lịch sử trái đất ( khoảng 4,6 tỷ trước năm đến nay )

T

thienlangbachoai

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

lịch sử trái đất đọc bằng MS word
bấm view->document maps sẽ hiện ra một hàng bên trái tóm tắt lại title của bài ( quá rõ phải không) hoặc đọc online tại đây
Từ 5 tỷ đến 4,6 tỷ năm trước :
Trái Đất nằm trong hệ mặt trời, đã 4,6 tỷ năm tuổi , và mặt trời chỉ là một phần nhỏ của dãy ngân hà. Các nhà khoa học cho rằng vũ trụ được sinh ra do một vụ nổ có tên là bigbang , và kể từ đó vũ trụ không ngừng lớn dần ra , lại có 1 số nhà khoa học cho rằng cách đây 10000 tỷ năm ánh sáng chính là nơi tận cùng của vụ trụ, và ý kiến được nhiều người đồng tình nhất: vũ trụ là bất tận.
Các giả thiết nói về ngày sinh của vũ trụ :
Cái gọi là tuổi của vũ trụ chính là thời gian tính từ lúc vũ trụ được sinh ra cho tới nay. Nhà thiên văn học người mỹ Habo đã phát hiện ra rằng : vũ trụ kể từ khi được sinh ra cho đến nay vẫn luôn phình to ra một cách nhanh chóng( như ở trên mình đã nói ) . điều này khiến cho các thiên thể luôn phải lùi lại , hơn nữa tốc độ lùi lại của chúng còn tỉ lệ thuận với khoảng cách nữa. hằng số tỉ lệ này gọi là hằng số Habo , còn tỷ lệ nghịch của nó chính là tuổi thọ của vũ trụ. Chỉ cần chúng ta đo được tốc độ lùi và khoảng cách của các thiên thể thì có thể đo được hằng số Habo và có thể biết được tuổi thọ của vũ trụ
Nhưng kết quả về tuổi vũ trụ mà các nhà khoa học đưa ra chênh lệch nhau rất lớn , nói chung nó không thống nhất trong phạm vi 10 tỷ đến 20 tỷ năm. Đó là vì sao vậy ? Đó là vì việc đo tốc độ lùi của các thiên thể thường có được bằng cách dịch chuyển đường màu đỏ, sau đó so sánh để thống nhất còn sai số khi đo đạc khoảng cách giữa các thiên thể lại tương đối lớn , có người cho rằng lúc mới đầu , vũ trụ phình to ra nhanh hơn bây giờ. Và như vậy , quy ra tuổi của vũ trụ chỉ có 6-7 tỷ năm, nhưng tính chính xác của độ tuổi thấp nhất lại càng đáng nghi ngờ. bởi vì tuổi của các vì sao hình cầu- một bộ phận tạo nên vũ trụ ít nhất đã có 13 tỷ năm rồi. Giá trị suy đoán cao nhất về độ tuổi của vũ trụ lại là 34 tỷ năm .
Sau 4,6 tỷ năm trước :
Khi vũ trụ sinh ra, các tinh vân đã có mặt sẵn trên vũ trụ rồi , có những hạt còn sáng hơn cả mặt trời nữa. các tinh vân này kết hợp lại với nhau thành những ngôi sao trong vũ trụ , lâu ngày, các ngôi sao này sẽ… phát nổ và bụi rơi ra rất nhiều , các hạt bụi này kết thành các thiên thạch và các thiên thạch sẽ kết lại thành những hành tinh, trong đó có trái đất. trái đất quay xung quanh mặt trời do có từ trường rất mạnh của mặt trời tác động lên trái đất và những hành tinh khác trên hệ mặt trời , do đó các hành tinh này luôn quay xung quanh mặt trời theo quỹ đạo hình elip,và các thiên thạch này mới đầu không phải đều tròn trịa như bây giờ, hydro (hi-đrô) và heli(hêli) có trong vỏ trái đất sẽ làm cho vỏ trái đất phình to ra nên trái đất không hoàn toàn là hình cầu, trong ruột trái đất lúc bấy giờ bắt đầu hình thành mắc-ma (magma), rồi nóng chảy , do sự chuyển động của vỏ trái đất , các khối chất lỏng
 
Last edited by a moderator:
T

thienlangbachoai

PHẦN I:Liên đại Nguyên Sinh (Proterozoic) là một liên đại địa chất bao gồm một thời kỳ trước khi có sự phổ biến đầu tiên của sự sống phức tạp trên Trái Đất. Liên đại Nguyên Sinh kéo dài từ khoảng 2.500 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 542,0 ± 1,0 Ma. Liên đại Nguyên Sinh là phần gần đây nhất của thời kỳ Tiền Cambri không chính thức và đã cũ.
Liên đại Nguyên Sinh bao gồm ba đại địa chất, từ cổ nhất tới trẻ nhất là:
• Đại Cổ Nguyên Sinh (Paleoproterozoic)
• Đại Trung Nguyên Sinh (Mesoproterozoic)
• Đại Tân Nguyên Sinh (Neoproterozoic)
Liên đại Nguyên Sinh

(có lỗi xảy ra, sẽ update sau :()

Các sự kiện chính đã được xác định khá tốt là:
• Sự quá độ sang khí quyển giàu ôxy trong đại Trung Nguyên Sinh.
• Một vài thời kỳ băng hà hóa, bao gồm cả quả cầu tuyết Trái Đất trong kỷ Cryogen ở cuối đại Tân Nguyên Sinh.

Đại Cổ Nguyên Sinh
Đại Cổ Nguyên Sinh (Paleoproterozoic, Palaeoproterozoic) là đại đầu tiên trong số ba đại của liên đại Cổ Sinh (Proterozoic), đã diễn ra từ khoảng 2.500 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 1.600 Ma. Nó khởi đầu khi đại Tân Thái Cổ (Neoarchean) kết thúc. Trong đại này, lần đầu tiên các châu lục được ổn định. Đây cũng là giai đoạn mà các loài vi khuẩn lam tiến hóa. Chúng là loại vi khuẩn có thể sử dụng các phản ứng sinh hóa của quang hợp để sản sinh ra năng lượng và ôxy.
Trước khi có sự gia tăng đáng kể của ôxy trong khí quyển thì gần như tất cả mọi dạng sự sống đều tồn tại dưới dạng kị khí, nghĩa là quá trình trao đổi chất của sự sống phụ thuộc vào dạng hô hấp tế bào không đòi hỏi cần có ôxy. Ôxy dạng tự do với lượng lớn là chất độc cho phần lớn vi khuẩn kị khí, và tới thời điểm đó (khoảng giữa kỷ Sideros) thì phần lớn các dạng sự sống kị khí trên Trái Đất bị tiêu diệt. Sự sống duy nhất có khả năng tồn tại là những dạng có khả năng chống lại quá trình ôxi hóa cũng như các hiệu ứng độc hại của ôxy hoặc những dạng có thể trải qua toàn bộ cuộc đời của chúng trong môi trường giàu ôxy tự do. Sự kiện chính này được gọi là thảm họa ôxy.
Đại Cổ Nguyên Sinh có thể chia thành 4 kỷ địa chất như sau:
• Kỷ Sideros (Siderian) hay kỷ Thành Thiết: khoảng 2.300-2.500 triệu năm trước
• Kỷ Rhyax (Rhyacian) hay kỷ Tằng Xâm: khoảng 2.050-2.300 triệu năm trước
• Kỷ Orosira (Orosirian) hay kỷ Tạo Sơn: khoảng 1.800-2.050 triệu năm trước
• Kỷ Statheros (Statherian) hay kỷ Cố Kết: khoảng 1.600-1.800 triệu năm trước
Trong thời kỳ của đại này thì các siêu lục địa như Nena và Atlantica (khoảng 2.000 Ma) đã hình thành, để sau đó (~ 1.800 Ma) nhập lại thành siêu lục địa Columbia. Siêu lục địa Columbia bắt đầu tách ra vào cuối đại này.
Đại Cổ Nguyên Sinh kết thúc khi đại Trung Nguyên Sinh (Mesoproterozoic) bắt đầu.
 
