lịch sử trái đất ( khoảng 4,6 tỷ trước năm đến nay )

T

thienlangbachoai

Thế hạ/tiền Devon
Tầng Lochkov

Tầng Lochkov là một trong ba tầng động vật thuộc thế Tiền Devon. Nó kéo dài từ khoảng 416 ± 2,8 triệu năm trước (Ma) tới 411,2 ± 2,8 Ma. Nó là tầng đánh dấu sự xuất hiện của kỷ Devon, sau khi kết thúc thế Přídolí của kỷ Silur và tiếp theo nó là tầng Praha. Nó được đặt tên theo quận Lochkov ở tây nam Praha (Cộng hòa Séc). Tầng này bắt đầu khi có sự xuất hiện lần đầu tiên của động vật bút thạch (lớp Graptolithina) với danh pháp Monograptus uniformis và kết thúc khi có sự xuất hiện lần đầu tiên của động vật răng nón với danh pháp Eognathodus sulcatus
Tại Bắc Mỹ, tầng Lochkov được thay thế bằng Gedinnian hay Helderbergian.
Tầng Praha


Tầng Praha là một trong ba tầng động vật ở đầu thế Tiền Devon. Nó kéo dài từ khoảng 411,2 ± 2,8 triệu năm trước (Ma) tới 407 ± 2,8 Ma. Tầng động vật này diễn ra sau tầng Lochkov và sau nó là tầng Ems. Tên gọi của tầng này đặt theo Praha, thủ đô của Cộng hòa Séc. GSSP của tầng này nằm tại tây nam Praha, trong khu vực mỏ đá Valká Chuchle (Cộng hòa Séc). Mốc bắt đầu của tầng này là sự xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón có danh pháp Eognathodus sulcatus còn mốc kết thúc của nó là sự xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón có danh pháp Polygnathus kitabicus (= Polygnathus dehiscens).
Tại Bắc Mỹ tầng Praha được thay thế bằng Siegenian hay Deerparkian.
Tầng Ems

Tầng Ems là một trong ba tầng động vật ở thế Tiền Devon. Nó kéo dài từ khoảng 407 ± 2,8 triệu năm trước (Ma) tới 397,5 ± 2,7 Ma. Tầng trước nó là tầng Praha và ngay sau nó là tầng Eifel. Điểm đánh dấu sự bắt đầu của tầng này là sự xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón có danh pháp Polygnathus kitabicus (= Polygnathus dehiscens). Điểm kết thúc của nó là sự xuất hiện lần đầu tiên của phân loài động vật răng nón có danh pháp Polygnathus costatus partitus. Thiết diện tham chiếu chính thức (GSSP) của ICS cho tầng này nằm tại hẻm núi Zinzil'ba, đông nam Samarkand, Uzbekistan. Tên gọi của tầng này được đặt theo Bad Ems, một thành phố thuộc Rheinland-Pfalz của Đức hoặc sông Ems ở tây bắc nước này. Tên gọi cho tầng này được H. D. de Dorlodot đưa ra năm 1900.
Tại Bắc Mỹ tầng Ems được thay thế bằng Sawkill hay Sawkillian.
 
T

thienlangbachoai

Thế Trung Devon

Tầng Eifel

Tầng Eifel là một trong hai tầng động vật thuộc thế Trung Devon. Nó kéo dài từ khoảng 397,5 ± 2,7 triệu năm trước (Ma) tới 391,8 ± 2,7 Ma. Tầng trước nó là tầng Ems và tầng sau nó là tầng Givet.
Tại Bắc Mỹ, thay thế cho tầng Eifel là Southwood, Cazenovia (một phần)Cazenovian (một phần).
Tầng này được đặt tên theo dãy núi đồi thấp ở miền tây nước Đức là Eifel, nơi mà GSSP chính thức của ICS được khai quật tại Wetteldorf Richtschnitt. Điểm bắt đầu của tầng này là sự xuất hiện lần đầu tiên của động vật răng nón với danh pháp Polygnathus costatus partitus còn điểm kết thúc của nó là ngay phía dưới sự xuất hiện lần đầu tiên của loài lăng cúc thạch (bộ Goniatitida) với danh pháp Maenioceras stufe hoặc sự xuất hiện lần đầu tiên của động vật răng nón với danh pháp Polygnathus hemiansatus. Tên gọi tầng Eifel do Ernst Beyrich đưa ra năm 1837.
Tầng Givet

Tầng Givet là một trong hai tầng động vật của thế Trung Devon. Nó kéo dài từ khoảng 391,8 ± 2,7 triệu năm trước (Ma) tới 385,3 ± 2,6 Ma.
Tại Bắc Mỹ, thay thế cho tầng Givet là Erian, Senecan, Tioughniogan, Tioughnioga, Cazenovia (một phần), Cazenovian (một phần), Taghanic, Taghanican, Genesee, Geneseean.
Tầng đứng trước nó là tầng Eifel còn tầng diễn ra sau nó là tầng Frasne.
Tầng này được Jean Baptiste Julien d'Omalius d'Halloy đặt tên năm 1839 theo thành phố Givet thuộc khu vực Ardennes của Pháp, gần biên giới với Bỉ.
Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này là sự xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón có danh pháp Polygnathus hemiansatus hoặc ngay phía dưới sự xuất hiện lần đầu tiên của loài lăng cúc thạch có danh pháp Maenioceras stufe. Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này là sự xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón có danh pháp Ancyrodella rotundiloba.
GSSP chính thức của ICS nằm tại Jebel Mech Irdane trong ốc đảo Tafilalt, thuộc dãy núi Anti-Atlas, Maroc.
Thế Thượng Hậu Devon
Tầng Frasne

Tầng Frasne là một trong hai tầng động vật của thế Hậu Devon. Nó kéo dài từ khoảng 385,3 ± 2,6 triệu năm trước (Ma) tới 374,5 ± 2,6 Ma. Tên gọi cho tầng này được Jean Baptiste Julien d'Omalius d'Halloy đặt năm 1862 theo thị trấn Frasne của Pháp.
Tại Bắc Mỹ, thay thế cho tầng Frasne là Senecan, Sonyea, Sonyean, West Falls.
Tầng đứng trước nó là tầng Givet còn tầng diễn ra sau nó là tầng Famenne.
Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này là sự xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón có danh pháp Ancyrodella rotundiloba. Các mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này là sự xuất hiện lần đầu tiên của loài lăng cúc thạch có danh pháp Phoenixites frechi hay sự phổ biến rộng khắp của động vật răng nón với danh pháp Palmatolepis triangularis hoặc sự tuyệt chủng thuộc Thượng Kellwasser của tất cả các loài trong các chi Ancyrodella, Ozarkodina và phần lớn các loài của các chi Palmatolepis, PolygnathusAncyrognathus.
GSSP chính thức của ICS nằm tại Col du Puech de la Suque, Montagne Noire, Pháp.
Phần lớn kiến tạo đá ngầm được thực hiện trong thời kỳ thuộc tầng Frasne, cụ thể là tại khu vực ngày nay thuộc miền tây CanadaAustralia. Trên đất liền, những cánh rừng đầu tiên đã bắt đầu xuất hiện. Tại Bắc Mỹ, các kiến tạo sơn AntlerTaconic đạt tới điểm đỉnh, cùng thời với pha Bretonic của kiến tạo sơn Variscia ở châu Âu.
hết chỗ nên sẽ đề cập đến Tầng Famenne
trong bài sau
 
T

thienlangbachoai

Tầng Famenne

Tầng Famenne là một trong hai tầng động vật thuộc thế Hậu Devon. Nó kéo dài từ khoảng 374,5 ± 2,6 triệu năm trước (Ma) tới 359,2 ± 2,5 Ma. Tầng trước nó là tầng Frasne và tầng tiếp theo nó là tầng Tournai của kỷ Than Đá. Tên gọi của tầng này do André Dumont đặt năm 1855 theo khu vực Famenne ở miền đông Bỉ. GSSP chính thức của ICS cho tầng này nằm tại mỏ đá Coumiac thuộc dãy núi Montagne Noire ở tây nam Pháp.
Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này là sự phổ biến của loài động vật răng nón có danh pháp Palmatolepis triangularis hay sự kiện tuyệt chủng Thượng Kellwasser của tất cả các loài trong các chi Ancyrodella, Ozarkodina cũng như sự tuyệt chủng phần lớn các loài trong các chi Palmatolepis, Polygnathus, Ancyrognathus hoặc trùng khớp với sự xuất hiện lần đầu tiên của loài lăng cúc thạch có danh pháp Phoenixites frechi.
Mốc kết thúc của tầng này là sự xuất hiện lần đầu tiên của động vật răng nón với danh pháp Siphonodella sulcata.
Tại Bắc Mỹ, thay thế cho tầng Famenne là Chautauquan, Canadaway, Conneaut, Conneautan, ConewangoConewangan.
Trong thời gian diễn ra của tầng này những động vật bốn chân đầu tiên đã xuất hiện. Trong lòng biển, nhóm chính mới lạ của các động vật chân đầu thuộc phân lớp Cúc (Ammonoidea), được gọi chung theo tên khoa học là Clymeniina đã xuất hiện, trải qua sự đa dạng lớn và lan tỏa khắp thế giới, và sau đó đột ngột rơi vào tình trạng tuyệt chủng.
Sự bắt đầu của tầng Famenne được đánh dấu bằng sự kiện tuyệt chủng lớn, và kết thúc với sự kiện tuyệt chủng nhỏ hơn nhưng vẫn là rất mãnh liệt.
 
