Văn [Lớp 11] Đề cương học kì 2

truong20001

Học sinh mới
Thành viên
10 Tháng mười hai 2017
10
1
6
24
Quảng Ninh
thcs Chu Văn An

baochau1112

Cựu Phụ trách nhóm Văn | CN CLB Khu vườn ngôn từ
Thành viên
6 Tháng bảy 2015
6,549
13,985
1,304
Quảng Nam
Vi vu tứ phương
Đề 1 : phân tích bức tranh phố huyện lúc chiều tàn
Đề 2 : p.tích giá trị nhân đạo trong Hai đứa trẻ
Đề 3: p.tích nv quản ngục
Đề 4: p.tích cảnh cho chữ
Em tham khảo cái dàn bài này nhé ^^
Đề 1:
I/ Mở bài:
- Thạch Lam ( 1910-1942) ,là người đôn hậu, điềm đạm, rất đỗi tinh tế .Ông là một cây bút tài hoa, có biệt tài về truyện ngắn - truyện nhưng không có chuyện.Tác phẩm của ông chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với biết bao cảm tưởng , cảm giác mơ hồ , mong manh …làm đọng lại trong lòng người đọc nhiều dư vi.
- Một trong những tác phẩm thể hiện sức hấp dẫn trong nghệ thuật viết văn ấy của Thạch Lam là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” . Ở đây, nhà văn đã thật thành công trong việc ghi lại bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người với bao cảm xúc vui buồn của con người vào lúc chiều tàn nơi phố huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám.
II/ Thân bài: Gồm 5 luận điểm
1. Cảnh không gian, tạo vật : đẹp, nên thơ, bình dị, gần gũi, quen thuộc nhưng đượm buồn.
- Được hiện lên với nhiều âm thanh, màu sắc, hình ảnh và đường nét ( Tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve; phương Tây đỏ rực, đám mây ánh hồng , dãy tre làng đen lại…)
- Khung cảnh ấy được nhà văn thể hiện qua những câu văn êm dịu, uyển chuyển, tinh tế.Mỗi câu như một nét vẽ đơn sơ , không cầu kỳ kiểu cách nhưng lại gợi được cái hồn của cảnh vật , cái thần thái của thiên nhiên …Mỗi câu văn như mở ra một cảnh : cảnh trước gọi cảnh sau rất độc đáo và ấn tượng…
à Một bức “họa đồng quê” quen thuộc, gần gũi , bình dị và gợi cảm , không kém phần thơ mộng, mang cốt cách của hồn quê Việt Nam.Qua đó thể hiện được tình cảm và gắn bó của nhà văn với một vùng quê nghèo.
2. Cảnh sống của người dân : tiêu điều, nghèo nàn, lam lũ, khổ cực,
- Cảnh chợ tàn : người về hết , tiếng ồn ào không còn, chỉ còn rác rưởi…
- Hình ảnh người dân xuất hiện với : mấy đứa trẻ con nhà nghèo đang tìm tòi, nhặt nhạnh rác, mẹ con chị Tý nghèo khổ ngày mò cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nước nhỏ trên cái chõng tre ; bà cụ Thi.., vợ chồng Bác Xẩm…
à Tất cả… đều thể hiện sự tàn lụi ( cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ); sự nghèo đói, khó khăn, tiêu điều đến thảm hại của người dân nơi phố huyện.
3 Tâm trạng của nhân vật liên : buồn, xúc động , cảm thương…
+ Liên thấy “lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.
+ Liên còn cảm nhận được “mùi riêng của đất, của quê hương này”.
+ Liên thấy “động lòng thương” bọn tẻ con nhà nghèo đi nhặt rác…và xót thương cho mẹ con chị Tí …
à Qua ngòi bút miêu tả của Thạch Lam, Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm , tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người.
=>Bằng sự quan sát ,miêu tả tỉ mỉ, tinh tế với nhiều biến đổi tinh vi, phong phú…nhà văn đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về cảnh vật nơi phố huyện lúc chiều tàn như thấm vào lòng người hay nỗi buồn của tâm hồn Liên lan tỏa nhuốm vào cảnh vật.
III/ kết bài:
- Đây là một đọan văn hay , bởi lẽ, đọan văn đã thể hiện được :
+ Tấm lòng của nhà văn gắn bó, ân tình ; cảm thông ,thương xót. …
+ Phong cách viết văn đặc sắc của tác giả trong sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực- trữ tình; câu văn mềm mại, giàu chất thơ
 