Last edited by a moderator:
T

thienlangbachoai

Kỷ Sideros hay kỷ Thành Thiết (từ tiếng Hy Lạp sideros, nghĩa là "sắt") là kỷ địa chất đầu tiên của Đại Cổ Nguyên Sinh (Paleoproterozoic) và nó kéo dài từ khoảng 2.500 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 2.300 Ma. Thay vì dựa trên các địa tầng, các thời điểm này được xác định hoàn toàn bằng phương pháp địa thời học.
Sự phổ biến của các sự kiện tạo thành sắt theo dải (BIF) đạt tới đỉnh cao vào đầu kỷ này. BIF được hình thành khi các loài tảo kỵ khí sinh ra ôxy dưới dạng chất thải để nó kết hợp với sắt, tạo thành magnetit (Fe3O4, một loại ôxít sắt). Quá trình này làm hết sắt của đại dương, có lẽ đã làm cho nước biển có màu xanh lục trở thành trong. Cuối cùng, khi không còn ôxy chìm lắng trong các đại dương thì quá trình này tạo ra khí quyển giàu ôxy của ngày nay.
Sự băng hóa Huronia đã bắt đầu trong kỷ Sideros, vào khoảng 2.400 Ma và kết thúc vào cuối kỷ Rhyax (khoảng 2.100 Ma).
Kỷ Rhyax hay kỷ Tằng Xâm (Rhyacian, từ tiếng Hy Lạp: Ρυαξ (rhyax), có nghĩa là "sự xâm nhập của dung nham") là kỷ địa chất thứ hai trong đại Cổ Nguyên Sinh, sau kỷ Sideros và trước kỷ Orosira. Kỷ này kéo dài từ khoảng 2.300 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 2.050 Ma. Các con số niên đại này không được xác định bằng địa tầng mà được xác định bằng địa thời học.
Phức hợp Bushveld và các xâm nhập tương tự khác đã hình thành trong thời kỳ này.
Thời kỳ băng hà Huronia kết thúc vào cuối kỷ Rhyax, khoảng 2.100 Ma.
Kỷ Orosira hay kỷ Tạo Sơn (Orosirian, từ tiếng Hy Lạp: orosira, nghĩa là "dãy núi") là kỷ địa chất thứ ba trong đại Cổ Nguyên Sinh và kéo dài từ khoảng 2.050 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 1.800 Ma. Thay vì dựa trên địa tầng, các niên đại này được xác định bằng địa thời học.
Nửa sau của kỷ này là khoảng thời gian của các hoạt động kiến tạo sơn gần như trên tất cả các lục địa.
Có lẽ trong kỷ này thì khí quyển Trái Đất đã thay đổi sang dạng giàu ôxy do quang hợp của vi khuẩn lam.
Hai sự kiện va chạm lớn nhất đã biết trên Trái Đất diễn ra trong kỷ Orosira. Ở rất gần thời kỳ đầu của kỷ, khoảng 2.023 Ma, va chạm với một tiểu hành tinh đã tạo ra cấu trúc va chạm Vredefort. Sự kiện va chạm đã tạo ra cấu trúc của lòng chảo Sudbury diễn ra vào gần thời kỳ kết thúc của kỷ này, khoảng 1.850 Ma.
Kỷ Statheros hay kỷ Cố Kết (Statherian, từ tiếng Hy Lạp: statheros, nghĩa là "cố kết", "ổn định") là kỷ địa chất thứ tư và là kỷ cuối cùng trong đại Cổ Nguyên Sinh. Nó kéo dài từ khoảng 1.800 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 1.600 Ma. Thay vì dựa trên địa tầng, các niên đại này được xác định bằng địa thời học.
Trong kỷ này sự sống đơn bào phức tạp đầu tiên đã xuất hiện.
Kỷ này được đặc trưng trên phần lớn các lục địa hoặc là bằng các thềm lục địa mới hoặc là sự im lìm hóa cuối cùng của các dải gập nếp.
Siêu lục địa Columbia đã hình thành vào đầu kỷ này.
 
T

thienlangbachoai

Đại Trung Nguyên Sinh (Mesoproterozoic) là một đại địa chất bắt đầu từ khoảng 1.600 triệu năm trước (Ma) và kết thúc vào khoảng 1.000 Ma.
Các sự kiện chính trong đại này là sự hình thành của siêu lục địa Rodinia và sự tiến hóa của sinh sản hữu tính.
Đại này được chia thành ba kỷ như sau:
• Kỷ Calymma (Calymmian) hay kỷ Cái Tằng: khoảng 1.400-1.600 Ma
• Kỷ Ectasis (Ectasian) hay kỷ Duyên Triển: khoảng 1.200-1.400 Ma
• Kỷ Stenos (Stenian) hay kỷ Hiệp Đái: khoảng 1.000-1.200 Ma
Kỷ Calymma hay kỷ Cái Tằng (Calymmian, từ tiếng Hy Lạp: calymma, nghĩa là "che phủ"). Cái Tằng là phiên âm từ tiếng Trung của cụm từ 盖层 với cái ở đây có nghĩa là che phủ, tằng là tầng. Đây là kỷ địa chất thứ nhất trong đại Trung Nguyên Sinh. Nó kéo dài từ khoảng 1.600 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 1.400 Ma. Thay vì dựa trên địa tầng, các niên đại này được xác định bằng địa thời học.
Kỷ này được đặc trưng bằng sự mở rộng của các tầng che phủ đang tồn tại hay bằng các thềm lục địa mới trên các nền móng mới im lìm hóa.
Siêu lục địa Columbia đã tách rời ra trong kỷ Calymma vào khoảng 1.500 Ma.
Kỷ Ectasis hay Kỷ Duyên Triển (Ectasian, từ tiếng Hy Lạp: ectasis, nghĩa là "mở rộng"). Đây là kỷ địa chất thứ hai trong đại Trung Nguyên Sinh. Nó kéo dài từ khoảng 1.400 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 1.200 Ma. Thay vì dựa trên địa tầng, các niên đại này được xác định bằng địa thời học.
Tên gọi này có nguồn gốc từ sự tiếp tục mở rộng của các tầng che phủ trong kỷ này.
Chứng cứ về tảo đỏ nhân chuẩn (Bangiomorpha pubescens) đã được xác định có trong đá cổ có niên đại khoảng 1.200 Ma tại đảo Somerset, Canada. Đây là sinh vật cổ nhất đã biết có sự sinh sản hữu tính và vì thế là sinh vật đa bào phức tạp cổ nhất đã biết
Kỷ Stenos hay kỷ Hiệp Đái (Stenian, từ tiếng Hy Lạp: stenos, nghĩa là "hẹp"). Đây là kỷ địa chất thứ ba và là cuối cùng trong đại Trung Nguyên Sinh. Cụm từ Hiệp Đái là phiên âm từ tiếng Trung của cụm từ 狭带 với nghĩa của hiệp là hẹp, *** là dải. Nó kéo dài từ khoảng 1.200 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 1.000 Ma. Thay vì dựa trên địa tầng, các niên đại này được xác định bằng địa thời học.
Tên gọi này có nguồn gốc từ các dải đá biến chất hẹp được hình thành trong kỷ này.
Siêu lục địa Rodinia đã gắn kết lại trong kỷ Stenos.
 
T

thienlangbachoai

Đại Tân Nguyên Sinh

Đại Tân Nguyên Sinh hay đại Tân Nguyên Cổ (Neoproterozoic) là đại thứ ba và là cuối cùng của liên đại Nguyên Sinh. Nó kéo dài từ khoảng 1.000 triệu năm trước (Ma) tới 542 Ma. Đại Tân Nguyên Sinh có lẽ bao gồm thời kỳ thú vị nhất về mặt địa chất, do trong thời kỳ này Trái Đất đã bị nhiều thời kỳ băng hà mãnh liệt bao trùm, trong đó các vùng bị đóng băng kéo xuống tới tận xích đạo, và trong giai đoạn cuối cùng của đại này (kỷ Ediacara) thì các hóa thạch cổ nhất của sự sống đa bào đã được tìm thấy, bao gồm cả các động vật cổ nhất. Đại Tân Nguyên Sinh cũng là giai đoạn cuối cùng của thời kỳ Tiền Cambri.
Ý tưởng về đại Tân Nguyên Sinh mới chỉ có tương đối gần đây — khoảng sau năm 1960. Các nhà cổ sinh vật học thế kỷ 19 thiết lập sự khởi đầu của sự sống đa bào vào lúc xuất hiện lần đầu tiên của các động vật vỏ cứng gọi là trùng ba thùy và archaeocyatha. Nó cũng là điểm đánh dấu sự khởi đầu của kỷ Cambri. Đầu thế kỷ 20, các nhà cổ sinh vật học đã bắt đầu tìm kiếm thấy các hóa thạch của động vật đa bào có trước kỷ Cambri. Quần động vật phức tạp đã được tìm thấy ở khu vực tây nam châu Phi vào thập niên 1920 nhưng đã bị xác định sai niên đại. Một phát hiện khác ở miền nam Australia trong thập niên 1940 nhưng đã không được kiểm tra kỹ lưỡng cho đến tận cuối thập niên 1950. Các hóa thạch khác có thể cũng là rất cổ cũng đã được phát hiện tại Nga, Anh, Canada và một vài nơi khác (xem Vùng sinh vật kỷ Ediacara). Một số đã được xác định là giả hóa thạch, nhưng số còn lại đã cho thấy chúng là thành viên của các vùng sinh vật phức tạp mà hiện còn ít được hiểu rõ. Ít nhất có 20 khu vực trên khắp thế giới đã cung cấp các hóa thạch động vật có niên đại trước ranh giới kỷ Cambri kinh điển.
Một số ít các động vật thời kỳ đầu này dường như có thể là tổ tiên của các động vật ngày nay. Phần lớn trong số chúng rơi vào các nhóm mơ hồ bao gồm các động vật tương tự như u hình lá; hình đĩa mà có thể bám vào các động vật có cuống ("medusoid"); các dạng tương tự như các tấm nệm; các ống nhỏ vỏ đá vôi và các động vật có áo giáp với nguồn gốc không rõ ràng. Tất cả các động vật này nói chung được gọi là các động vật kỷ Ediacara (hay kỷ Vendia). Phần lớn trong chúng có thân mềm. Các quan hệ, nếu có, với các dạng sự sống hiện đại là hoàn toàn khó hiểu. Một số nhà cổ sinh vật học liên hệ nhiều hay phần lớn các dạng này với các động vật hiện đại. Những người khác chấp nhận rất ít khả năng hay thậm chí là các quan hệ rất có khả năng nhưng cảm thấy rằng phần lớn các dạng sự sống kỷ Ediacara là các đại diện của các loại động vật chưa biết nào đó.
Về mặt địa chất, đại Tân Nguyên Sinh được cho là thời gian của các chuyển động lục địa phức tạp do siêu lục địa gọi là Rodinia đã vỡ ra tối đa thành 8 phần. Rất có thể là do hậu quả của trôi dạt lục địa mà một vài thời kỳ băng hà rộng lớn khắp thế giới đã diễn ra trong đại này, bao gồm các thời kỳ băng hà trong kỷ Cryogen như Sturtia và Marinoa, là những thời kỳ băng hà mãnh liệt nhất trên Trái Đất mà người ta đã biết. Các thời kỳ này được cho là mãnh liệt tới mức các chỏm băng xuống tới tận xích đạo, dẫn tới tình trạng gọi là "quả cầu tuyết Trái Đất".
Danh pháp quốc tế cho đại Tân Nguyên Sinh đã từng rất không thống nhất trong quá khứ. Các nhà địa chất Nga gọi kỷ cuối cùng của đại này là Vendia, và các nhà địa chất Trung Quốc gọi nó là Sinia, còn phần lớn các nhà địa chất Australia và Bắc Mỹ sử dụng tên gọi Ediacara. Tuy nhiên, ngày 13 tháng 5 năm 2004, Hiệp hội địa chất học quốc tế đã thông qua tên gọi kỷ Ediacara là một kỷ địa chất trong đại Tân Nguyên Sinh, kéo dài từ 635 tới 544 Ma.
Kỷ Tonas (từ tiếng Hy Lạp tonas nghĩa là "duỗi", "kéo dãn") hay kỷ Lạp Thân (từ tiếng Trung: với Lạp là "lôi kéo", Thân là "duỗi") (tiếng Anh: Tonian). Đây là kỷ địa chất đầu tiên trong đại Tân Nguyên Sinh (Neoproterozoic) và kéo dài từ khoảng 1.000 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 850 Ma. Thay vì xác định bằng địa tầng, các niên đại này được ICS xác định bằng phương pháp đo phóng xạ trong địa thời học.
Các sự kiện dẫn tới sự phá vỡ siêu lục địa Rodinia đã bắt đầu trong kỷ này.
Sự lan tỏa của các loài acritarch diễn ra trong kỷ Tonas.