T

thienlangbachoai

Kỷ Than Đá hay kỷ Thạch Thán (Carboniferous) là một đơn vị phân chia chính trong niên đại địa chất, kéo dài từ khi kết thúc kỷ Devon, vào khoảng 359,2 ± 2,5 triệu năm trước (Ma) tới khi bắt đầy kỷ Permi vào khoảng 299,0 ± 0,8 triệu năm trước (theo ICS, 2004). Giống như phần lớn các thời kỳ địa chất cổ khác, các tầng đá xác định điểm bắt đầu và kết thúc của kỷ này được xác định khá tốt, nhưng niên đại chính xác thì vẫn không chắc chắn trong phạm vi 5–10 triệu năm. Kỷ Than Đá được đặt tên theo các tầng than đá rộng lớn có niên đại vào thời kỳ này được tìm thấy tại khu vực miền tây châu Âu. Một phần ba thời kỳ đầu tiên của kỷ này được gọi là thế Mississippi, còn khoảng thời gian còn lại được gọi là thế Pennsylvania. Các loài cây thuộc ngành Thông đã xuất hiện trong thời kỳ quan trọng và biết rõ này.
Phân chia

Kỷ Than Đá thông thường được chia thành các thế Pennsylvania (muộn) và Mississippi (sớm). Các tầng động vật từ trẻ nhất tới già nhất, cùng với một số đơn vị phân chia nhỏ của chúng, là:

  • Pennsylvania muộn: tầng Gzhel (muộn nhất)
    • Noginsk/Virgilia
  • Pennsylvania muộn: tầng Kasimov
    • Klazminski
    • Dorogomilovks/Virgilia
    • Chamovnichesk/Cantabria/Missouri
    • Krevyakinsk/Cantabria/Missouri
  • Pennsylvania giữa: tầng Moskva
    • Myachkovsk/Bolsov/Desmoinesia
    • Podolsk/Desmoinesia
    • Kashirsk/Atokan
    • Vereisk/Bolsov/Atokan
  • Pennsylvania sớm: tầng Bashkiria/Morrowan
    • Melekessk/Duckmantia
    • Cheremshansk/Langsettia
    • Yeadonia
    • Marsdenia
    • Kinderscoutia
  • Mississippi muộn: tầng Serpukhov
    • Alportia
    • Chokieria/Chesteria/Elviria
    • Arnsbergia/Elviria
    • Pendleia
  • Mississippi giữa: tầng Visé
    • Brigantia/St. Genevieve/Gasperia/Chesteria
    • Asbia/Meramecia
    • Holkeria/Salem
    • Arundia/Warsaw/Meramecia
    • Chadia/Keokuk/Osagea/Osage
  • Mississippi sớm: tầng Tournai (cổ nhất)
    • Ivoria/Osagea/Osage
    • Hastaria/Kinderhookia/Chautauquan/Chouteau
Cổ địa lý học

Sự sụt giảm tổng thể của mực nước biển vào cuối kỷ Devon đã bị đảo ngược lại vào đầu kỷ Than Đá; điều này tạo ra một loạt các biển rộng nằm trên thềm lục địa và các trầm tích cacbonat của thế Mississippi. Cùng với đó là sự sụt giảm nhiệt độ ở khu vực cực nam Trái Đất; các vùng đất phía nam của đại lục Gondwana đã bị đóng băng trong suốt kỷ này, mặc dù người ta vẫn chưa chắc chắn rằng các lớp băng là lưu lại từ thời kỳ kỷ Devon hay không phải vậy. Các điều kiện như vậy dường như có rất ít ảnh hưởng tới các khu vực nằm sâu trong vùng nhiệt đới, tại đó các đầm lầy than đá tốt tươi đã phát triển thịnh vượng trong phạm vi 30 độ của các sông băng ở xa nhất về phía bắc.


Các trầm tích châu thổ thuộc kỷ Than Đá có thể nhìn thấy trong hình chụp tại phía bắc Williamsport, Pennsylvania.
Sự sụt giảm mực nước biển vào giữa kỷ Than Đá đã làm lắng đọng các kết quả của sự tuyệt chủng chính trong đại dương, trong đó ảnh hưởng tới các loài huệ biển (lớp Crinoidea) và cúc đá (phân lớp Ammonoidea) đặc biệt trầm trọng[4]. Sự sụt giảm mực nước biển này cùng với sự phân vỉa không chỉnh hợp đi kèm tại Bắc Mỹ đã chia tách thế Mississippi ra khỏi thế Pennsylvania[5].
Kỷ Than Đá là thời kỳ của các hoạt động kiến tạo núi tích cực, do siêu lục địa Pangaea đã hình thành. Các lục địa phía nam vẫn gắn kết cùng nhau trong siêu lục địa Gondwana, nó va chạm với Bắc Mỹ-châu Âu (Laurussia) dọc theo đường phân chia ngày nay thuộc về miền đông Bắc Mỹ. Sự va chạm lục địa này tạo ra kết quả là kiến tạo sơn Hercynian tại châu Âu và kiến tạo sơn Allegheny tại Bắc Mỹ; nó cũng kéo dài dãy núi Appalaches mới nổi lên về phía tây nam thành dãy núi Ouachita[6]. Cùng trong khoảng thời gian này, phần lớn của phía đông mảng kiến tạo Á-Âu ngày nay cũng gắn nó với châu Âu dọc theo đường phân chia dãy núi Ural. Phần lớn của siêu lục địa Pangaea trong đại Trung Sinh vào thời gian này đã được gắn kết với nhau, mặc dù các lục địa Hoa Bắc (nó có lẽ đã va chạm vào cuối kỷ Than Đá), và Hoa Nam vẫn còn tách rời khỏi Laurasia. Pangaea vào cuối kỷ Than Đá có hình dạng tương tự chữ "O".
Khi đó có hai đại dương chính – đó là Panthalassa bao quanh Pangaea và Paleo-Tethys nằm bên trong chữ "O" của siêu lục địa Pangaea. Các đại dương nhỏ khác đang co lại và cuối cùng bị khép kín – bao gồm: đại dương Rheic (bị khép lại do sự kết hợp của NamBắc Mỹ), đại dương nhỏ và nông là đại dương Ural (bị khép lại do sự va chạm của các lục địa Baltica và Siberi, tạo thành dãy núi Ural) cùng đại dương Proto-Tethys (bị khép lại do sự va chạm của các lục địa Hoa Bắc và Siberi/Kazakhstania.
 
T

thienlangbachoai

Đá và than

Các lớp đá kỷ Than Đá tại châu Âu và miền đông Bắc Mỹ chủ yếu bao gồm các chuỗi lặp lại của các lớp đá vôi, sa thạch, đá phiến sétthan đá, được biết đến như là "cyclothems" tại Hoa Kỳ và "coal measures" tại Anh[7]. Tại Bắc Mỹ, các tầng đá thời kỳ đầu kỷ Than Đá chủ yếu là đá vôi nguồn gốc đại dương, giải thích cho sự phân chia kỷ Than Đá thành hai thời kỳ trong các hệ thống Bắc Mỹ. Các lớp than đá kỷ Than Đá cung cấp phần lớn nguồn nhiên liệu cho việc sản xuất năng lượng trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp và vẫn còn tầm quan trọng kinh tế lớn trong thời kỳ ngày nay.
Các trầm tích than đá lớn trong kỷ Than Đá chủ yếu là do hai yếu tố. Yếu tố đầu tiên trong số này là sự xuất hiện của các cây thân gỗ có vỏ (và cụ thể là sự tiến hóa của các sợi lignin trong vỏ). Yếu tố thứ hai là các mực nước biển thấp hơn đã diễn ra trong kỷ Than Đá khi so sánh với các mức tương tự của kỷ Devon. Điều này đã cho phép sự phát triển của các đầm lầyrừng rộng lớn vùng đất thấp tại Bắc Mỹ và châu Âu. Một số học giả đưa ra giả thuyết rằng một lượng lớn gỗ đã bị chôn vùi trong thời kỳ này là do các động vật và các vi khuẩn phân hủy vẫn chưa kịp tiến hóa để có thể tiêu hóa được lignin một cách có hiệu quả. Sự chôn vùi rộng lớn của cacbon sản xuất sinh học đã dẫn tới sự tạo thành một lượng ôxy dư thừa trong khí quyển; người ta ước tính khi đó nồng độ ôxy có thể lên cao tới 35% so với chỉ khoảng 21% ngày nay [1]. Mức ôxy cao này có lẽ đã làm gia tăng các hoạt động cháy rừng cũng như tạo ra các loài côn trùngđộng vật lưỡng cư khổng lồ.
Tại miền đông Bắc Mỹ, các tầng trầm tích đại dương phổ biến hơn trong các phần cổ hơn của thời kỳ này khi so sánh với các phần trẻ hơn gần như là không có mặt vào cuối kỷ Than Đá. Sự sống đại dương khi đó đặc biệt giàu các loài huệ biển và các loài khác trong cùng ngành Da gai (Echinodermata). Các loài thuộc ngành Tay cuộn (Brachiopoda) là rất phổ biến trong khi các loài trùng ba thùy (lớp Trilobita) trở thành ít phổ biến. Trên đất liền, các quần thể lớn và đa dạng của thực vật đã tồn tại. Các loài động vật có xương sống trên đất liền bao gồm cả các loài động vật lưỡng cư lớn.
Đại dương

Trong lòng đại dương phần lớn các nhóm quan trọng nhất là trùng lỗ (ngành Foraminifera), san hô (lớp Anthozoa), động vật hình rêu (ngành Bryozoa), tay cuộn, cúc đá, da gai (ngành Echinodermata, đặc biệt là huệ biển) và cá mập và các họ hàng của nó (lớp Chondrichthyes).
Lần đầu tiên các loài trùng lỗ chiếm phần đáng kể trong quần động vật đại dương. Các loài trong chi Fusulina và các họ hàng của nó rất phổ biến tại khu vực ngày nay là Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Bắc Mỹ; các chi quan trọng khác còn có Valvulina, Endothyra, ArchaediscusSaccammina (chi cuối cùng này là phổ biến tại Anh và Bỉ). Một số chi có từ kỷ Than Đá hiện nay vẫn còn tồn tại.
Các lớp vỏ cực nhỏ của các trùng tia (ngành Radiolaria) được tìm thấy trong các lớp đá phiến silic với niên đại thuộc thời kỳ này tại Culm thuộc DevonshireCornwall cũng như tại Nga, Đức và một số nơi khác.
.
 
