, bâng khuâng nhớ về những người muôn năm cũ ( những người đã từng có mặt, đã góp phần làm nên đời sống văn hóa của xã hội từ bao lâu, nay bị xô dạt, bị lu mờ ở xã hội xô bồ trong hiện tại) mà qua đó còn hoài niệm về những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. Bởi thế, niềm hoài cổ của nhà thơ mang ý nghĩa nhân văn và tinh thần dân tộc đáng trân trọng.
Viết về một lớp người đã lẫn vào trong bút nghiên, trong lịch sử xa xôi của dân tộc, ngòi bút Vũ Đình Liên thể hiện rõ nét tài hoa, độc đáo: Thể hiện ở thể thơ ngũ ngôn, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả và biểu cảm. Giọng chủ âm của bài thơ là giọng buồn, trầm lắng, ngậm ngùi phù hợp với tâm tình và cảm xúc của nhà thơ. Kết cấu bài thơ giản dị, chặt chẽ, đó chính là kết cấu đầu cuối tương ứng và những cảnh tượng tương phản sâu sắc, luôn có sự đối chiếu và song hành nhau, làm nổi bật được tình cảnh thất thế, tàn tạ, đáng buồn của ông đồ. Ngôn ngữ giản dị nhưng hàm súc, hình ảnh gần gũi nhưng gợi cảm cũng là yếu tố làm nên thành công của bài thơ và tạo ấn tượng của người đọc về ông đồ.
“Ông đồ” chính là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ thương cảm của Vũ Đình Liên. Tác phẩm đã góp phần khẳng định vị trí xứng đáng của nhà thơ trong phong trào Thơ mới.
Hình ảnh ông đồ được xem là một hình ảnh thơ độc đáo, để lại nhiều ấn tượng cho người đọc, nó không chỉ gợi lòng thương cảm mà còn là lời nhắc nhở về lòng thương người và ý thức giữ gìn nét đẹp văn hóa của dân tộc.
 
Top Bottom