Kỷ Cryogen hay kỷ Thành Băng (từ tiếng Hy Lạp cryos nghĩa là "băng" và genesis nghĩa là "sinh ra") là kỷ thứ hai của đại Tân Nguyên Sinh, ngay sau kỷ Tonas và trước kỷ Ediacara. Kỷ Cryogen bao gồm các thời kỳ băng hà Sturtia và Marinoa (trước đây được coi gộp cùng nhau như là thời kỳ Varanger), và nó kéo dài từ khoảng 850 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 635 Ma. Thay vì dựa trên các địa tầng, các niên đại này được Ủy ban quốc tế về địa tầng học (ICS) xác định bằng địa thời học (xác định bằng phép đo lượng đồng vị phóng xạ).
Tên gọi này có nguồn gốc từ các trầm tích băng hà đặc trưng của thời kỳ này, chỉ ra rằng vào thời kỳ đó, Trái Đất đã phải hứng chịu các thời kỳ đóng băng mãnh liệt nhất trong lịch sử của mình, với các sông băng trải dài tới tận xích đạo, với một loạt các dao động nhịp nhàng. Các thời kỳ đóng băng này được đặc trưng bằng các trầm tích sét tảng lăn tại Congo, Sahara, Oman, Australia, Trung Quốc, Bắc Mỹ, Ireland, Scotland, Na Uy và nhiều nơi khác khắp trên thế giới. Nói chung nó được coi là có thể chia ra làm ít nhất là 2 thời kỳ đóng băng chính. Thời kỳ băng hà Sturtia kéo dài từ khoảng 750 tới 700 Ma và thời kỳ băng hà Marinoa/Varanger kết thúc vào khoảng 635 Ma. Các trầm tích sét tảng lăn cũng có mặt tại các khu vực mà trong kỷ Cryogen nằm ở các khu vực có vĩ độ thấp, một hiện tượng dẫn đến giả thuyết về việc các đại dương của hành tinh bị đóng băng rất sâu, gọi là "quả cầu tuyết Trái Đất".
Quần thể acritarch bị tàn phá tan tành trong thời kỳ đóng băng này. Người ta cho rằng nồng độ ôxy trong khí quyển Trái Đất đã tăng lên sau thời kỳ đóng băng này. Có hàng loạt các đặc trưng khó hiểu về thời kỳ băng hà này, bao gồm các chỉ thị về sự đóng băng tại các vĩ độ rất thấp và sự hiện diện của các miếng nêm đá vôi — mà thông thường chúng chỉ là các trầm tích của nước ấm — phía trên, phía dưới và lẫn lộn với các trầm tích băng hà. Sự tái xuất hiện của các thành hệ sắt dải gắn liền với thời kỳ băng hà mà người ta đã không còn tìm thấy kể từ đại Cổ Nguyên Sinh, cũng nhất thời quay trở lại, cho thấy các mức nồng độ ôxy thấp và không ổn định.
Các nghiên cứu cổ từ học dường như chỉ ra tốc độ trôi dạt lục địa rất cao, điều này làm cho một số nhà địa chất đặt câu hỏi về việc liệu có hay không việc một số trong các hiện tượng này là do sự lệch hướng của cực từ chứ không phải là do chuyển động của các mảng đất đá và sự đóng băng tại các vĩ độ thấp [cần dẫn nguồn]. Về cơ bản, sự phân bổ rất không cân xứng của lớp vỏ làm cho chuyển động tự quay của Trái Đất gây ra lực ly tâm có thể làm cho Trái Đất phải quay (trong khi trục tự quay của nó vẫn nghiêng theo cùng một hướng) cho đến khi sự kết hợp của các châu lục là nằm trên xích đạo; điều này làm cho sự trôi dạt lục địa dường như nhanh hơn so với tốc độ trung bình.
Các thời kỳ băng hà khác đã biết bao gồm Huronia từ khoảng 2.400 Ma tới 2.100 Ma, thời kỳ băng hà Andea-Sahara hay thời kỳ băng hà kỷ Ordovic từ khoảng 450 Ma tới 420 Ma, thời kỳ băng hà Karoo hay thời kỳ băng hà kỷ Than Đá-kỷ Permi từ 360 Ma tới 260 Ma cũng như thời kỳ băng hà trong phân đại đệ Tứ của đại Tân Sinh bắt đầu vào khoảng 30 Ma tại châu Nam Cực và hiện vẫn còn diễn tiến.
 
T

thienlangbachoai

Kỷ Ediacara (635 tới 542 Ma) được đặc trưng bằng sự tiến hóa của các sinh vật đa bào thân mềm khá phổ biến. Hồ sơ địa chất


Lower Proterozoic Stromatolites from Bolivia, South America
Hồ sơ địa chất liên đại Nguyên Sinh là tốt hơn nhiều so với liên đại trước đó là liên đại Thái Cổ (Archean). Ngược lại với các trầm tích biển sâu của liên đại Thái Cổ, liên đại Nguyên Sinh được đặc trưng bằng nhiều địa tầng được sắp đặt trên các biển thềm lục địa nông trải rộng; ngoài ra, phần nhiều trong số các loại đá này ít bị biến chất hơn so với các loại đá thời kỳ Thái Cổ. Nghiên cứu các loại đá này chỉ ra rằng đặc trưng nổi bật của liên đại này là sự lớn dần lên của lục địa khá nhanh và có quy mô lớn (là duy nhất trong liên đại Nguyên Sinh), các chu kỳ siêu lục địa và các hoạt động kiến tạo sơn hiện đại hoàn toàn.
Các sự kiện băng hà hóa đã biết đầu tiên diễn ra trong liên đại Nguyên Sinh; một trong số đó bắt đầu chỉ ngay sau khi liên đại này bắt đầu, trong khi có ít nhất 4 sự kiện như thế diễn ra trong đại Tân Nguyên Sinh, đạt tới đỉnh cao với "quả cầu tuyết Trái Đất" của băng hà Varangia.
Liên giới trong địa tầng học của liên đại này được gọi là liên giới Nguyên sinh.
Tích tụ ôxy
Một trong những sự kiện quan trọng nhất của liên đại Nguyên Sinh là sự tích lũy ôxy trong khí quyển Trái Đất. Mặc dù sự giải phóng ôxy do quang hợp từ thời kỳ Thái Cổ là điều không còn nghi ngờ gì nữa, nhưng trong thời kỳ đó sự tích tụ ôxy chưa đủ lớn cho đến khi quá trình chìm lắng hóa học của các chất như lưu huỳnh và sắt không bị ôxi hóa đã được thực hiện xong. Vào khoảng 2,3 tỷ năm trước, ôxy trong khí quyển có lẽ chỉ đạt được mức khoảng 1-2% của mức như ngày nay. Các tạo thành sắt theo dải, cung cấp phần lớn các quặng sắt trên thế giới, cũng là lắng đọng hóa học đáng chú ý. Phần lớn các tích tụ đã giảm mạnh sau 1.900 Ma, hoặc là do sự gia tăng của ôxy hoặc là thông qua sự phối trộn của các cột nước đại dương.
Các địa tầng đỏ, có màu như vậy là do hematit, một chỉ thị cho sự gia tăng của ôxy trong khí quyển sau 2 tỷ năm trước; chúng không được tìm thấy trong các tầng đá cổ hơn. Sự tích tụ ôxy có lẽ là do 2 yếu tố: sự nhồi đầy của các chất chìm lắng hóa học và sự gia tăng của sự chôn vùi cacbon, nó cô lập các hợp chất hữu cơ mà nếu không thì chúng rất dễ dàng bị ôxi hóa bởi ôxy trong khí quyển.
Sự sống
Sự sống đơn bào và đa bào tiên tiến đầu tiên đã xảy ra gần như đồng thời với sự tích lũy ôxy. Điều này có thể là do sự gia tăng trong các nitrat đã ôxi hóa mà các động vật nhân chuẩn sử dụng, ngược lại với vi khuẩn lam. Cũng trong liên đại Nguyên Sinh thì quan hệ cộng sinh đầu tiên giữa các ti thể (đối với động vật và sinh vật nguyên sinh) và các lạp lục (đối với thực vật) và các vật chủ của chúng cũng đã tiến triển.
Sự phát triển thịnh vượng của các sinh vật nhân chuẩn như acritarch không ngăn cản sự bành trướng của vi khuẩn lam; trên thực tế, các stromatolit đạt tới đỉnh cao nhất của sự phổ biến và đa dạng trong liên đại Nguyên Sinh, vào khoảng 1,2 tỷ năm trước.
Theo truyền thống, ranh giới giữa liên đại Nguyên Sinh và đại Cổ Sinh (Paleozoic) của liên đại Hiển Sinh được thiết lập tại phần bắt đầu của kỷ Cambri khi các hóa thạch đầu tiên của các động vật được biết đến dưới tên gọi trùng ba thùy và archeocyatha xuất hiện. Trong nửa sau của thế kỷ 20, một loạt các dạng hóa thạch đã được tìm thấy trong các lớp đá của liên đại Nguyên Sinh, nhưng ranh giới trên của liên đại Nguyên Sinh vẫn được chốt tại phần đáy (sự khởi đầu) của kỷ Cambri, mà hiện nay coi là khoảng 542 Ma.