T

thienlangbachoai

Các loài thân lỗ (ngành Porifera) được biết đến từ các gai nhỏ và dây neo, chúng bao gồm các dạng khác nhau như bọt biển đá vôi (Cotyliscus) và Girtycoelia, cùng quần thể bọt biển kính bất thường (Titusvillia).
Cả san hô tạo đá ngầm lẫn san hô đơn độc đều đa dạng hóa và thịnh vượng; chúng bao gồm các dạng san hô bốn tia (bộ Rugosa, chẳng hạn các chi Canina, Corwenia, Neozaphrentis), san hô lạ và san hô vách đáy (bộ Tabulata, chẳng hạn các chi Chaetetes, Chladochonus, Michelinia).
Các loài Conularida chủ yếu thuộc chi Conularia
Động vật hình rêu (Bryozoa) phổ biến tại một số khu vực; Fenestellids bao gồm Fenestella, Polypora và Archimedes khác thường, được đặt tên như vậy là do hình dạng của chúng giống như bơm vít xoắn Archimedes.
Động vật tay cuộn (ngành Brachiopoda) cũng phổ biến; chúng bao gồm các loài trong bộ Productida, một số trong chúng (chẳng hạn chi Gigantoproductus) đạt tới kích thước rất lớn (đối với động vật tay cuộn) và có lớp vỏ rất dày, trong khi các loài khác như chi Chonetes lại rất ít biến đổi. Các bộ Athyridida, Spiriferida, Rhynchonellida và Terebratulida cũng rất phổ biến. Các dạng không có đốt bao gồm Discina và Crania. Một vài loài và chi có sự phân bổ rất rộng với các biến thái rất nhỏ.
Các loài giun đốt (ngành Annelida) như Spirorbis và Serpulites là các hóa thạch phổ biến trong một số tầng.
Trong số các động vật thân mềm (ngành Mollusca), các loài thuộc lớp Vỏ hai mảnh (Bivalvia) vẫn tiếp tục gia tăng về số lượng và tầm quan trọng. Các chi điển hình bao gồm Aviculopecten, Posidonomya, Nucula, Carbonicola, Edmondia và Modiola. Các loài trong chi Conocardium là phổ biến nhất của lớp Rostroconchia. Lớp Chân bụng (Gastropoda) cũng đông đảo, bao gồm các chi Murchisonia, Euomphalus, Naticopsis. Các đại diện của phân lớp Nautiloidea của lớp Chân đầu (Cephalopoda) được đại diện bởi các loài cuộn chặt trong bộ Nautilida, với các dạng vỏ thẳng và vỏ cong ngày càng hiếm. Các loài thuộc bộ Goniatitida của phân lớp Ammonoidea là phổ biến.
Trùng ba thùy đã hiếm thấy, chỉ còn lại các loài thuộc bộ Proetida. Các chi của phân lớp Tôm hạt (Ostracoda) như Cythere, Kirkbya và Beyrichia là phổ biến.
Trong số các động vật da gai, nhóm huệ biển là phổ biến nhất. Các bụi dầy dưới biển của các loài huệ biển thân dài dường như đã phát triển thịnh vượng trong các biển nông, và các dấu tích còn lại của chúng được hợp nhất lại thành các tầng đá dày. Các chi đáng chú ý là Cyathocrinus, Woodocrinus và Actinocrinus. Các động vật da gai như Archaeocidaris và Palaeechinus cũng có mặt. Lớp Chồi biển (Blastoidea), bao gồm Pentreinitidae và Codasteridae về bề ngoài rất giống huệ biển trong việc có thân dài gắn với đáy biển, đạt được sự phát triển tối đa trong thời kỳ này
 
T

thienlangbachoai

Nước ngọt và lợ

Các động vật không xương sống nước ngọt kỷ Than Đá bao gồm các loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ sống trong các vùng nước ngọt và lợ, chẳng hạn Anthracomya, NaiadilesCarbonicola. Các loài động vật giáp xác như Bairdia, Carbonia, Estheria, Acanthocaris, DithyrocarisAnthrapalaemon cũng đa dạng hóa.
Lớp Eurypterida cũng đa dạng hóa và được đại diện bằng các chi như Eurypterus, Glyptoscorpius, Anthraconectes, Megarachne (nguyên thủy được diễn giải sai thành nhện khổng lồ) và Hibbertopterus đặc biệt lớn. Nhiều loài trong số này có cuộc sống lưỡng cư.
Môi trường nước mặn và nước lợ thường xuyên biến đổi qua lại đã tạo ra các nhóm có khả năng sống trong cả môi trường nước mặn lẫn môi trường nước lợ/ngọt như Lingula, OrbiculoideaProductus và chúng được tìm thấy trong các tầng hóa thạch mỏng, được biết đến như là các dải đại dương.
Đất liền

Các dấu tích hóa thạch của các loài côn trùng (lớp Insecta), động vật nghìn chân (phân ngành Myriapoda) và nhện (lớp Arachnida) hít thở không khí được biết đến vào cuối kỷ Than Đá, nhưng không thấy có từ đầu kỷ này. Tuy nhiên, sự đa dạng của chúng khi chúng xuất hiện cho thấy các loài động vật chân khớp này đã rất phát triển và đông đảo về số lượng. Kích thước lớn của chúng có thể là do sự ẩm ướt của môi trường (chủ yếu là các cánh rừng dương xỉ đầm lầy) và một thực tế là khi đó nồng độ ôxy trong khí quyển đã ở mức 40% cao hơn so với ngày nay, đòi hỏi ít hơn các nỗ lực để thở và cho phép các động vật chân khớp phát triển với kích thước to lớn hơn. Trong số các nhóm côn trùng có các loài thuộc Syntonopterodea là các họ hàng của phù du (bộ Ephemeroptera) ngày nay, hay côn trùng có mỏ (siêu bộ Palaeodictyopteroidea) to lớn rất phổ biến và hút nhựa cây, các loài côn trùng ăn thịt to lớn thuộc bộ Protodonata (giống như chuồn chuồn ngày nay), các loài côn trùng ăn cỏ đa dạng thuộc bộ Côn trùng tiền có cánh ("Protorthoptera"), và hàng loạt côn trùng dạng gián, mối, bọ ngựa (siêu bộ Dictyoptera) cơ sở (tổ tiên của gián - bộ Blattaria). Nhiều mẫu vật côn trùng thu được từ các vùng mỏ than ở SaarbruckCommentry, cũng như trong các thân rỗng của các cây hóa thạch tại Nova Scotia. Tại một vài vùng mỏ than tại Anh người ta đã thu được các mẫu vật còn tốt: Một loài trong chi Archaeoptitus, thu được từ các mỏ than vùng Derbyshire có sải cánh dài trên 35 cm; một vài mẫu vật (chi Brodia) vẫn còn giữ được dấu vết của màu cánh lấp lánh. Tại Nova Scotian người ta thu được trong các thân cây các loài ốc sên sống trên đất liền (các chi Archaeozonites, Dendropupa).


Nhiều loại cá sinh sống trong các vùng biển kỷ Than Đá; chủ yếu là cá mập, cá đuối và các họ hàng của chúng (phân lớp Elasmobranchii). Chúng bao gồm một số loài, như chi Psammodus, với các răng mọc dày dặc thích hợp cho việc nghiền nát các lớp vỏ của động vật tay cuộn, động vật giáp xác và các sinh vật biển khác. Các loài cá mập khác có răng sắc nhọn, như chi Symmoriida. Một số như nhóm petalodont, có răng kỳ dị hình xycloit. Phần lớn các loài cá mập sống ngoài biển, nhưng nhóm Xenacanthida đã xâm lấn các vùng nước ngọt tại các khu đầm lầy than. Trong số cá xương, bộ Palaeonisciformes được tìm thấy trong các vùng nước ven bờ biển cũng dường như đã di cư vào sông. Các loài cá vây thùy cũng đã xuất hiện và một nhóm, bộ Rhizodontida, đạt được kích thước rất lớn.
Phần lớn các loài cá biển trong kỷ Than Đá được miêu tả chủ yếu là theo răng, gai vây và các xương da, với một số ít cá nước ngọt còn được bảo tồn nguyên vẹn.
Cá nước ngọt cũng đã phổ biến và bao gồm các chi Ctenodus, Uronemus, Acanthodes, Cheirodus, Gyracanthus.
 
T

thienlangbachoai

Động vật bốn chân

Các động vật lưỡng cư kỷ Than Đá đã đa dạng và phổ biến vào giữa kỷ này, còn nhiều hơn so với chúng có ngày nay; một số loài dài tới 6 m. Những loài nào sinh sống hoàn toàn trên đất liền khi trưởng thành đều có da dạng vảy[8]. Chúng bao gồm các nhóm động vật bốn chân cơ sở, được phân loại trong các sách sinh học thời kỳ đầu trong siêu bộ/phân lớp Răng mê cung (Labyrinthodontia). Chúng có thân dài, đầu được che phủ bằng các tấm xương và có các chi tương đối yếu và kém phát triển. Loài lớn nhất dài trên 2 m. Kèm theo chúng là tập hợp các động vật lưỡng cư nhỏ hơn, được gộp chung trong phân lớp Lepospondyli, thông thường chỉ dài khoảng 15 cm. Một số loài lưỡng cư khi đó là động vật thủy sinh và sống trong các con sông (các chi Loxomma, Eogyrinus, Proterogyrinus); các loài khác có thể là bán thủy sinh (các chi Ophiderpeton, Amphibamus) hay trên đất liền (các chi Dendrerpeton, Hyloplesion, Tuditanus, Anthracosaurus).
Một trong những điểm mới trong tiến hóa của kỷ Than Đá là trứng của động vật có màng ối (nhóm Amniota), điều này cho phép sự khai thác đất liền diễn ra sau này của các động vật bốn chân. Chúng bao gồm các bò sát lớp Mặt thằn lằn (Sauropsida) ban đầu (chi Hylonomus), cũng như các bò sát thuộc Lớp Mặt thú (Synapsida) như chi Archaeothyris. Các động vật nhỏ tương tự như thằn lằn này nhanh chóng tạo ra nhiều nhánh của các hậu duệ. Trứng có màng ối cũng cho phép các tổ tiên của chim, động vật có vú và các loài động vật bò sát sau này sinh sản trên đất liền do nó ngăn cản sự bị khô đi của phôi nằm bên trong. Vào cuối kỷ Than Đá, các loài bò sát đã đa dạng hóa thành hàng loạt nhóm, bao gồm các họ Protorothyrididae (tổ tiên của rùa), Captorhinidae, nhóm Araeoscelidia (nhánh chị em với các bò sát hai cung ngày nay) và một vài họ của bộ Pelycosauria.
Thực vật