baochau1112

Cựu Phụ trách nhóm Văn | CN CLB Khu vườn ngôn từ
Thành viên
6 Tháng bảy 2015
6,549
13,985
1,304
Quảng Nam
Vi vu tứ phương
Đề 1 : phân tích bức tranh phố huyện lúc chiều tàn
Đề 2 : p.tích giá trị nhân đạo trong Hai đứa trẻ
Đề 3: p.tích nv quản ngục
Đề 4: p.tích cảnh cho chữ
Đề 2:
MB:
  • Thạch Lam là một trong những cây bút viết truyện ngắn tài hoa. Dẫu là viết về cuộc sống vất vả, cơ cực, bế tắc của người nông dân, người thị dân nghèo hay viết về những khía cạnh bình thường mà nên thơ của cuộc sống thì những trang văn của ông cũng chan chứa tình người.
  • Hai đứa trẻ là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, in ở tập Nắng trong vườn (1938).
  • Hai đứa trẻ của Thạch Lam có giá trị nhân đạo thật sâu sắc.
TB:
1. Giá trị nhân đạo thể hiện ở tình cảm xót thương của tác giả đối với những người sống ở phố huyện nghèo:
  • Ông xót xa trước cảnh nghèo đói của những con người nơi đây:
    • Những "đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ", "chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để lại".
    • Thương mẹ con chị Tí, ngày mò cua bắt tép; tối đến mới dọn hàng nước dưới gốc cây bàng. Cuộc sống của chị vất vả, mòn mỏi, quẩn quanh, leo lét như ngọn đèn của chị, ánh sáng chỉ đủ toả ra một vùng nhỏ mà thôi.
    • Thương bà cụ Thi xuất hiện với tiếng cười khanh khách, với dáng điệu đi lảo đảo, động tác uống rượu thì khác lạ "Cụ ngửa cổ ra đàng sau, uống một hơi cạn sạch".
    • Thương bác phở Siêu bán phở gánh. Thu nhập quá ít ỏi vì phở là món quà xa xỉ phẩm, hàng của bác thật ế ẩm.
    • Thương gia đình bác xẩm. Cuộc sống gia đình bác lay lắt như ngọn đèn trước gió. Gia tài của bác là chiếc đàn bầu và chiếc thau để xin tiền. Cuộc sống của bác bấp bênh. Cái đói, cái chết luôn kề cận.
    • Thương chị em Liên. Cuộc sống của chị em Liên cũng chẳng khá hơn cuộc sống của mọi người. Cửa hàng tạp hoá của chị em Liên "nhỏ xíu". Hàng hoá thì lèo tèo mà khách hàng là những người nghèo khó.
  • Ông cảm thương cho cuộc sống quẩn quanh, tẻ nhạt, tù túng của những con người nơi phố huyện nghèo.
2. Giá trị nhân đạo thể hiện ở sự phát hiện của Thạch Lam về những phẩm chất tốt đẹp của những người lao động nghèo nơi phố huyện.
  • Họ là những người cần cù, chịu thương, chịu khó: Mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nước dẫu chẳng bán được là bao. Hai chị em Liên thay mẹ trông coi gian hàng tạp hoá. Bác phở Siêu chịu khó bán phở gánh,...
  • Họ là những người giàu lòng thương yêu. Liên thương những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ người ta bỏ lại lúc chợ tàn.
3. Giá trị nhân đạo thể hiện ở sự trân trọng của nhà văn trước những ước mơ của người dân nghèo về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
  • Ông trân trọng những hoài niệm, mơ ước của chị em Liên: Hai chị em mong ước được thấy ánh sáng của đoàn tàu, nhớ về quá khứ tươi đẹp khi gia đình còn sống ở Hà Nội. Đoàn tàu như đem đến cho hai chị em Liên "một chút thế giới khác".
  • Ông muốn thức tỉnh những con người ở phố huyện nghèo, hướng họ tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
KB:
  • Giá trị nhân đạo được thể hiện thật sâu sắc trong tác phẩm: xót thương những con người nghèo khổ, phát hiện và miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của người lao động, trân trọng những ước mơ về cuộc sống tốt đẹp hơn của họ.
  • Cùng với những truyện ngắn khác của ông, Hai đứa trẻ đã góp phần thể hiện sự tài hoa, xuất sắc của Thạch Lam trong viết truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám1945
 