Phân chia
Kỷ Cambri diễn ra sau đại Tân Nguyên Sinh và trước kỷ Ordovic. Kỷ Cambri trước đây được chia thành 3 thế - là Cambri sớm (Cambri hạ, Caerfai hay Waucoban), Cambri giữa (Cambri trung St. Davids hay Albertian) và Cambri muộn/thượng (Merioneth hay Croixan) hay như hiện nay trong địa tầng học là 4 thống - là thống Terreneuve (tương đương với Cambri sớm), thống 2 và thống 3 chưa đặt tên (tương đương Cambri giữa) và thống Phù Dung (tương đương Cambri muộn).
Mỗi thống hiện tại được chia ra thành 2-3 tầng, làm cho kỷ Cambri có 10 tầng. Tuy nhiên, vào thời điểm tháng 8 năm 2008 chỉ có 3 tầng là tầng Fortune (năm 1992), tầng Bài Bích (2003) và tầng Drum (2006) là được ICS công nhận. Các tầng khác hiện vẫn chưa được đặt tên. Tầng Cổ Trượng là tên gọi dự kiến được thông qua năm 2009. Bên cạnh đó, các tầng 5 và 9 dự kiến sẽ có tên gọi trong năm 2008; các tầng 3, 4, 10 dự kiến sẽ có tên gọi trong năm 2009 còn tầng 2 thì hiện tại vẫn chưa quyết định sự kiện chỉ dẫn là gì. (Nguồn: ICS).
Ngoài ra, kỷ Cambri cũng được phân chia thành một số tầng mang tính khu vực như bảng sau, trong đó hệ thống Nga-Kazakhstan được sử dụng nhiều nhất trong các văn bản quốc tế(sẽ đề cập trong bài sau)
 
T

thienlangbachoai

PHẦN II:Đại Cổ sinh
Đại Cổ sinh (Paleozoic) là một đơn vị phân chia chính trong niên đại địa chất, một trong bốn đại chính[1]. Sự phân chia thời gian ra thành các đại, đơn vị lớn nhất trong niên biểu địa chất vào thời kỳ ban đầu có xuất xứ từ Giovanni Arduino vào thế kỷ 18, mặc dù tên gọi chính thức của ông cho đại mà ngày nay gọi là đại Cổ sinh đã là "Primitive" (xem Đại địa chất để biết thêm chi tiết). Từ paleozoic có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp palaio (cổ, cũ) và zoion (động vật) và có nghĩa là "sự sống cổ".
Các kỷ trong đại Cổ sinh


Trái Đất khoảng 290 triệu năm trước
Đại Cổ sinh bao gồm 6 kỷ địa chất; từ cổ nhất đến trẻ nhất là: kỷ Cambri, kỷ Ordovic, kỷ Silur, kỷ Devon, kỷ Than Đá (Carboniferous) (bao gồm thế Mississippi và thế Pennsylvania tại Bắc Mỹ) và kỷ Permi. Nó trải rộng từ khoảng 542 triệu năm trước (MA) tới khoảng 251 MA (theo Ủy ban quốc tế về địa tầng học (ICS), 2004). Nó diễn ra sau đại tiền Cambri và tiếp theo nó là đại Trung sinh.
Sự sống
Đại Cổ sinh bao gồm khoảng thời gian từ lúc bắt đầu xuất hiện các hóa thạch vỏ cứng và phổ biến đầu tiên tới thời gian khi các lục địa bắt đầu được chiếm lĩnh bởi các loài bò sát lớn, tương đối phức tạp và các loài thực vật tương đối hiện đại. Ranh giới dưới (cổ nhất) được quy định một cách kinh điển là khi có sự xuất hiện đầu tiên của các sinh vật gọi là trùng ba lá (lớp Trilobita) và Archeocyatha. Ranh giới trên (trẻ nhất) được quy định là khi diễn ra sự kiện tuyệt chủng lớn khoảng 300 triệu năm sau, được biết đến như là tuyệt chủng Permi. Ngày nay ranh giới dưới được thiết lập là khi có sự xuất hiện lần đầu tiên của dấu vết hóa thạch đặc biệt, gọi là Trichophycus pedum.


Trùng ba thùy đã thịnh vượng trong suốt cả thời kỳ Hậu Đại Cổ sinh cho đến khi bị tuyệt chủng vào kỷ Permi.
Vào đầu đại này thì sự sống chỉ hạn chế bao gồm vi khuẩn, tảo, hải miên (bọt biển) và các dạng khác nhau của dạng sống có phần bí ẩn, gọi chung là hệ động vật Ediacara. Một lượng lớn động, thực vật đa bào đã xuất hiện gần như đồng thời vào đầu đại -- một hiện tượng được biết đến như là sự bùng nổ Cambri. Có một số chứng cứ cho thấy sự sống đơn giản có thể đã xâm chiếm mặt đất vào đầu đại Cổ sinh, nhưng các loài động, thực vật đáng kể đã không chiếm mặt đất cho đến tận kỷ Silur và đã không phát triển tốt cho đến tận kỷ Devon. Mặc dù các động vật có xương sống nguyên thủy cũng đã được biết đến ở giai đoạn gần đầu đại này, nhưng các dạng động vật vẫn chủ yếu là động vật không xương sống cho đến tận giữa đại Cổ sinh. Quần thể cá đã bùng nổ trong kỷ Devon. Vào giai đoạn cuối đại Cổ sinh, một loạt các cánh rừng lớn của các loài thực vật nguyên thủy đã phát triển mạnh trên đất liền, tạo thành một tầng than lớn ở châu Âu và miền đông Bắc Mỹ ngày nay. Vào cuối đại này thì những loài bò sát lớn và phức tạp đầu tiên cũng như các loài thực vật hiện đại đầu tiên (thông, tùng, bách) đã phát triển.
Kiến tạo
Về mặt địa chất, đại Cổ sinh bắt đầu khi có sự chia tách của siêu lục địa gọi là Rodinia và vào cuối của thời kỳ băng hà toàn cầu. (Xem sự đóng băng Varanger và Quả cầu tuyết Trái Đất). Trong cả giai đoạn đầu của đại Cổ sinh, các khối đất đá của Trái Đất bị chia nhỏ thành một lượng đáng kể các lục địa tương đối nhỏ. Vào cuối đại này, các lục địa lại tập hợp lại cùng nhau thành một siêu lục địa mới gọi là Pangea, nó bao gồm phần lớn diện tích đất đai của Trái Đất.
Niên đại của kỷ Cambri
Khoảng thời gian của kỷ Cambri về mặt kinh điển được cho là từ khoảng 500 Ma tới khoảng 570 Ma. Ranh giới dưới (sớm) của kỷ Cambri theo truyền thống được thiết lập khi có sự xuất hiện sớm nhất của các loại động vật chân đốt (ngành Arthropoda) nguyên thủy được biết đến như là bọ ba thùy (lớp Trilobita) và các dạng động vật nguyên thủy tựa như san hô sừng, được biết đến như là Archaeocyatha. Sự kết thúc của kỷ này cuối cùng được thiết lập theo sự thay đổi tương đối rõ ràng trong hệ động vật mà hiện nay đã xác định như là sự kiện tuyệt chủng. Các khám phá hóa thạch và xác định niên đại bằng phóng xạ trong khoảng 25 năm cuối thế kỷ 20 đã đưa các số liệu thời đại này vào trong câu hỏi. Sự chênh lệch về thời gian lên tới 20 triệu năm là phổ biến giữa các học giả. Khoảng thời gian khoảng 545 đến 490 Ma đã được tiểu ủy ban quốc tế về địa tầng học toàn cầu đưa ra gần đây vào năm 2002.
Dữ liệu xác định niên đại bằng phóng xạ từ New Brunswick đã đặt sự kết thúc của kỷ này vào khoảng 511 Ma. Kết quả này bỏ lại khoảng 21 triệu năm cho hai giai đoạn khác của kỷ Cambri.
Dữ liệu niên đại chính xác hơn 542 ± 0,3 Ma cho sự kiện tuyệt chủng vào đầu kỷ Cambri đã được đưa ra gần đây. Cơ sở hợp lý cho niên đại chính xác này là một điều thú vị do nó là một hình mẫu của nguyên lý suy diễn cổ sinh vật học. Ở ranh giới của kỷ Cambri, một cách chính xác là đã có sự suy giảm rõ nét trong mức độ phổ biến của đồng vị C13, một 'đường đảo ngược' mà các nhà cổ sinh vật học gọi là sự lệch hướng. Một điều cũng khá phổ biến là nó lại là chỉ số tốt nhất về vị trí của ranh giới tiền Cambri-Cambri trong các lớp địa tầng với niên đại xấp xỉ như vậy. Một trong những khu vực mà sự lệch hướng của cacbon-13 đã được biết rất rõ này diễn ra tại Oman. Amthor (2003) miêu tả các chứng cứ từ Oman đã chỉ ra sự lệch hướng của đồng vị cacbon có liên quan đến sự tuyệt chủng hàng loạt: Sự biến mất các hóa thạch rõ ràng từ thời tiền Cambri trùng khớp một cách chính xác với các bất thường của cacbon-13. Một điều may mắn là tại các lớp đá Oman, cũng như từ các lớp tro núi lửa mà từ đó dựa trên đồng vị của ziricon người ta đã đưa ra niên đại khá chính xác là 542 ± 0,3 Ma (tính toán trên tỷ lệ phân rã urani thành chì). Niên đại mới và chính xác này phù hợp với niên đại ít chính xác hơn đối với các dị thường của cacbon-13, thu được từ các lớp đá tại Siberi và Namibia. Các dữ liệu này có lẽ sẽ được chấp nhận như là niên đại chính xác cuối cùng cho giai đoạn bắt đầu của thời Hiển sinh (Phanerozoic), và vì thế là sự bắt đầu của đại Cổ sinh và kỷ Cambri.
 