Các thực vật trên đất liền đầu kỷ Than Đá là tương tự như các nhóm vào cuối kỷ Devon, nhưng các nhóm mới cũng đã xuất hiện vào thời gian này.
Các nhóm thực vật chính đầu kỷ Than Đá là Equisetales (tháp bút, mộc tặc), Sphenophyllales (tương tự như nho), Lycopodiales (thông đất, thạch tùng), Lepidodendrales (cây có vảy), Filicales (dương xỉ), Medullosales (trước đây gộp chung trong "dương xỉ có hạt", một tập hợp nhân tạo của hàng loạt các thực vật hạt trần thời kỳ đầu) và Cordaitales. Các nhóm này vẫn tiếp tục thống lĩnh trong suốt kỷ này, nhưng trong thế Pennsylvania, một vài nhóm khác như Cycadophyta (tuế), Callistophytales (nhóm "dương xỉ có hạt" khác) và Voltziales (có quan hệ họ hàng và đôi khi được gộp vào trong ngành Thông), cũng đã xuất hiện.
Các loài thông đất, thạch tùng khi đó của bộ Lepidodendrales (họ hàng nhưng không phải tổ tiên của các loài thông đất nhỏ ngày nay) là các cây thân gỗ lớn với đường kính thân cây tới 1,5 m và cao tới 30 m. Chúng bao gồm các chi Lepidodendron (với quả nón gọi là Lepidostrobus), Halonia, LepidophloiosSigillaria. Các rễ của một vài dạng này được gọi là Stigmaria.
Các lá lược của một vài nhóm dương xỉ kỷ Than Đá là gần như giống hệt với các lá lược của dương xỉ ngày nay. Có lẽ nhiều loài là biểu sinh. Các hóa thạch của dương xỉ và "dương xỉ có hạt" bao gồm các chi Pecopteris, Cyclopteris, Neuropteris, Alethopteris, Sphenopteris. Các chi MegaphytonCaulopteris là các cây dương xỉ thân gỗ.
Bộ Equisetales bao gồm dạng khổng lồ phổ biến (chi Calamites), với đường kính thân cây khoảng 30-60 cm và cao tới 20 m. Chi Sphenophyllum là các dây leo thân mảnh dẻ với lá mọc thành vòng xoắn, chúng có lẽ có quan hệ họ hàng với cả Calamites và ngành Lycopodiophyta.
Chi Cordaites có quan hệ họ hàng với các loài tuế và thông, bao gồm các cây cao (từ 6 tới trên 30 m) với các lá tương tự như các đai, cụm hoa dạng đuôi sóc, sinh ra các quả mọng như ở các loài thanh tùng, được gọi là Cardiocarpus. Các loài thực vật này được cho là sống trong các cánh rừng đầm lầy. Các loài cây có thể coi là thật sự thuộc về nhóm thông (chi Waichia của bộ Voltziales) xuất hiện vào cuối kỷ Than Đá. Chúng ưa thích các vùng đất cao và khô.
Nấm

Do động và thực vật đã phát triển với quy mô tương đối lớn cũng như phổ biến trong giai đoạn này, (chẳng hạn Lepidodendron- cây có vảy), các loài nấm cũng tiếp tục đa dạng hóa. Các loài nấm biển vẫn còn chiếm lĩnh đại dương.
 
T

thienlangbachoai

Thế thượng/hậu Mississipi


Tầng Serpukhov

Tầng Serpukhovtầng động vật cuối cùng trong ba tầng thuộc thế Mississippi của kỷ Than Đá. Nó kéo dài từ khoảng 326,5±1,6 triệu năm trước (Ma) tới 318,1±1,3 Ma. Đứng trước nó là tầng Visé và đứng sau nó là tầng Bashkiria. Tên gọi của tầng này được đặt theo thị trấn Serpukhov (Серпухов) của Nga, cách Moskva khoảng 99 km về phía nam, nơi hợp lưu của hai con sông là sông Okasông Nara.
GSSP chính thức của ICS vẫn chưa xác định. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này vẫn chưa được chọn chính thức, tuy một số nhà địa chất coi đó là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón có danh pháp Lochriea crusiformis. Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón có danh pháp Declinognathodus nodiliferus.
Thế Pennsylvania

Hạ/Tiền Pennsylvania
Tầng Bashkiria

Tầng Bashkiriatầng động vật đầu tiên trong số bốn tầng của thế Pennsylvania trong kỷ Than Đá. Nó kéo dài từ khoảng 318,1±1,3 triệu năm trước (Ma) tới 311,7±1,1 Ma. Đứng trước nó là tầng Serpukhov và đứng sau nó là tầng Moskva. Tên gọi của tầng này được đặt theo tên gọi cũ của Cộng hòa Bashkortostan thuộc Liên bang Nga là Bashkiria (Башкирия).
GSSP chính thức của ICS nằm tại hẻm núi Arrow, Nevada, Hoa Kỳ. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón có danh pháp Declinognathodus nodiliferus. Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này vẫn chưa được quyết định nhưng một số nhà địa chất coi đó là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón có danh pháp Declinognathodus donetzianus và/hoặc Idiognathoides postsulcatus và loài trùng thoi có danh pháp Aljutovella aljutovica (thuộc bộ Trùng thoi (Fusulinida), ngành Trùng lỗ (Foraminifera)).
Trung Pennsylvania
Tầng Moskva

Tầng Moskvatầng động vật thứ hai trong số bốn tầng thuộc thế Pennsylvania của kỷ Than Đá. Nó kéo dài từ khoảng 311,7±1,1 triệu năm trước (Ma) tới 306,5±1,0 Ma. Đứng trước nó là tầng Bashkiria và đứng sau nó là tầng Kasimov. Tên gọi của tầng này được lấy theo tên thành phố Moskva.
GSSP chính thức của ICS vẫn chưa được quyết định. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này vẫn chưa được quyết định nhưng một số nhà địa chất coi đó là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của các loài động vật răng nón có danh pháp Declinognathodus donetzianus và/hoặc Idiognathoides postsulcatus và loài trùng thoi Aljutovella aljutovica (thuộc bộ Trùng thoi (Fusulinida), ngành Trùng lỗ (Foraminifera)). Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này vẫn chưa được quyết định nhưng một số nhà địa chất coi đó là gần với phần đáy khi xuất hiện loài trùng thoi Protriticites pseudomontiparus hay lần xuất hiện đầu tiên của chi lăng cúc thạch có danh pháp Parashumardites (họ Parashumarditida, bộ Goniatitida).
 
T

thienlangbachoai

Thượng/Hậu Pennsylvania
Tầng Kasimov

Tầng Kasimovtầng động vật thứ ba trong số bốn tầng của thế Pennsylvania trong kỷ Than Đá. Nó kéo dài từ khoảng 306,5±1,0 triệu năm trước (Ma) tới 303,9±0,9 Ma. Đứng trước nó là tầng Moskva và đứng sau nó là tầng Gzhel. Tên gọi của tầng này lấy theo tên thị trấn Kasimov trong tỉnh Ryazan của Nga.
GSSP chính thức của ICS vẫn chưa được quyết định. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này vẫn chưa được quyết định nhưng một số nhà địa chất coi đó là gần với phần đáy khi xuất hiện loài trùng thoi Protriticites pseudomontiparus hay lần xuất hiện đầu tiên của chi lăng cúc thạch có danh pháp Parashumardites (họ Parashumarditida, bộ Goniatitida). Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này vẫn chưa được quyết định nhưng một số nhà địa chất coi đó là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của các nhóm trùng thoi trong các chi Daixina, JigulitesRugosofusulina hoặc thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón với danh pháp Streptognathodus zethu.
Tầng Gzhel

Tầng Gzheltầng động vật cuối cùng trong số bốn tầng của thế Pennsylvania trong kỷ Than Đá. Nó kéo dài từ khoảng 303,9±0,9 triệu năm trước (Ma) tới 299,0±0,8 Ma. Đứng trước nó là tầng Kasimov và đứng sau nó là tầng Assel của kỷ Permi. Tầng này được đặt tên theo thị trấn GzhelNga.
GSSP chính thức của ICS vẫn chưa được quyết định. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này vẫn chưa được quyết định nhưng một số nhà địa chất coi đó là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của các nhóm trùng thoi trong các chi Daixina, JigulitesRugosofusulina hoặc thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón với danh pháp Streptognathodus zethu. Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Streptognathodus isolatus trong kiểu hình Streptognathodus wabaunsensis.
 
T

thienlangbachoai

Kỷ Permi

Kỷ Permi là một kỷ địa chất kéo dài từ khoảng 299,0 triệu năm trước (Ma) tới 248,0 Ma; (ICS 2004). Nó là kỷ cuối cùng của đại Cổ Sinh. Cũng giống như các kỷ địa chất khác, các địa tầng xác định kỷ Permi được xác định rất rõ ràng, nhưng niên đại chính xác của sự bắt đầu của kỷ là không chắc chắn với sai số vài triệu năm. Kỷ Permi diễn ra sau kỷ Than Đá (thế Pennsylvania tại Bắc Mỹ) và ngay sau nó là kỷ Trias thuộc đại Trung Sinh. Sự kết thúc của kỷ này được đánh dấu bằng sự kiện tuyệt chủng lớn, gọi là sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias, đã được xác định niên đại chính xác hơn. Kỷ Permi được Roderick Murchison-một nhà địa chất học người Anh đặt tên trong thập niên 1840, theo khu vực được khai quật rộng khắp xung quanh thành phố PermiNga. Các lớp khai quật tại Permi bao gồm một lượng lớn đá trầm tích lục địa màu đỏ và các lớp khai quật thuộc phần nước đại dương. Trong kỷ này xuất hiện phổ biến các loài bò sát tương tự như động vật có vú. Phân chia

Ba đơn vị phân chia nhỏ của kỷ Permi được đưa ra dưới đây từ già (cổ) nhất tới trẻ nhất, và bao gồm các tầng động vật cũng từ cổ nhất tới trẻ nhất. Các tên gọi thời kỳ/giai đoạn tương đương được đặt trong đóng mở ngoặc.