baochau1112

Cựu Phụ trách nhóm Văn | CN CLB Khu vườn ngôn từ
Thành viên
6 Tháng bảy 2015
6,549
13,985
1,304
Quảng Nam
Vi vu tứ phương
Đề 1 : phân tích bức tranh phố huyện lúc chiều tàn
Đề 2 : p.tích giá trị nhân đạo trong Hai đứa trẻ
Đề 3: p.tích nv quản ngục
Đề 4: p.tích cảnh cho chữ
Đề 3:

1. Mở bài: Đọc "Chữ người tử tù" của Nguễn Tuân, ta kham phục vẻ đẹp của Huấn Cao-một con người tài hoa, khí phách, có tấm lòng bao dung, độ lượng và ta lại càng không thể quên hình ảnh viên quản ngục-con người đại diện cho bạo lực tăm tối nhưng lại khát khao ánh sáng chữ nghĩa, mang trong mình một thiên lương sáng ngời.

2. Thân bài:
* LĐ1: quản ngục là 1 người có sở nguyện cao quý
- Trước khi làm quản ngục, ông cũng là người đèn sách "biết đọc vỡ nghĩ sách thánh hiền"
- Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho "thiên lương" tốt đẹp
- Ông say mê cái đẹp "các sở nguyện của viên quản ngục...do tay ông Huán Cao viết"

*LĐ2: Là người biết quý trọng người tài
- Ông thiét đãi Huấn Cao chu đáo, "suốt nửa tháng...trước giờ ăn bữa cơm tù"
- Ngục quan tự hạ mình xuống trc người tử tù, nhẫn nhục chấp nhận sự "khinh bạc đén điều" của ông Huấn
=> Về bản chát, đó là sự ngưỡng mộ trước cái đẹp một cách hoàn toàn tự nguyện
- Ông khúm núm, sợ hãi và xúc động trc những lời khuyên dạy của tù nhân "vien quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ"
=> con người cứng cỏi, dám vượt quyền hạn, ko sợ chết, có khí phách cao đẹp

*LĐ3: Quản ngục còn là một người có tấm lòng lương thiện, biết hướng thiện
- Câu nói nghẹn ngào trong nước mắt của viên quản ngục đã nêu bạt lên sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, của thiên lương con người "kẻ mê muội này xin bái lĩnh"
=> Quản ngục mang vẻ đẹp của con người biét phân biệt tốt xấu, có tấm lòng "biệt nhỡn liên tài". Ông chính là "thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc lật đều hỗn loạn, xô bồ"

3. Kết bài: Nhân vật quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyẽn Tuân, để vừa tô đậm vẻ lí tưởng của nhân vật Huấn Cao lại vừa thẻ hiẹn vẻ đẹp của một con người đang đc dẫn dắt bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhan vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam, cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách
 

baochau1112

Cựu Phụ trách nhóm Văn | CN CLB Khu vườn ngôn từ
Thành viên
6 Tháng bảy 2015
6,549
13,985
1,304
Quảng Nam
Vi vu tứ phương
Đề 1 : phân tích bức tranh phố huyện lúc chiều tàn
Đề 2 : p.tích giá trị nhân đạo trong Hai đứa trẻ
Đề 3: p.tích nv quản ngục
Đề 4: p.tích cảnh cho chữ
Đề 4:
I. Mở bài.

- Có thể nói chủ đề của truyện ngắn Chữ người tử tù và vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao đã dược bộc lộ sáng ngời trong cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục. Đây không đơn thuần là cảnh cho chữ, mà “đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn, của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ”.

- Phân tích cảnh Huấn Cao cho chữ để chứng minh.

II. Thân bài

A. SỰ CHIẾN THẮNG CỦA ÁNH SÁNG ĐỐI VỚI BÓNG TỐI

1. Chính Nguyễn Tuân đã viết trong truyện, cảnh cho chữ là một cảnh tượng xưa này chưa từng có. Vì sao vậy? Bình thường sẽ không có cảnh cho chữ đẹp đẽ và trang nghiêm trong chốn tù ngục tăm tối và nhơ bẩn này. Nhưng ở đây lại có, vì ở đây có sự chiến thắng của thiện lương con người. Nhà văn. với nghệ thuật đặc tả tài tình, với thủ pháp đối lập sắc sảo, đã dựng lên những cảnh tượng đối lập để nổi bật ý nghĩa sâu xa và thâm thúy của sự chiến thắng đó.