T

thienlangbachoai

Cổ địa lý học kỷ Cambri

Laurentia
Siberi
Baltica
Gondwana

Phân bố lục địa trong kỷ Cambri
Các lục địa trong kỷ Cambri được cho là kết quả từ sự vỡ ra của siêu lục địa trong đại Tân Nguyên Sinh là Pannotia. Nước trong thời kỳ thuộc kỷ Cambri dường như là trải rộng và nông. Gondwana vẫn là siêu lục địa lớn nhất sau khi Pannotia vỡ ra. Người ta cũng cho rằng khí hậu thời kỳ này là nóng hơn một cách đáng kể so với thời gian trước đó, thời gian mà Trái Đất hứng chịu các thời kỳ băng hà mạnh đã được coi như là sự đóng băng Varanger (kỷ Thành băng). Bên cạnh đó đã không có sự đóng băng tại hai địa cực. Tỷ lệ trôi dạt lục địa trong kỷ Cambri có thể là cao bất thường. Laurentia, Baltica và Siberi vẫn là các lục địa độc lập kể từ khi Pannotia vỡ ra. Gondwana bắt đầu trôi dạt về phía cực Nam. Panthalassa che phủ phần lớn Nam bán cầu, các đại dương nhỏ có đại dương Proto-Tethys, đại dương Iapetus và đại dương Khanty, tất cả chúng đều mở rộng trong thời gian này.
Hệ động vật kỷ Cambri


Hóa thạch trùng ba lá Redlichia chinensis kỷ Cambri tại Trung Quốc.
Bên cạnh một số dạng sự sống bí ẩn mà có thể coi là động vật hoặc không là động vật, tất cả các ngành động vật hiện đại trong bất kỳ mẫu hóa thạch nào có thể đề cập tới, ngoại trừ ngành Bryozoa, dường như đều có các đại diện trong kỷ Cambri. Tất cả chúng, ngoại trừ hải miên (Porifera), dường như có sự khởi đầu chỉ ngay sau hoặc ngay trước khi bắt đầu kỷ này. Tuy nhiên, một vài ngành hiện đại, chủ yếu là các ngành với thân nhỏ hoặc mềm, không có mẫu hóa thạch trong kỷ Cambri. Nhiều ngành động vật đã tuyệt chủng, kỳ cục và có quan hệ không rõ ràng với các động vật khác, cũng xuất hiện trong kỷ Cambri. Sự xuất hiện dường như là "bất ngờ" của hệ động vật đa dạng trong một khoảng thời gian không quá vài chục triệu năm này được coi là "Sự bùng nổ kỷ Cambri".
Khu vực được nghiên cứu kỹ nhất mà tại đó các phần mềm của các sinh vật hóa thạch nằm trong đá phiến sét Burgess ở British Columbia. Chúng đại diện cho các địa tầng thời Cambri giữa và cung cấp nhiều thông tin cho con người về sự đa dạng động vật thời kỳ đó. Các hệ động vật tương tự lần lượt sau đó cũng được tìm thấy tại nhiều khu vực khác - quan trọng nhất là trong các lớp đá phiến sét giai đoạn Cambri sớm tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (xem đá phiến sét Trừng Giang). Các hệ động vật thời kỳ tiền Cambri thuộc kỷ Ediacara cũng đã được nhận dạng trong 50 năm qua, nhưng quan hệ của chúng với các dạng sự sống động vật kỷ Cambri là hoàn toàn mờ mịt.
Tên gọi
Cambri là tên gọi lấy theo Cambria, tên gọi cũ của Wales, khu vực mà các loại đá thuộc kỷ này đã được nghiên cứu lần đầu tiên.
 
T

thienlangbachoai

đại cổ sinh :
_kỷ Cambri
_kỷ Ordovic
_kỷ Silur
_kỷ Devon
_kỷ Than đá
_kỷ Permi

Kỷ Ordovic là kỷ thứ hai trong số sáu (bảy tại Bắc Mỹ)[1] kỷ của đại Cổ Sinh. Nó diễn ra sau kỷ Cambri và ngay sau nó là kỷ Silur. Kỷ Ordovic, được đặt tên theo tên gọi của một bộ lạc người đã từng sinh sống tại vùng đất thuộc Wales (Xứ Uên/Xứ Gan) ngày nay, có tên gọi là Ordovices. Nó được Charles Lapworth đưa ra năm 1879 để giải quyết các tranh cãi giữa những người theo trường phái của Adam Sedgwick với những người theo trường phái của Roderick Murchison (hai người này đã xếp đặt cùng các tầng đá ở miền bắc Wales vào các kỷ Cambri và Silur). Lapworth nhận ra rằng các hóa thạch động vật trong các địa tầng đang tranh cãi khi đó là khác hẳn với các hóa thạch tại các địa tầng thuộc kỷ Cambri cũng như thuộc kỷ Silur và ông cho rằng chúng phải được xếp đặt lại trong một kỷ riêng dành cho chính chúng.
Trong khi việc thừa nhận kỷ Ordovic diễn ra tại Vương quốc Anh khá chậm chạp thì tại các khu vực khác trên thế giới người ta lại chấp nhận nó khá nhanh chóng. Nó nhận được sự phê chuẩn quốc tế vào năm 1906, khi nó được Đại hội Địa chất Quốc tế chấp nhận coi là một kỷ chính thức của đại Cổ Sinh.
Niên đại
Kỷ Ordovic bắt đầu với một sự kiện tuyệt chủng nhỏ vào khoảng 488,3 triệu năm trước (Ma) và kéo dài trong khoảng 44,6 triệu năm. Nó kết thúc bằng một sự kiện tuyệt chủng lớn vào khoảng 443,7 Ma (ICS, 2004) với sự tuyệt diệt của khoảng 60% các chi sinh vật biển. A. Melott và những người khác (2006) đã đặt ra giả thuyết là một vụ bùng nổ bức xạ gamma kéo dài khoảng 10 giây có thể là nguyên nhân cho sự tuyệt chủng này, do nó tiêu hủy tầng ôzôn và làm cho các sinh vật sống trên mặt đất cũng như gần mặt biển bị phơi nhiễm phóng xạ; tuy nhiên, phần lớn các nhà khoa học khác vẫn tiếp tục cho rằng sự kiện tuyệt chủng này là phức tạp với nhiều nguyên nhân khác nhau. Niên đại đưa ra tại đây là niên đại xác định theo các phương pháp đo phóng xạ gần đây và nó có thể khác biệt không lớn với các niên đại được sử dụng trong các nguồn khác.
Các tầng đá thuộc kỷ Ordovic chứa một lượng lớn hóa thạch và chứa các bể dầu mỏ cùng hơi đốt chính ở một số khu vực.
Các phân kỷ/thế
Kỷ Ordovic thường được chia nhỏ thành các thế là Tiền (Tremadoc và Arenig), Trung (Llanvirn [lại phân chia thành Abereiddian và Llandeilian]) và Hậu (Caradoc và Ashgill). Các tầng đá tương ứng của hệ thống kỷ Ordovic cũng được nhắc đến tương ứng như là Hạ, Trung và Thượng Ordovic. Các tầng động vật (các đơn vị chia nhỏ của các thế) từ trẻ nhất đến già nhất là:
• Hirnantian/Gamach (Hậu-Ashgill)
• Rawtheyan/Richmond (Hậu-Ashgill)
• Cautleyan/Richmond (Hậu-Ashgill)
• Pusgillian/Maysville/Richmond (Hậu-Ashgill)
• Trenton (Trung-Caradoc)
• Onnian/Maysville/Eden (Trung-Caradoc)
• Actonian/Eden (Trung-Caradoc)
• Marshbrookian/Sherman (Trung-Caradoc)
• Longvillian/Sherman (Trung-Caradoc)
• Soundleyan/Kirkfield (Trung-Caradoc)
• Harnagian/Rockland (Trung-Caradoc)
• Costonian/Black River (Trung-Caradoc)
• Chazy (Trung-Llandeilo)
• Llandeilo (Trung-Llandeilo)
• Whiterock (Trung-Llanvirn)
• Llanvirn (Trung-Llanvirn)
• Cassinian (Tiền-Arenig)
• Arenig/Jefferson/Castleman (Tiền-Arenig)
• Tremadoc/Deming/Gaconadian (Tiền-Tremadoc)
Cổ địa lý học
Trong kỷ Ordovic thì mực nước biển là khá cao; trên thực tế trong thế Tremadoc thì biển lấn đất liền là mạnh nhất với các chứng cứ còn lưu lại dấu tích trong các lớp đá.
Thời kỳ này thì các lục địa phía nam đã hợp lại thành một lục địa duy nhất, gọi là Gondwana. Vào đầu kỷ Ordovic thì lục địa này nằm ở các vĩ độ gần xích đạo và dần dần trôi dạt xuống Nam cực. Thời kỳ Tiền Ordovic được cho là rất ấm, ít nhất là tại các vĩ độ thuộc miền nhiệt đới. Giống như Bắc Mỹ và châu Âu, Gondwana chủ yếu được các biển nông bao bọc trong suốt kỷ Ordovic.Các vùng nước nông và trong suốt trên các thềm lục địa đã tạo điều kiện cho sự phát triển của các nhóm sinh vật có khả năng tích tụ cacbonat canxi trong lớp mai (vỏ) hay các phần cứng của chúng. Đại dương Panthalassa bao phủ phần lớn Bắc bán cầu, các đại dương/biển nhỏ khác như Proto-Tethys, Paleo-Tethys, Khanty (chúng đã bị khép lại vào cuối kỷ Ordovic), đại dương Iapetus và một đại dương mới là Rheic.
Các loại đá thuộc kỷ Ordovic chủ yếu là đá trầm tích. Do diện tích và cao độ của khu vực đất liền là hạn chế nên nó đã hạn chế hiện tượng xói mòn và vì thế các trầm tích biển chủ yếu là chứa đá vôi. Các trầm tích đá phiến sét và đá cát thì ít hơn.
Hiện tượng kiến tạo núi chính trong kỷ này là kiến tạo núi Taconic đã diễn ra từ thời gian thuộc kỷ Cambri.
Vào cuối kỷ Ordovic thì Gondwana đã trôi dạt tới gần Nam cực và bề mặt của nó phần lớn bị đóng băng.
Động vật
Tại Bắc Mỹ và châu Âu, kỷ Ordovic là thời gian của các biển cạn rất giàu sự sống. Cụ thể là các loài bọ ba thùy (ngành Trilobita) và động vật tay cuốn (ngành Brachiopoda) đã rất nhiều và đa dạng. Những động vật hình rêu (ngành Bryozoa) đầu tiên đã xuất hiện trong kỷ Ordovic cũng giống như là các loài san hô (lớp Anthozoa) tạo đá ngầm đầu tiên. Các loại san hô đơn độc thì đã xuất hiện ít nhất là từ kỷ Cambri. Động vật thân mềm (ngành Mollusca) đã xuất hiện từ kỷ Cambri trở thành phổ biến và đa dạng trong kỷ này, đặc biệt là các nhóm động vật hai mảnh vỏ (lớp Bivalvia), động vật chân bụng (lớp Gastropoda) và phân lớp Nautiloidea của động vật chân đầu (lớp Cephalopoda). Trong một thời gian dài người ta cho rằng những động vật có xương sống thực sự đầu tiên (cá thuộc lớp Ostracodermi) cũng xuất hiện trong kỷ Ordovic, nhưng các phát hiện gần đây ở Trung Quốc đã cho thấy chúng có lẽ có nguồn gốc vào đầu kỷ Cambri. Những loài cá có hàm đầu tiên xuất hiện vào cuối kỷ này. Các loài động vật biển hiện nay đã tuyệt chủng, được gọi là Graptolita cũng rất thịnh vượng trong lòng đại dương. Một vài loài động vật thuộc các lớp Phao biển (Cystoidea) và Huệ biển (Crinoidea) cũng đã xuất hiện.
 