Mực nước biển trong kỷ Permi nói chung tương đối thấp, và các môi trường ven bờ biển đã bị thu hẹp bởi sự tập hợp của gần như tất cả các khối đất lớn lại với nhau thành một siêu lục địa là Pangea. Một siêu lục địa, thậm chí là rất lớn, luôn có ít đường bờ biển hơn so với từ 6 đến 8 lục địa nhỏ hơn có cùng tổng diện tích. Nó có thể là một trong những nguyên nhân gây ra sự tuyệt chủng hàng loạt các loài động vật biển vào cuối kỷ này bởi sự suy giảm nghiêm trọng các khu vực nông cạn ven biển mà nhiều dạng sự sống trong đại dương luôn ưa thích.
Cổ địa lý học

Trong kỷ Permi, tất cả các khối đất lớn của Trái Đất, ngoại trừ phần thuộc Đông Á ngày nay, đã kết hợp lại với nhau thành một siêu lục địa, gọi là Pangea. Pangea bao trùm khu vực xích đạo và mở rộng về phía hai cực, với hiệu ứng tương ứng đối với các dòng hải lưu trong một đại dương lớn, gọi là "Panthalassa", ("đại dương toàn thế giới"). Một siêu lục địa lớn như vậy tạo ra các điều kiện khí hậu với các dao động lớn về nóng và lạnh ("khí hậu lục địa") và gió mùa với mô hình mưa có tính chất theo mùa rõ rệt. Các sa mạc dường như đã trải rộng khắp Pangea. Các điều kiện khô như thế thích hợp cho thực vật hạt trần với các hạt nằm trong các lớp bảo vệ hơn là cho các loại thực vật như dương xỉ trong việc phân tán bào tử. Các loài cây thân gỗ hiện đại đầu tiên như thông (ngành Pinophyta), bạch quả (ngành Ginkgophyta) và tuế (ngành Cycadophyta) đã xuất hiện trong kỷ Permi.
Ba khu vực chung là đặc biệt đáng lưu ý đối với các trầm tích kỷ Permi bao gồm: dãy núi Ural (trong đó có cả Permi), Trung Quốc và miền tây nam Bắc Mỹ, trong đó thung lũng Permi tại bang Texas, Hoa Kỳ được đặt tên như vậy do nó có một trong những lớp trầm tích dày nhất trong các loại đá thuộc kỷ Permi trên thế giới.
 
T

thienlangbachoai

Sự sống

Các trầm tích đại dương thuộc kỷ Permi rất giàu các hóa thạch của động vật thân mềm (ngành Mollusca), động vật da gai (ngành Echinodermata) và động vật tay cuộn (ngành Brachiopoda). Các vỏ hóa thạch của hai chủng loại động vật không xương sống được sử dụng rộng rãi để xác định các địa tầng kỷ Permi và so sánh chúng giữa các khu vực là: các sinh vật thuộc bộ Fusulinida, một loại sinh vật đơn bào có vỏ tương tự như amip thuộc ngành Foraminifera, và các con cúc (phân lớp Ammonoidea), một dạng động vật chân đầu có vỏ- các họ hàng xa của ốc anh vũ (phân bộ Nautilina) ngày nay.
Sự sống trên đất liền trong kỷ Permi bao gồm các loại thực vật đa dạng, động vật chân đốt (ngành Arthropoda) và nhiều dạng khác nhau của động vật bốn chân (siêu lớp Tetrapoda) kỷ Pecmi.
Kỷ Permi bắt đầu với hệ thực vật thuộc kỷ Than đá vẫn còn phồn thịnh. Vào khoảng giữa kỷ Permi đã có sự chuyển tiếp lớn trong hệ thực vật. Các dạng thạch tùng ưa thích đầm lầy của kỷ Than đá, chẳng hạn LepidodendronSigillaria, đã được thay thế bởi những loại tùng bách có ưu thế hơn, là các loại cây thích nghi tốt hơn với các thay đổi khí hậu. Trong kỷ Permi đã phát sinh nhiều nhóm cây tùng bách, bao gồm các tổ tiên của các họ tùng bách ngày nay. Bạch quả và tuế cũng xuất hiện trong thời kỳ này. Các cánh rừng rậm rạp đã xuất hiện tại nhiều nơi, với sự đa dạng các nhóm thực vật.
Một lượng các nhóm côn trùng quan trọng mới cũng xuất hiện trong thời kỳ này, bao gồm các loài thuộc các bộ như bộ Cánh cứng (Coleoptera) và bộ Hai cánh (Diptera).
Động vật bốn chân kỷ Permi bao gồm các loại động vật lưỡng cư (lớp Amphibia) như bộ Temnospondyli, phân lớp LepospondyliBatrachosauriabò sát như lớp SauropsidaSynapsida (các bộ PelycosauriaTherapsida). Thời kỳ này cũng là giai đoạn phát triển của các loại động vật sống hoàn toàn trên cạn và sự xuất hiện của động vật ăn cỏăn thịt lớn đầu tiên.
Hệ động vật trên cạn giai đoạn Permi sớm đã chủ yếu là Pelycosauria và Amphibia, giai đoạn Permi giữa là Therapsida nguyên thủy như phân bộ Dinocephalia, và giai đoạn Permi muộn là các loại Therapsida nhiều ưu thế hơn như phân bộ Gorgonopsia và cận bộ Dicynodontia. Vào cuối kỷ Permi thì các loại bò sát thuộc nhóm Archosauriformes đầu tiên đã xuất hiện (họ Proterosuchidae, bộ Thecodontia); trong kỷ tiếp theo (kỷ Trias) thì chúng đã tiến hóa thành các dạng nhiều ưu thế hơn, cuối cùng thành khủng long (Dinosaur). Cũng xuất hiện vào cuối kỷ Permi là các loài thuộc phân bộ Cynodontia đầu tiên, và chúng có lẽ đã tiến hóa thành động vật có vú trong kỷ Trias.
Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias

Kỷ Permi kết thúc với sự kiện tuyệt chủng rộng lớn nhất được ghi lại trong cổ sinh vật học: Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias. 90% đến 95% các loài sinh vật biển đã tuyệt chủng, cũng như khoảng 70% loài sinh vật trên cạn. Ở mức độ riêng rẽ, có lẽ tới 99,5% số lượng các loại sinh vật khác nhau đã biến mất do hậu quả của sự kiện này.
Ở đây cũng có các chứng cứ đáng kể cho thấy sự ngập lụt rộng khắp gây ra bởi đá bazan nóng chảy từ sự phun trào macma đã gây ra sức ép môi trường và dẫn tới sự tuyệt chủng hàng loạt. Sự suy giảm môi trường sống ven biển và độ khô cằn tăng lên cũng góp phần vào sự kiện này.
Một giả thuyết khác cho rằng đó là do sự phun trào khí sulfua hiđrô từ lòng biển cả. Các phần của đại dương bị mất ôxy hòa tan trong nước theo chu kỳ đã cho phép các chủng loại vi khuẩn sống không cần ôxy có thể phát triển mạnh mẽ và tạo ra một lượng lớn khí sulfua hiđrô. Nếu một lượng lớn khí này được tích lũy trong khu vực thiếu ôxy thì nó có thể thoát ra ngoài khí quyển.
Các loại khí có tính ôxi hóa trong khí quyển có thể triệt tiêu loại khí độc này nhưng sulfua hiđrô có lẽ đã tiêu thụ hết tất cả khí trong khí quyển có thể chuyển hóa nó. Nồng độ sulfua hiđrô đã tăng lên một cách đáng kể trong vài trăm năm.
Mô hình hóa sự kiện như thế đã chỉ ra rằng khí này có thể tiêu hủy ozon trong các tầng trên của khí quyển, làm cho bức xạ tia cực tím lại tiếp tục giết chết nốt các loài đã sống sót sau sự phun trào khí độc này (Kump và những người khác, 2005). Tất nhiên, còn tồn tại những loài có thể chuyển hóa sulfua hiđrô.
Thậm chí người ta còn đưa ra một giả thuyết mang tính suy đoán nhiều hơn là các bức xạ mãnh liệt từ các siêu tân tinh cận kề là nguyên nhân gây ra sự tuyệt chủng này.
Trùng ba lá đã phát triển thịnh vượng kể từ kỷ Cambri, cuối cùng đã bị tuyệt chủng trước khi kỷ Permi kết thúc.
[FONT=&quot]Năm 2006, một nhóm các nhà khoa học Hoa Kỳ từ Đại học Tiểu bang Ohio thông báo rằng có chứng cứ cho thấy tồn tại một hố do thiên thạch (hố vùng đất Wilkes) gây ra với đường kính khoảng 500 km tại châu Nam Cực. Hố này nằm ở độ sâu 1,6 km phía dưới lớp băng của khu vực vùng Wilkes ở miền đông châu Nam Cực. Các nhà khoa học đã suy đoán là va chạm mạnh này có thể đã gây ra sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias, mặc dù niên đại của nó là dao động trong khoảng 100-500 triệu năm trước. Họ cũng suy doán là nó cũng góp phần bằng một cách thức nào đó đối với sự chia tách của Australia ra khỏi khối đất Nam Cực, mà khi đó cả hai đều là các phần của siêu lục địa Gondwana[/FONT]
 
T

thienlangbachoai

Cisural
Tầng Assel Tầng Assel là một tầng động vật thuộc thế Cisural (hay Hạ Permi) của kỷ Permi trong đại Cổ Sinh của liên đại Hiển Sinh, kéo dài từ khoảng 299±0,8 triệu năm trước (Ma) tới 294,6±0,8 Ma. Nó là tầng đầu tiên của kỷ Permi. Tầng Assel kế tiếp tầng Gzhel của thế Pennsylvania trong kỷ Than Đá và đứng ngay trước tầng Sakmara cùng thế Cisural. Tên gọi của tầng này đặt theo tên sông Assel ở miền nam dãy núi Ural, do V.E. Ruzhentsev đặt năm 1954.
GSSP chính thức của ICS nằm tại thung lũng Aidaralash thuộc dãy núi Ural, gần thành phố Aktobe (Aktyubinsk) của Kazakhstan. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Streptognathodus isolatus trong kiểu hình Streptognathodus wabaunsensis. Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này gần với thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Streptognathodus postfusus.
Tầng Sakmara