2. Cảnh cho chữ diễn ra vào lúc đêm khuya trong nhà ngục. Nhà ngục vốn đã tối tăm lại vào lúc đêm khuya khoắt, càng dày đặc bóng tối. Nhưng trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cai dầu người dang chăm chú trôn một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ (.../. Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phong giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã miêu tả đến hai lần cái ánh sáng đỏ rực, cái lửa đóm cháy rừng rực đã xua tan và đẩy lùi cái bóng tối dày đặc trong phòng giam. Nhấn mạnh đến cái ánh sáng của bó đuốc tấm dầu ấy là dụng ý nghệ thuật của nhà văn.

3. Ở đây, không chỉ là sự đối lập của ánh sáng và bóng tối theo ý nghĩa sâu sắc màu vật lí, mà sâu xa hơn và khái quát hơn, đây là sự đối lập mang ý nghĩa nhân sinh cua con người: ánh sáng cua lương tri, thiên lương và bóng tối của tàn bạo, độc ác. Ánh sáng của thiên lương đã xua tan và đẩy lùi bóng tối tàn bạo chính tại nơi ngục này. Ánh sáng ấy đã khai tâm, đã cam hóa con người lầm đường trở về cuộc sống lương thiện.

B. SỰ CHIẾN THẮNG CỦA CÁI ĐẸP, CÁI CAO THƯỢNG ĐỐI VỚI SỰ PHÀM TỤC, SỰ NHƠ BẨN

1. Cái phàm tục, sự nhơ bẩn ở đây được biểu thị rất rõ trong cảnh một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Còn cái đẹp, cái cao thượng lại được nói đến sâu sắc trong hai chi tiết mang ý nghĩa tượng trưng: màu trắng tinh của phiến lụa ông và mùi thơm từ chậu mực bốc lên - đều dường như không thể có trong chốn tù ngục. Màu trắng của phiến lụa tượng trưng cho sự tinh khiết, còn mùi thơm của thoi mực là hương thơm của tình người, tình đời.

2. Sự đối lập nói trên đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn. Tâm hồn Huấn Cao khoáng đạt đến chừng nào khi ông nói về mùi thơm của mực: “Thoi mực, thấy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?”... Thế là không có nhà ngục nào tồn tại nữa, chẳng còn bóng tối, cũng chẳng còn mạng nhện, phân chuột, phân gián nữa. Chỉ còn lại mùi thơm tho của mực, màu tinh khiết của lụa - nó là sự thơm tho và tinh khiết của thiên lương con người.

C. SỰ CHIẾN THẮNG CỦA TINH THẦN BẤT KHUẤT TRƯỚC THÁI ĐỘ CAM CHỊU NÔ LỆ

1. Đây là sự phối hợp giữa con người trong cảnh cho chữ và ở đây, ta thấy có sự thay bậc đổi ngôi. Người tù lại như người làm chủ (đường hoàng, hiên ngang, ung dung, thanh thản), còn bọn quản lí nhà ngục lại khúm núm, sợ hãi và xúc động trước những lời khuyên dạy của tù nhân (viên quan ngục khúm núm cất những đồng tiền kèm đánh dấu ô chữ, thầy thơ lại run run bưng chậu mực).

2. Sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ đã được khắc họa đậm nét trong cảnh cho chữ và những người trong cảnh ấy. Không còn là cảnh cho chữ bình thường mà là một cảnh thọ giáo thiêng liêng giữa người cho chữ và người nhận chữ. Lời khuyên dạy đĩnh đạc của Huấn Cao có khác gì một chúc thư về lẽ sống trước khi ông đi vào cõi bất tư. Lời khuvên đầy tình người ấy có sức mạnh cảm hóa một tâm hồn bấy lâu vẫn cam chịu nô lệ, một con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện. Câu nói nghẹn ngào trong nước mắt của viên quan ngục đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, của thiên lương con người: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

III. Kết luận

- Tóm tắt lại nhưng sự chiến thắng trong cảnh cho chữ đã phân tích trên.

- Ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo sâu sắc của sự chiến thắng đó.
 
Top Bottom