T

thienlangbachoai

Thực vật
Những loài thực vật đầu tiên trên đất liền đã xuất hiện trong dạng của các cây nhỏ trông giống như rêu tản (ngành Marchantiophyta). Người ta cũng đã tìm thấy các hóa thạch của phấn (hoa) vào cuối kỷ Ordovic. Các loài thực vật này có lẽ đã tiến hóa từ tảo lục. Kể từ cuối kỷ Cambri (và có lẽ còn sớm hơn) thì tảo lục cũng rất phổ biến,.
Nấm
Các loài nấm trên đất liền có lẽ đã xuất hiện vào cuối kỷ Ordovic, nối tiếp theo sau thực vật trên đất liền, mặc dù cho tới nay người ta vẫn chưa tìm thấy các bào tử hóa thạch với niên đại vào thời gian này. Tuy nhiên, các loài nấm biển đã rất phổ biến trong các đại dương thuộc kỷ Ordovic để phân hủy các xác chết của động vật cũng như các loại chất thải khác.
Kết thúc
Kỷ Ordovic đến hồi kết thúc bằng một loạt các sự kiện tuyệt chủng, mà cùng với nhau chúng hợp thành sự kiện tuyệt chủng lớn thứ hai trong số 5 sự kiện tuyệt chủng chính trong Lịch sử Trái Đất theo tỷ lệ phần trăm các chi bị tuyệt chủng. Sự kiện tuyệt chủng lớn hơn cả là Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias.
Các sự kiện tuyệt chủng đã diễn ra vào khoảng 444-447 triệu năm trước và chúng đánh dấu ranh giới giữa kỷ Ordovic với kỷ tiếp theo là kỷ Silur. Vào thời gian đó tất cả các sinh vật đa bào phức tạp đều sinh sống trong lòng đại dương và khoảng 49% các chi động vật đã biến mất hoàn toàn; các ngành tay cuộn và động vật hình rêu đã bị suy giảm đi nhiều, cùng với nhiều loài bọ ba thùy, các loài "cá" (nhiều) răng nón (lớp Conodonta) và nhóm Graptolita.
Giả định được chấp nhận rộng rãi nhất là các sự kiện này đã do sự bắt đầu của một thời kỳ băng hà gây ra, trong tầng động vật Hirnantian, để kết thúc các điều kiện nhà kính ổn định và kéo dài của kỷ Ordovic. Thời kỳ băng hà này có lẽ đã không kéo dài như người ta đã từng nghĩ; nghiên cứu các đồng vị ôxy trong các hóa thạch của động vật tay cuộn chỉ ra rằng nó có lẽ đã không kéo dài quá 0,5 đến 1,5 triệu năm (Stanley, 358). Sự kiện này diễn ra ngay sau khi có sự sụt giảm lượng điôxít cacbon trong khí quyển và nó có ảnh hưởng mang tính chọn lọc tới các biển nông là khu vực mà đa số các sinh vật sinh sống. Do siêu lục địa phía nam là Gondwana đã trôi dạt tới Nam cực nên các chỏm băng đã hình thành trên bề mặt nó, điều này đã được phát hiện trong các tầng đá thuộc thời kỳ Thượng Ordovic ở Bắc Phi và đông bắc Nam Mỹ, khi đó là cận kề nhau và có vị trí tại khu vực quanh cực nam vào thời gian này.
Băng hóa đã giam giữ nước khỏi các đại dương, còn giai đoạn giữa các kỷ băng hà lại giải phóng nó. Điều này làm cho mực nước biển xuống và lên lặp lại theo thời gian và mang tính chu kỳ. Các biển nông, rộng lớn và cận lục địa trong kỷ Ordovic đã bị rút xuống và nó loại trừ nhiều hốc sinh thái, sau đó nó lại trở lại và mang theo các quần thể sinh vật đã bị thu nhỏ sự đa dạng, sau đó lại rút xuống một lần nữa với nhịp mới của sự hóa băng cùng việc loại trừ sự đa dạng sinh học với mỗi thay đổi (Emiliani, 1992, trang 491). Các loài có môi trường sống bị hạn chế trong các vùng biển duy nhất trên thềm lục địa rộng lớn đã chịu ảnh hưởng nặng nhất (Stanley, 360). Các dạng sự sống vùng nhiệt đới đã chịu ảnh hưởng mạnh nhất trong đợt tuyệt chủng đầu tiên, trong khi các loài sống ở vùng nước lạnh lại bị ảnh hưởng nặng nhất trong đợt tuyệt chủng thứ hai (Stanley, 360).
Các loài sống sót là những loài có thể đương đầu với các điều kiện thay đổi và chúng nhanh chóng trám vào các hốc sinh thái bị bỏ ngỏ do các sự kiện tuyệt chủng gây ra.
Vào thời gian kết thúc của sự kiện tuyệt chủng thứ hai, sông băng tan chảy đã làm cho mực nước biển dâng lên và ổn định một lần nữa. Sự hồi phục của sự đa dạng sự sống với sự tái ngập lụt vĩnh cửu các thềm lục địa khi bắt đầu kỷ Silur đã làm gia tăng sự đa dạng sinh học trong các bộ, họ còn sống sót.
 