Tầng Sakmaratầng động vật thứ hai trong thế Cisural của kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 294,6± 0,8 triệu năm trước (Ma) tới 284,4 ± 0,7 Ma. Tên gọi của tầng này lấy theo sông Sakmara, một nhánh của sông Ural trong dãy núi Ural. Nó do A. P. Karpinsky đặt năm 1874 như là một đơn vị phân chia trong tầng Artinsk được đề xuất khi đó và chỉ trở thành tầng riêng biệt khi V.E. Ruzhentsev tách ra khỏi tầng kia năm 1936. Tầng đứng trước nó là tầng Assel và sau nó là tầng Artinsk.
GSSP chính thức của ICS vẫn chưa được xác định. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này gần với thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Streptognathodus postfusus. Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của các loài động vật răng nón Sweetognathus whiteiMesogondolella bisselli.
Tầng Sakmara có thể phân chia thành 2 phân tầng là Sterlitamak và Tastub.
Tầng Artinsktầng động vật thứ ba trong thế Cisural của kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 284,4 ± 0,7 triệu năm trước (Ma) tới 275,6 ± 0,7 Ma, do A. P. Karpinsky đặt năm 1874. Trong đề xuất ban đầu nó bao gồm cả tầng Sakmara như là một đơn vị phân chia trong tầng này, nhưng đến năm 1936 thì V.E. Ruzhentsev đã tách tầng Sakmara ra khỏi nó. Như vậy, hiện nay, tầng đứng trước nó là tầng Sakmara còn tầng đứng sau nó là tầng Kungur trong cùng một thế. Theo Đại Bách khoa Toàn thư Xô viết[1] thì tên gọi của tầng này lấy theo tên gọi nhà máy Artinsk (tiếng Nga: Артинский завод). Nhà máy này thành lập năm 1787, là nhà máy xuất hiện sớm nhất tại khu vực Ural, hiện vẫn còn hoạt động và nằm trong làng kiểu thị trấn có tên gọi là Arti, thuộc tỉnh Sverdlov, cách thành phố Ekaterinburg khoảng 180 km về phía tây nam[2].
GSSP chính thức của ICS vẫn chưa được xác định. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của các loài động vật răng nón Sweetognathus whiteiMesogondolella bisselli. Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của các loài động vật răng nón Neostreptognathus pneviNeostreptograthus exculptus.
Tầng Kungurtầng động vật thứ tư và cuối cùng của thế Cisural trong kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 275,6 ± 0,7 triệu năm trước (Ma) tới 270,6 ± 0,7 Ma. Tên gọi của tầng này lấy theo tên thị trấn Kungur ở đông nam Permi krai của Nga, do nhà địa chất Nga A. A. Shtukenberg đặt năm 1890[1]. Đứng trước nó là tầng Artinsk còn đứng ngay sau nó là tầng Road.
GSSP chính thức của ICS vẫn chưa được xác định. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của các loài động vật răng nón Neostreptognathus pneviNeostreptograthus exculptus. Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Jinogondolella nanginkensis.
Tầng Kungur có thể chia thành trầm tích Iren[2] (иреньское отложение) và trầm tích Filippov (филипповское отложение)[3].
 
T

thienlangbachoai

Thế Guadalupe

Tầng Road

Tầng Road (còn gọi là tầng Ufa) là tầng động vật đầu tiên của thế Guadalupe trong kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 270,6 ± 0,7 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 268 ± 0,7 Ma. Tên gọi của nó lấy theo thành hệ Road (Road formation) của dãy núi Guadalupe.
GSSP chính thức của ICS là thành hệ Cutoff, kiểu địa tầng Canyon, miền nam dãy núi Guadalupe, Texas, Hoa Kỳ. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Jinogondolella nanginkensis. Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Jinogondolella aserrata.
Tầng Word

Tầng Word (còn gọi là tầng Kazan) là tầng động vật thứ hai của thế Guadalupe trong kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 268,0 ± 0,7 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 265,8 ± 0,7 Ma. Tên gọi của nó lấy theo thành hệ Word (Word formation) của núi Glass trong dãy núi Guadalupe. Đứng trước nó là tầng Road còn đứng sau nó là tầng Capitan.
GSSP chính thức của ICS là mạch đá lộ thiên Getaway, đèo Guadalupe, đông nam dãy núi Guadalupe, Texas, Hoa Kỳ. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Jinogondolella aserrata. Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Jinogondolella postserrata.
Tầng Capitan

Tầng Capitan (còn gọi là tầng Tatar (một phần)) là tầng động vật thứ ba và cuối cùng của thế Guadalupe trong kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 265,8 ± 0,7 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 260,4 ± 0,7 Ma. Tên gọi của nó lấy theo tằng hệ Capitan (Capitan formation) của dãy núi Guadalupe. Đứng trước nó là tầng Word cùng thế còn đứng sau nó là tầng Ngô Gia Bình của thế Lạc Bình.
GSSP chính thức của ICS là phần đá vôi Pinery, đồi Nipple, đông nam dãy núi Guadalupe, Texas, Hoa Kỳ. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Jinogondolella postserrata. Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Clarkina postbitteri.
Thế Lạc Bình

Tầng Ngô Gia Bình

Tầng Ngô Gia Bình (còn gọi là tầng Djulf, tầng Longtan, tầng Rustler, tầng Salado, tầng Castile, tầng Dzhulf, tầng Tatar (một phần)) là tầng động vật thứ nhất của thế Lạc Bình trong kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 260,4 ± 0,7 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 253,8 ± 0,7 Ma. Tên gọi của nó lấy theo phẫu diện Ngô Gia Bình (吴家坪) ở phía tây huyện Nam Trịnh, Hán Trung, tỉnh Thiểm Tây. Đứng trước nó là tầng Capitan của thế Guadalupe còn đứng sau nó là tầng Trường Hưng cùng thế.
GSSP chính thức của ICS là phẫu diện bờ nam thác Bồng Lai, huyện Lai Tân, khu tự trị người Tráng Quảng Tây, Trung Quốc. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của các loài động vật răng nón Clarkina postbitteri. Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này là thời điểm gần với sự xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Clarkina wangi.
Trường Hưng

Tầng Trường Hưng (còn gọi là tầng Dorasham, tầng hồ Dewey, tầng Tatar (một phần)) là tầng động vật thứ hai và cuối cùng của thế Lạc Bình trong kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 253,8 ± 0,7 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 251,0 ± 0,4 Ma. Tên gọi của nó lấy theo huyện Trường Hưng, địa cấp thị Thôi Châu, tỉnh Chiết Giang. Đứng trước nó là tầng Ngô Gia Bình cùng thế còn đứng sau nó là tầng Indus (tầng sông Ấn) của thế Tiền Trias trong kỷ Trias.
GSSP chính thức của ICS là phẫu diện Môi Sơn đoạn D, thuộc huyện Trường Hưng, Chiết Giang, Trung Quốc[1]. Mốc đánh dấu sự bắt đầu của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Clarkina wangi. Mốc đánh dấu sự kết thúc của tầng này là thời điểm xuất hiện lần đầu tiên của loài động vật răng nón Hindeodus parvus.
 
T

thienlangbachoai

bai viet kha hay chi tiet cho den moi thu deu rat hay minh co the ket ban duoc k minh la ha anh
mong bạn đánh có dấu giúp mình
phần III : Đại Trung sinh

Đại Trung sinh (Mesozoic) là một trong ba đại địa chất thuộc thời Phanerozoic (thời Hiển sinh). Sự phân chia thời gian ra thành các đại bắt đầu từ thời kỳ của Giovanni Arduino trong thế kỷ 18, mặc dù tên gọi ban đầu của ông cho đại (mà hiện nay gọi là đại Trung sinh) là "Secondary" (đệ Nhị) (điều này làm cho đại gần đây nhất là đại đệ Tam). Nằm giữa đại Cổ sinh (Paleozoic) và đại Tân sinh (Cenozoic), đại Mesozoic có nghĩa là "các động vật giai đoạn giữa" trong tiếng Hy Lạp: meso là giữa và zoionđộng vật. Nó thường cũng được gọi là "thời đại của sự sống Trung cổ" hay "Thời đại của Khủng long", theo tên gọi chung của các loài động vật phổ biến nhất trong đại này.
Đại Trung sinh là thời kỳ của các hoạt động kiến tạo, khí hậutiến hóa. Các lục địa dần dần chuyển từ trạng thái liên hệ, gắn kết với nhau thành các trạng thái như ngày nay; sự chuyển dịch này tạo ra tiền đề cho sự hình thành loài và các phát triển tiến hóa quan trọng khác. Khí hậu khi đó là rất nóng trong toàn bộ khoảng thời gian của đại này và nó cũng đóng vai trò quan trọng trong sự tiến hóa và đa dạng hóa của các loài động vật mới. Vào thời gian cuối của đại này, các nền tảng của sự sống hiện đại đã chiếm vị trí.
Niên biểu địa chất

Tiếp theo sau đại Cổ sinh, đại Trung sinh kéo dài khoảng 186 triệu năm (Ma): từ khoảng 251 triệu năm trước tới khi đại Tân sinh bắt đầu cách đây 65 triệu năm. Khoảng thời gian này được chia tách ra thành ba kỷ địa chất. Theo trật tự từ cổ nhất tới trẻ nhất là:

  • kỷ Trias (kỷ Tam Điệp): 248,2 Ma tới 205,7 Ma.
  • kỷ Jura (kỷ Chu La): 205,7 Ma to 144,2 Ma.
  • kỷ Creta (kỷ Phấn Trắng): 144,2 Ma to 65,5 Ma.
Ranh giới dưới (kỷ Trias) được tính theo sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias, trong thời gian đó khoảng 90% các loài động vật biển và khoảng 70% các loài động vật có xương sống trên đất liền bị tuyệt chủng. Nó còn được biết đến như là thời đại của "Sự chết chóc lớn" do nó được coi là sự tuyệt chủng hàng loạt lớn nhất trong lịch sử Trái Đất. Ranh giới trên (kỷ Creta) được tính theo sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-phân đại đệ Tam, nó có thể là do thiên thạch đã tạo ra hố lõm Chicxulub trên bán đảo Yucatán, Mexico. Khoảng 50% các chi đã tuyệt chủng, bao gồm tất cả các loài khủng long không biết bay.
Kiến tạo