T

thienlangbachoai

Tiền Ordovic
Thế Tiền Ordovic hay thống Hạ Ordovic là tên gọi của một thống địa tầng/thế địa chất. Nó là thống dưới cùng trong địa tầng học của kỷ Ordovic trên Trái Đất. Thống này kéo dài từ khoảng 488,3±1,7 tới 471,8±1,6 triệu năm trước (Ma). Thời gian diễn ra của thế Tiền Ordovic là ngay sau tầng chưa đặt tên ("Tầng 10") của thống Phù Dung thuộc kỷ Cambri và ngay trước tầng Đại Bình của thế Trung Ordovic cùng một kỷ.
Phân chia
Hiện tại, vào năm 2008, thống Hạ Ordovic được ICS chia thành 2 tầng từ trẻ nhất tới cổ nhất như sau:
• Thống Hạ Ordovic
o Tầng Flo
o Tầng Tremadoc
Tên gọi và GSSP
Các GSSP đã xác định trong thống Tiền Ordovic là:
• Tầng Flo: Trong phẫu diện của đá phiến sét Tøyen, ở độ sâu 2,1m phía trên đỉnh kỷ Cambri trong mỏ đá Diabasbrottet, 5 km tây bắc làng Flo, Västergötland, miền nam Thụy Điển, tọa độ 58°21′32.2″B, 12°30′8.6″Đ.
• Tầng Tremadoc: Trong tầng 23 ở mức 101,8 m, Green Point, miền tây Newfoundland, Canada, tọa độ 49°40′58.5″B, 57°57′55.09″T.
Định nghĩa
Giới hạn dưới của tầng Tremadoc (cũng là giới hạn dưới của thống) là sự xuất hiện lần đầu tiên của động vật răng nón có danh pháp Iapetognathus fluctivagus. Giới hạn trên của tầng Flo với tầng Đại Bình là trước khi có sự xuất hiện lần đầu tiên của động vật răng nón với danh pháp Baltoniodus triangularis.
Sự sống
Thống này đánh dấu sự đa dạng lớn sự sống trong lòng đại dương, diễn ra sau sự kiện tuyệt chủng cuối kỷ Cambri.
Nhiều dạng sinh vật mới đã xuất hiệnn cạnh bọ ba thùy (lớp Trilobita); trong đó có san hô vách đáy (bộ Tabulata); động vật chân mang trong các bộ Strophomenida, Rhynchonellida và nhiều loài mới của bộ Orthida; động vật hình rêu (ngành Bryozoa), bút thạch (lớp Graptolithina) phù du và động vật răng nón (lớp Conodonta), cũng như nhiều dạng động vật thân mềm (Mollusca) và động vật da gai (ngành Echinodermata), bao gồm cả đuôi rắn (lớp Ophiuroidea) và những dạng sao biển (lớp Asteroidea) đầu tiên. Tuy nhiên, bọ ba thùy vẫn là phổ biến, với tất cả các bộ từ Hậu Cambri vẫn tiếp tục sinh tồn, và gia nhập thêm là một nhóm mới, gọi là bộ Phacopida.
Những dạng thực vật đầu tiên trên đất liền có lẽ là thực vật không mạch nhỏ xíu, trông tương tự như rêu tản (ngành Marchantiophyta) ngày nay, xuất hiện vào khoảng 474 Ma.
Mặc dù huệ biển (lớp Crinoidea) đã xuất hiện sớm hơn trong kỷ Cambri nhưng chúng chỉ trở thành thông thường trong thống này.
Tầng Tremadoc
Trong thời địa tầng, tầng Tremadoc (tiếng Anh: Tremadocian) là giai đoạn (bậc hay tầng động vật) đầu tiên của thống Hạ Ordovic trong hệ Ordovic của giới Cổ sinh thuộc Liên giới Hiển sinh. Nó diễn ra trong giai đoạn từ khoảng 488,3 ± 1,7 Ma cho tới khoảng 478,6 ± 1,7 Ma. Thời gian của tầng Flo là trước tầng Flo cùng thống và sau tầng 10 chưa đặt tên của thống Phù Dung thuộc hệ Cambri. Như thế nó là tầng thứ 1 của hệ Ordovic và là ranh giới giữa kỷ Ordovic và kỷ Cambri. Tên gọi của tầng đặt theo tên vịnh Tremadoc ở miền bắc Wales, do Adam Sedgwick đặt năm 1846 như là loạt Tremadoc. GSSP là phẫu diện Green Point ở miền tây đảo Newfoundland, được IUGS phê chuẩn năm 2000, tại tọa độ 49°40′58.44″N 57°57′55.08″W Định nghĩa
Đáy của hệ Ordovic và đáy của tầng thấp nhất trong hệ Ordovic (tầng Tremadoc) bị lộ ra trong nền duyên hải tại Green Point, phía tây đảo Newfoundland, ở mức 101,8 m, trong phạm vi tầng 23, trong phẫu diện đã đo đạc (tập Hạ Broom Point, thành hệ Green Point), trùng khớp với sự xuất hiện lần đầu tiên của loài răng nón Iapetognathus fluctivagus, và 4,8 m phía dưới lớp chứa các dạng bút thạch phù du có sớm nhất.
Vị trí
Phẫu diện Green Point nằm trong phạm vi vườn quốc gia Gros Morne, khoảng 70 km từ sân bay Deer Lake và khoảng 10 km về phía bắc làng Rocky Harbour, miền tây Newfoundland.
Trầm tích học
Phẫu diện Green Point bao gồm các lớp đá phiến màu đen, xám và lục xen kẽ, đá vôi dạng mấu micrit và dạng dải cùng đá hạt (grainstone trong phân loại Dunham). Đá vôi cuội kết chủ yếu bị giam hãm trong 1 tầng (tầng 19) và tầng dạng hạt đậu trong phạm vi tầng 25.
Sơ cấp
Sự xuất hiện lần đầu tiên của loài răng nón Iapetognathus fluctivagus trong phạm vi tầng 23.
Thứ cấp
Bút thạch: Các dạng bút thạch phù du xuất hiện từ 4,8 m phía trên ranh giới tại phẫu diện Green Point. Các loài bút thạch phù du sớm nhất, Staurograptus dichotomus và Rhabdinopora praeparabola, cả hai đều có mặt tại phẫu diện Green Point.
Đồng vị cacbon: Mức ranh giới trùng khớp gần với đỉnh của chu kỳ dương trong d13C, đạt tới giá trị cao nhất trong khoảng ranh giới.
Các vị trí khác trên thế giới
Ranh giới Cambri-Ordovic nằm tại thống Hạ Ibex ở Bắc Mỹ, tại đáy của tầng Warendian tại miền bắc Australia, trong Hạ Tremadoc như được sử dụng tại Kazakhstan, và trong Hậu Fengshanian ở miền bắc Trung Quốc.
 
T

thienlangbachoai

Tầng Flo
Trong thời địa tầng, tầng Flo (tiếng Anh: Floian) là giai đoạn (bậc hay tầng động vật) cuối của thống Hạ Ordovic trong hệ Ordovic của giới Cổ sinh thuộc Liên giới Hiển sinh. Nó diễn ra trong giai đoạn từ khoảng 478,6 ± 1,7 Ma cho tới khoảng 471,8 ± 1,6 Ma. Thời gian của tầng Flo là trước tầng Đại Bình của thống Trung Ordovic và sau tầng Tremadoc cùng thống. Như thế nó là tầng thứ 2 của hệ Ordovic. Tên gọi của tầng đặt theo thị xã tại Västergötland là Flo (miền nam Thụy Điển), do Stig M. Bergström, Anita Löfgren và Jörg Maletz đề xuất năm 2004. GSSP là phẫu diện Diabasbrottet trong mỏ đá Diabasbrottet trên núi Hunneberg, tỉnh Västergötland, tây nam Thụy Điển, được IUGS phê chuẩn năm 2002, tại tọa độ 58°21′32.2″N 12°30′8.6″E / 58.358944, 12.502389 Đáy của tầng Flo được định nghĩa trong phẫu diện Diabasbrottet tại núi Hunneberg ở tây nam Thụy Điển. GSSP nằm tại đá phiến hạ Tøyen, 2,1 m phía trên đỉnh đá phiến kỷ Cambri và được đánh dấu bằng sự xuất hiện lần đầu tiên của loài bút thạch Tetragraptus approximatus.
Vị trí
Phẫu diện Diabasbrottet nằm gần đầu phía bắc của mỏ đá lớn dọc theo sườn đông bắc của núi Hunneberg tại tọa độ 58°21'32,2" vĩ bắc và 12°30'08,6" kinh đông trong tỉnh Västergötland ở tây nam Thụy Điển. GSSP nằm cách Göteborg khoảng 80 km về phía bắc đông bắc và cách Vänersborg khoảng 12 km về phía đông đông nam.
Trầm tích học
Chuỗi Ordovic của phẫu diện Diabasbrottet dày 12 m. Đá phiến phèn Cambri bị đè một cách không thích hợp lên trên bằng đá vôi sẫm màu của thành hệ Bjørkåsholmen và đá vôi Latorp (cả hai đều có niên đại thuộc tầng Tremadoc). Trên đỉnh của đá vôi Latorp là 10 m đá phiến Tøyen. Đá phiến Tøyen bao gồm nê thạch từ xám tới sẫm màu với các lớp xen tầng mỏng là đá vôi sẫm màu hạt mịn, đặc biệt là ở phần dưới. GSSP được định vị ngay trên lớp xen tầng E.
Sơ cấp
Bút thạch: Đáy của tầng Flo được định nghĩa bằng sự xuất hiện lần đầu tiên của Tetragraptus approximatus. Tetragraptus phyllograptoides là rất phổ biến tại đáy của tầng Flo.
Thứ cấp
Răng nón: GSSP nằm trong phạm vi đới răng nón Paroistodus proteus. Đới này được chia ra thành 4 phân đới. Ranh giới giữa 2 phân đới trên, là phân đới Paracodylodus gracilis và phân đới Oelandodus elongatus-Acodus deltatus deltatus, rất gần với đáy của lớp xen tầng E, vì thế nằm trực tiếp ngay phía dưới GSSP.
Bọ ba thùy: Bọ ba thùy Megistaspis (P.) planilimbata xuất hiện tại hoặc ngay phía dưới GSSP.
 