Nói chung, đại Trung sinh là một trong những thời kỳ tăng cường các hoạt động kiến tạo. Nó bắt đầu khi tất cả các lục địa trên thế giới tập hợp lại với nhau thành một siêu lục địa gọi là Pangea. Pangea dần dần tách ra thành lục địa phía bắc là Laurasia và lục địa phía nam là Gondwana. Vào cuối đại này, các lục địa này đã tách tiếp thành hình dạng gần giống như ngày nay. Laurasia trở thành Bắc Mỹđại lục Á-Âu, trong khi Gondwana tách ra thành Nam Mỹ, châu Phi, Australia, châu Nam Cựctiểu lục địa Ấn Độ, tiểu lục địa này sau đó va chạm với châu Á để hình thành nên dãy núi Himalaya.
Khí hậu

Kỷ Trias nói chung là khô, một xu hướng đã bắt đầu vào cuối kỷ Than đá, và có tính chất theo mùa rất cao, đặc biệt là phần sâu bên trong của Pangea. Mực nước biển thấp cũng làm gia tăng thêm sự chênh lệch nhiệt độ. Nước có vai trò như chất ổn định nhiệt độ do nhiệt dung riêng lớn của nó, và các vùng đất gần các khu vực nhiều nước, đặc biệt là các đại dương, ít bị thay đổi nhiệt độ hơn. Do nhiều vùng đất của Pangea nằm khá xa đại dương nên nhiệt độ thay đổi rất nhiều và có lẽ phần bên trong của Pangea đã bao gồm nhiều khu vực sa mạc mở rộng. Các chứng cứ đa dạng về các tầng đá trầm tích màu đỏ và các mỏ muối đã ủng hộ cho giả thuyết này.
Mực nước biển bắt đầu tăng lên trong kỷ Jura, có lẽ là do sự nâng lên của đáy biển. Sự hình thành lớp vỏ mới gần bề mặt đã chiếm chỗ của nước đại dương và làm cho mực nước biển dâng lên, cao hơn khoảng 200 m so với ngày nay và làm ngập lụt các khu vực ven biển. Ngoài ra, Pangea bắt đầu nứt ra thành các lục địa nhỏ hơn, làm cho nhiều vùng đất tiếp xúc với đại dương nhờ sự hình thành của biển Tethys. Nhiệt độ vẫn tiếp tục tăng và bắt đầu ổn định. Độ ẩm cũng tăng với sự tiếp giáp gần hơn của nước và các sa mạc co dần lại.
Khí hậu trong kỷ Creta không được biết một cách rõ ràng và gây tranh cãi nhiều trong giới học giả ngày nay. Một phần là do nồng độ điôxít cacbon cao hơn trong khí quyển, nên gradient nhiệt độ từ Bắc tới Nam trở nên gần như là phẳng: nhiệt độ đã gần như là bằng nhau trên cả hành tinh. Nhiệt độ trung bình cũng cao hơn ngày nay, vào khoảng 10°C. Trên thực tế, vào giữa kỷ Creta, các vùng nước gần xích đạo có lẽ là quá nóng ấm, tới 20 °C tại các đại dương sâu thẳm, và như thế là quá nóng đối với sự sống trong đại dương, và các khu vực đất liền cận kề xích đạo có thể đã là các sa mạc, mặc dù chúng rất gần với nguồn nước biển. Sự luân chuyển ôxy tới các đại dương sâu có thể đã bị phá vỡ. Vì lý do này, một lượng lớn các chất hữu cơ đã tích tụ lại do chúng không bị phân hủy và cuối cùng đã trở thành các trầm tích như đá phiến dầu.
Tuy nhiên, không phải mọi dữ liệu đều khẳng định các giả thuyết này. Mặc dù tổng thể là ấm áp, nhưng các dao động về nhiệt độ có lẽ là đủ lớn để có thể cho phép tồn tại các chỏm băng vùng cực và các sông băng, nhưng điều này cũng không có chứng cứ rõ nét. Các mô hình định lượng cũng không thể tái tạo lại sự bằng phẳng của gradient nhiệt độ trong kỷ Creta.
 
T

thienlangbachoai

Sự sống

Sự tuyệt chủng gần như toàn bộ các loài động vật vào cuối kỷ Permi đã cho phép nhiều dạng mới của sự sống ra đời và thích ứng được. Cụ thể, sự tuyệt chủng của các loài động vật lớn ăn cỏ và ăn thịt thuộc phân bộ Dinocephalia đã làm cho các hốc sinh thái này bị trống. Một số hốc đã được các động vật trong phân bộ Cynodontia và cận bộ Dicynodontia sống sót chiếm chỗ, nhóm cuối này sau đó cũng bị tuyệt chủng. Tuy nhiên, sự sống động vật trong đại Trung sinh chủ yếu là các loại bò sát lớn thuộc nhóm Archosauria đã xuất hiện vài triệu năm sau sự tuyệt chủng kỷ Permi như khủng long (siêu bộ Dinosauria), bò sát bay (bộ Pterosauria) và các loài bò sát sống dưới nước như thằn lằn cá (phân bộ Ichthyosauria), thằn lằn rùa cổ rắn (phân bộ Plesiosauroidea) và thằn lằn sông (họ Mosasauridae).
Các thay đổi khí hậu vào cuối kỷ Jura và Creta đã làm gia tăng thêm sự thích ứng của các loài mới. Kỷ Jura là đỉnh cao của sự đa dạng các loài trong nhóm Archosauria. Những con chim và động vật có nhau thai (cận lớp Eutheria) đầu tiên cũng đã xuất hiện. Thực vật hạt kín đã phát sinh vào đầu kỷ Creta, ban đầu ở vùng nhiệt đới, nhưng sự ổn định về nhiệt độ đã cho phép chúng loang rộng về hai cực trong cả kỷ này. Vào cuối kỷ Creta, thực vật hạt kín đã là ngành thực vật thống trị tại nhiều khu vực, mặc dù một số chứng cứ cho thấy sinh khối vẫn còn thống trị bởi tuế (ngành Cycadophyta) và dương xỉ cho đến tận sau khi diễn ra sự tuyệt chủng kỷ Creta-phân đại đệ Tam.
Một số người cho rằng côn trùng đã đa dạng hóa cùng với thực vật hạt kín do các kết quả giải phẫu học về côn trùng, đặc biệt là phần miệng của chúng, dường như cho thấy nó rất phù hợp với thực vật có hoa. Tuy nhiên, tất cả các phần chính của miệng côn trùng đã có trước khi thực vật hạt kín ra đời, và sự đa dạng của côn trùng thực tế là chậm lại khi thực vật hạt kín xuất hiện, vì thế kết cấu miệng của chúng ban đầu có lẽ là để thích nghi với các mục đích khác.
Khi nhiệt độ tại các đại dương tăng lên thì các loài động vật lớn đã phát triển mạnh thời kỳ đầu đại Trung sinh dần dần biến mất trong khi các loài động vật nhỏ hơn, bao gồm thằn lằn, rắn, và có lẽ cả tổ tiên của động vật có vú tới tận linh trưởng cũng đã bắt đầu tiến hóa. Sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-phân đại đệ Tam đã làm gia tăng xu hướng này. Các loài Archosauria lớn bị tuyệt chủng, trong khi chim và động vật có vú lại phát triển mạnh, giống như chúng đang có ngày nay.
 
T

thienlangbachoai

Kỷ Tam Điệp

Kỷ Tam Điệp hay kỷ Trias là một kỷ địa chất kéo dài từ khoảng 251 đến 200 triệu năm trước (Ma). Là kỷ đầu tiên của Đại Trung Sinh, kỷ Trias kế tiếp kỷ Permi và kế tiếp nó là kỷ Jura. Cả sự mở đầu lẫn sự kết thúc của kỷ Trias đều được đánh dấu bằng các sự kiện tuyệt chủng lớn. Sự kiện tuyệt chủng kết thúc kỷ Trias gần đây đã được xác định niên đại chính xác hơn, nhưng cũng giống như các kỷ địa chất cổ khác, các tầng đá để xác định sự bắt đầu và kết thúc dù đã được xác định khá tốt nhưng niên đại chính xác của kỷ này vẫn là điều không chắc chắn với sai số vài triệu năm.
Trong kỷ Trias, cả sự sống trong đại dương lẫn trên đất liền đã thể hiện sự bức xạ thích ứng bắt đầu từ sinh quyển đã bị kiệt quệ rõ ràng từ sự tuyệt chủng kỷ Permi-Trias. Các loại san hô từ nhóm Hexacorallia đã lần đầu tiên xuất hiện. Các loài thực vật hạt kín đầu tiên có thể đã tiến hóa trong kỷ Trias, cũng như những động vật có xương sống biết bay đầu tiên, nhóm các bò sát Pterosauria.
Tên gọi

Tên gọi Trias lần đầu tiên được Friedrich Von Alberti gọi năm 1834 từ ba tầng đá khác biệt rõ ràng (tiếng Latinh trias có nghĩa là nhóm (bộ) ba) —là các tầng đá đỏ, phía trên là tầng đá phấn, tiếp theo là đá phiến sét màu đen— được tìm thấy ở nhiều nơi tại Đức và khu vực tây bắc châu Âu.
Niên đại và các phân kỷ

Kỷ Trias thông thường được chia thành ba phân kỷ là Tiền, TrungHậu Trias, và các tầng đá tương ứng được gọi là Hạ, Trung và Thượng Trias. Các tầng động vật từ trẻ đến già nhất là:
Kỷ Trias thông thường được chia thành ba phân kỷ là Tiền, TrungHậu Trias, và các tầng đá tương ứng được gọi là Hạ, Trung và Thượng Trias. Các tầng động vật từ trẻ đến già nhất là:
Thượng/Hậu Trias (Tr3)
Rhaetia
(203,6 ± 1,5 – 199,6 ± 0,6 Ma)
Noricum
(216,5 ± 2,0 – 203,6 ± 1,5 Ma)
Carnia
(228,0 ± 2,0 – 216,5 ± 2,0 Ma)
Trung Trias (Tr2)

Ladinia
(237,0 ± 2,0 – 228,0 ± 2,0 Ma)
Anisus
(245,0 ± 1,5 – 237,0 ± 2,0 Ma)
Hạ/Tiền Trias (Scythia)

Olenek
(249,7 ± 0,7 – 245,0 ± 1,5 Ma)
Indus
(251,0 ± 0,4 – 249,7 ± 0,7 Ma)
 
T

thienlangbachoai

Cổ địa lý học

Trong kỷ Trias, gần như toàn bộ phần đất liền của Trái Đất đã hội tụ thành một siêu lục địa duy nhất có trung tâm ở gần khu vực xích đạo, gọi là Pangea ("tất cả các khối đất"). Nó có dạng của một "Pac-Man" khổng lồ với "miệng" quay về phía đông, tạo thành biển Tethys, một vịnh biển rộng mênh mông được mở rộng về phía tây vào giữa kỷ Trias, do sự co rút lại của đại dương Paleo-Tethys, một đại dương đã tồn tại trong Đại Cổ Sinh. Phần còn lại là một đại dương được biết dưới tên gọi Panthalassa ("tất cả biển"). Tất cả các trầm tích sâu dưới đáy biển đã trầm lắng xuống trong kỷ Trias đã biến mất do sự sụt xuống của các địa tầng đại dương; vì thế, người ta biết rất ít về sự sống trong các đại dương thuộc kỷ Trias.
Siêu lục địa Pangaea bị rạn nứt trong kỷ Trias, đặc biệt là vào cuối kỷ, nhưng vẫn chưa bị tách ra; các trầm tích biển đầu tiên trong vết nứt sớm nhất, là vết nứt đã chia tách New Jersey ra khỏi Maroc ngày nay, có nguồn gốc vào cuối kỷ Trias. Do đường bờ biển hữu hạn của một khối siêu lục địa duy nhất nên các trầm tích đại dương kỷ Trias là tương đối khan hiếm, ngoại trừ sự đa dạng tại Tây Âu, là nơi mà người ta nghiên cứu kỷ Trias lần đầu tiên. Chẳng hạn, tại Bắc Mỹ, các trầm tích đại dương chỉ có một số ít tại miền tây. Vì thế địa tầng học kỷ Trias chủ yếu dựa trên các sinh vật sống trong các phá và các môi trường siêu mặn, chẳng hạn các loài giáp xácEstheria.
Khí hậu

Khí hậu đầu kỷ Trias nói chung là khô và nóng, tạo ra các tầng đá đỏ điển hình gồm đá cátevaporit. Không có chứng cứ cho thấy có sự tồn tại của sông băng tại hay gần các cực; trên thực tế, các khu vực miền địa cực dường như là ẩm ướt và mát mẻ, một khí hậu thích hợp cho các sinh vật dạng bò sát. Kích thước lớn của Pangea đã hạn chế hiệu ứng làm dịu của đại dương; khí hậu lục địa của nó có tính phân chia theo mùa rõ ràng, với mùa hè rất nóng và mùa đông lạnh giá (Stanley, 452-3). Rất có thể là nó có gió mùa mạnh và xuyên qua xích đạo (Stanley, 452-3).
 
T

thienlangbachoai

Các dạng sự sống

Trong kỷ Trias, ba loại hình chính của sinh vật có thể được phân chia như sau: những sinh vật còn sót lại từ sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-Trias, một vài nhóm mới đã phát triển nhanh chóng nhưng ngắn ngủi và các nhóm mới đã thống lĩnh thế giới trong đại Trung Sinh.
Trong các môi trường đại dương thì các kiểu san hô mới và hiện đại đã xuất hiện vào thời kỳ Tiền Trias, tạo thành các mảng đá ngầm có kích thước khiêm tốn hơn so với các hệ thống san hô lớn của kỷ Devon hay của đá ngầm ngày nay. Các động vật chân đầu (lớp Cephalopoda) có vỏ, gọi chung là con cúc (phân lớp Ammonoidea) đã phục hồi, đa dạng hóa từ một nhánh duy nhất còn sống sót sau sự kiện tuyệt chủng cuối kỷ Permi. Các loài khá đồng nhất, phản ánh một thực tế là còn rất ít các họ cá sống sót sau sự kiện tuyệt chủng này. Khi đó cũng tồn tại nhiều dạng bò sát sinh sống trong các đại dương. Chúng bao gồm các nhóm thằn lằn chân chèo (siêu bộ Sauropterygia), bao gồm các phân bộ PachypleurosauriaNothosauria (cả hai nhóm này đều phổ biến ở thời Trung Trias, đặc biệt là trong khu vực biển Tethys), các loài bò sát thuộc các bộ PlacodontiaPlesiosauria đầu tiên; các loài bò sát giống như lươn thuộc bộ Thalattosauria (chi Askeptosaurus); và thằn lằn cá (bộ Ichthyosauria) khá thành công, đã xuất hiện trong các vùng biển thời Tiền Trias và đa dạng hóa khá sớm, một số cuối cùng đã phát triển với kích thước khổng lồ vào cuối kỷ Trias.
Trên đất liền, những loại thực vật còn sống sót là ngành Lycopodiophyta (thạch tùng, thông đất), thống lĩnh là tuế (ngành Cycadophyta), ngành Ginkgophyta (đại diện ngày nay là bạch quả (Ginkgo biloba)) và dương xỉ có hạt. Thực vật có hạt thống lĩnh mặt đất. Ở bán cầu bắc, các loài thông là chủ yếu. Glossopteris (dương xỉ có hạt) đã thống trị bán cầu nam vào đầu kỷ Trias.
Động vật lưỡng cư bộ Temnospondyli thuộc nhóm các sinh vật sống sót sau sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-Trias, một số nòi giống (ví dụ cận bộ Trematosauria) đã thịnh vượng trong một thời gian ngắn thời Tiền Trias, trong khi các nhóm khác (ví dụ siêu họ Capitosauroidea) vẫn duy trì được thành công trong toàn kỷ, hoặc chỉ phát triển mạnh vào thời Hậu Trias (ví dụ các siêu họ Plagiosauroidea, Metoposauroidea). Đối với các nhóm lưỡng cư khác, các loài thuộc phân lớp Lissamphibia đầu tiên được biết đến từ thời Tiền Trias, nhưng nhóm này về tổng thể chưa phổ biến cho tới tận kỷ Jura, khi các lưỡng cư Temnospondyli đã trở nên rất hiếm.
Các loài bò sát trông tựa như cá sấu thuộc cận lớp Archosauromorpha – đặc biệt là nhóm Archosauria – đã thay thế mạnh mẽ cho các loài bò sát giống thú thuộc lớp Cung thú (Synapsida) đã thống trị trong kỷ Permi. Mặc dù bò sát răng chó (chi Cynognathus) đã từng là động vật ăn thịt hàng đầu vào thời kỳ đầu kỷ Trias (OlenekiaAnisia) tại Gondwana, và cả các loài bò sát hai răng chó (họ Kannemeyeriidae thuộc cận bộ Dicynodontia) lẫn bò sát một răng chó (gomphodont thuộc cận bộ Cynodontia) vẫn là các động vật ăn cỏ quan trọng trong phần lớn thời gian của kỷ này, nhưng vào cuối kỷ Trias thì các bò sát giống thú này chỉ đóng vai trò không đáng kể. Trong khoảng thời kỳ Carnia (phần đầu của Hậu Trias), một số Cynodontia còn ưu thế đã tiến hóa thành các động vật có vú đầu tiên. Cùng thời gian đó thì các bò sát cổ chim (nhóm Ornithodira), cho đến lúc đó vẫn còn ít và không có ảnh hưởng đáng kể, đã tiến hóa thành thằn lằn có cánh (bộ Pterosauria) và các chủng loại khủng long (siêu bộ Dinosauria). Bò sát mắt cá chân chéo (nhóm Crurotarsi) là một nhánh quan trọng khác của Archosauria, và trong thời kỳ Hậu Trias chúng cũng đạt tới đỉnh cao của sự đa dạng, với các nhóm khác biệt, bao gồm các bộ Phytosauria, Aetosauria, một vài nòi giống riêng biệt của bộ Rauisuchia, và các bò sát dạng cá sấu (bộ Crocodylia) đầu tiên (nhánh Sphenosuchia). Trong lúc ấy thì các loài bò sát hai cung (bộ Rhynchosauria) ăn cỏ to lớn và các loài bò sát thuộc bộ Prolacertiformes ăn côn trùng hay ăn cá có kích thước từ nhỏ đến trung bình đã là các nhóm bò sát Archosauromorpha cơ sở quan trọng trong phần lớn kỷ Trias.
Trong số các bò sát khác, các loài rùa biển sớm nhất thuộc siêu họ Chelonioidae, như các chi ProganochelysProterochersis, đã xuất hiện trong thời kỳ Noria (thời kỳ giữa của Hậu Trias). Bò sát thuộc cận lớp Lepidosauromorpha - đặc biệt là bộ Sphenodontia, lần đầu tiên được biết tới trong các mẫu hóa thạch có niên đại sớm hơn một chút (trong thời kỳ Carnia). Procolophonidae là một nhóm quan trọng các động vật ăn cỏ kích thước nhỏ giống như thằn lằn.
Lagerstätten

[FONT=&quot]Lagerstätte Monte San Giorgio, hiện nay nằm trong khu vực hồ Lugano ở miền bắc Italy và Thụy Sĩ, vào thời kỳ kỷ Trias là một phá biển nằm sau các dải đá ngầm với lớp đáy thiếu ôxy, vì thế đã không có các sinh vật ăn xác thối và ít sự hỗn loạn trong quá trình hóa thạch. Các tàn tích của cá, và nhiều loại bò sát sống ở biển, bao gồm các bò sát thuộc phân bộ Pachypleurosauria phổ biến là chi NeusticosaurusArchosauromorpha cổ dài [/FONT]
 
Top Bottom