T

thienlangbachoai

Tiền Ordovic
Thế Tiền Ordovic hay thống Hạ Ordovic là tên gọi của một thống địa tầng/thế địa chất. Nó là thống dưới cùng trong địa tầng học của kỷ Ordovic trên Trái Đất. Thống này kéo dài từ khoảng 488,3±1,7 tới 471,8±1,6 triệu năm trước (Ma). Thời gian diễn ra của thế Tiền Ordovic là ngay sau tầng chưa đặt tên ("Tầng 10") của thống Phù Dung thuộc kỷ Cambri và ngay trước tầng Đại Bình của thế Trung Ordovic cùng một kỷ.
Phân chia
Hiện tại, vào năm 2008, thống Hạ Ordovic được ICS chia thành 2 tầng từ trẻ nhất tới cổ nhất như sau:
• Thống Hạ Ordovic
o Tầng Flo
o Tầng Tremadoc
Tên gọi và GSSP
Các GSSP đã xác định trong thống Tiền Ordovic là:
• Tầng Flo: Trong phẫu diện của đá phiến sét Tøyen, ở độ sâu 2,1m phía trên đỉnh kỷ Cambri trong mỏ đá Diabasbrottet, 5 km tây bắc làng Flo, Västergötland, miền nam Thụy Điển, tọa độ 58°21′32.2″B, 12°30′8.6″Đ.
• Tầng Tremadoc: Trong tầng 23 ở mức 101,8 m, Green Point, miền tây Newfoundland, Canada, tọa độ 49°40′58.5″B, 57°57′55.09″T.
Định nghĩa
Giới hạn dưới của tầng Tremadoc (cũng là giới hạn dưới của thống) là sự xuất hiện lần đầu tiên của động vật răng nón có danh pháp Iapetognathus fluctivagus. Giới hạn trên của tầng Flo với tầng Đại Bình là trước khi có sự xuất hiện lần đầu tiên của động vật răng nón với danh pháp Baltoniodus triangularis.
Sự sống
Thống này đánh dấu sự đa dạng lớn sự sống trong lòng đại dương, diễn ra sau sự kiện tuyệt chủng cuối kỷ Cambri.
Nhiều dạng sinh vật mới đã xuất hiệnn cạnh bọ ba thùy (lớp Trilobita); trong đó có san hô vách đáy (bộ Tabulata); động vật chân mang trong các bộ Strophomenida, Rhynchonellida và nhiều loài mới của bộ Orthida; động vật hình rêu (ngành Bryozoa), bút thạch (lớp Graptolithina) phù du và động vật răng nón (lớp Conodonta), cũng như nhiều dạng động vật thân mềm (Mollusca) và động vật da gai (ngành Echinodermata), bao gồm cả đuôi rắn (lớp Ophiuroidea) và những dạng sao biển (lớp Asteroidea) đầu tiên. Tuy nhiên, bọ ba thùy vẫn là phổ biến, với tất cả các bộ từ Hậu Cambri vẫn tiếp tục sinh tồn, và gia nhập thêm là một nhóm mới, gọi là bộ Phacopida.
Những dạng thực vật đầu tiên trên đất liền có lẽ là thực vật không mạch nhỏ xíu, trông tương tự như rêu tản (ngành Marchantiophyta) ngày nay, xuất hiện vào khoảng 474 Ma.
Mặc dù huệ biển (lớp Crinoidea) đã xuất hiện sớm hơn trong kỷ Cambri nhưng chúng chỉ trở thành thông thường trong thống này.
 
T

thienlangbachoai

Tầng Tremadoc
Trong thời địa tầng, tầng Tremadoc (tiếng Anh: Tremadocian) là giai đoạn (bậc hay tầng động vật) đầu tiên của thống Hạ Ordovic trong hệ Ordovic của giới Cổ sinh thuộc Liên giới Hiển sinh. Nó diễn ra trong giai đoạn từ khoảng 488,3 ± 1,7 Ma cho tới khoảng 478,6 ± 1,7 Ma. Thời gian của tầng Flo là trước tầng Flo cùng thống và sau tầng 10 chưa đặt tên của thống Phù Dung thuộc hệ Cambri. Như thế nó là tầng thứ 1 của hệ Ordovic và là ranh giới giữa kỷ Ordovic và kỷ Cambri. Tên gọi của tầng đặt theo tên vịnh Tremadoc ở miền bắc Wales, do Adam Sedgwick đặt năm 1846 như là loạt Tremadoc. GSSP là phẫu diện Green Point ở miền tây đảo Newfoundland, được IUGS phê chuẩn năm 2000, tại tọa độ 49°40′58.44″N 57°57′55.08″W Định nghĩa
Đáy của hệ Ordovic và đáy của tầng thấp nhất trong hệ Ordovic (tầng Tremadoc) bị lộ ra trong nền duyên hải tại Green Point, phía tây đảo Newfoundland, ở mức 101,8 m, trong phạm vi tầng 23, trong phẫu diện đã đo đạc (tập Hạ Broom Point, thành hệ Green Point), trùng khớp với sự xuất hiện lần đầu tiên của loài răng nón Iapetognathus fluctivagus, và 4,8 m phía dưới lớp chứa các dạng bút thạch phù du có sớm nhất.
Vị trí
Phẫu diện Green Point nằm trong phạm vi vườn quốc gia Gros Morne, khoảng 70 km từ sân bay Deer Lake và khoảng 10 km về phía bắc làng Rocky Harbour, miền tây Newfoundland.
Trầm tích học
Phẫu diện Green Point bao gồm các lớp đá phiến màu đen, xám và lục xen kẽ, đá vôi dạng mấu micrit và dạng dải cùng đá hạt (grainstone trong phân loại Dunham). Đá vôi cuội kết chủ yếu bị giam hãm trong 1 tầng (tầng 19) và tầng dạng hạt đậu trong phạm vi tầng 25.
Sơ cấp
Sự xuất hiện lần đầu tiên của loài răng nón Iapetognathus fluctivagus trong phạm vi tầng 23.
Thứ cấp
Bút thạch: Các dạng bút thạch phù du xuất hiện từ 4,8 m phía trên ranh giới tại phẫu diện Green Point. Các loài bút thạch phù du sớm nhất, Staurograptus dichotomus và Rhabdinopora praeparabola, cả hai đều có mặt tại phẫu diện Green Point.
Đồng vị cacbon: Mức ranh giới trùng khớp gần với đỉnh của chu kỳ dương trong d13C, đạt tới giá trị cao nhất trong khoảng ranh giới.
Các vị trí khác trên thế giới
Ranh giới Cambri-Ordovic nằm tại thống Hạ Ibex ở Bắc Mỹ, tại đáy của tầng Warendian tại miền bắc Australia, trong Hạ Tremadoc như được sử dụng tại Kazakhstan, và trong Hậu Fengshanian ở miền bắc Trung Quốc.
Tầng Flo
Trong thời địa tầng, tầng Flo (tiếng Anh: Floian) là giai đoạn (bậc hay tầng động vật) cuối của thống Hạ Ordovic trong hệ Ordovic của giới Cổ sinh thuộc Liên giới Hiển sinh. Nó diễn ra trong giai đoạn từ khoảng 478,6 ± 1,7 Ma cho tới khoảng 471,8 ± 1,6 Ma. Thời gian của tầng Flo là trước tầng Đại Bình của thống Trung Ordovic và sau tầng Tremadoc cùng thống. Như thế nó là tầng thứ 2 của hệ Ordovic. Tên gọi của tầng đặt theo thị xã tại Västergötland là Flo (miền nam Thụy Điển), do Stig M. Bergström, Anita Löfgren và Jörg Maletz đề xuất năm 2004. GSSP là phẫu diện Diabasbrottet trong mỏ đá Diabasbrottet trên núi Hunneberg, tỉnh Västergötland, tây nam Thụy Điển, được IUGS phê chuẩn năm 2002, tại tọa độ 58°21′32.2″N 12°30′8.6″E / 58.358944, 12.502389 Đáy của tầng Flo được định nghĩa trong phẫu diện Diabasbrottet tại núi Hunneberg ở tây nam Thụy Điển. GSSP nằm tại đá phiến hạ Tøyen, 2,1 m phía trên đỉnh đá phiến kỷ Cambri và được đánh dấu bằng sự xuất hiện lần đầu tiên của loài bút thạch Tetragraptus approximatus.
Vị trí
Phẫu diện Diabasbrottet nằm gần đầu phía bắc của mỏ đá lớn dọc theo sườn đông bắc của núi Hunneberg tại tọa độ 58°21'32,2" vĩ bắc và 12°30'08,6" kinh đông trong tỉnh Västergötland ở tây nam Thụy Điển. GSSP nằm cách Göteborg khoảng 80 km về phía bắc đông bắc và cách Vänersborg khoảng 12 km về phía đông đông nam.
Trầm tích học
Chuỗi Ordovic của phẫu diện Diabasbrottet dày 12 m. Đá phiến phèn Cambri bị đè một cách không thích hợp lên trên bằng đá vôi sẫm màu của thành hệ Bjørkåsholmen và đá vôi Latorp (cả hai đều có niên đại thuộc tầng Tremadoc). Trên đỉnh của đá vôi Latorp là 10 m đá phiến Tøyen. Đá phiến Tøyen bao gồm nê thạch từ xám tới sẫm màu với các lớp xen tầng mỏng là đá vôi sẫm màu hạt mịn, đặc biệt là ở phần dưới. GSSP được định vị ngay trên lớp xen tầng E.
Sơ cấp
Bút thạch: Đáy của tầng Flo được định nghĩa bằng sự xuất hiện lần đầu tiên của Tetragraptus approximatus. Tetragraptus phyllograptoides là rất phổ biến tại đáy của tầng Flo.
Thứ cấp
Răng nón: GSSP nằm trong phạm vi đới răng nón Paroistodus proteus. Đới này được chia ra thành 4 phân đới. Ranh giới giữa 2 phân đới trên, là phân đới Paracodylodus gracilis và phân đới Oelandodus elongatus-Acodus deltatus deltatus, rất gần với đáy của lớp xen tầng E, vì thế nằm trực tiếp ngay phía dưới GSSP.
Bọ ba thùy: Bọ ba thùy Megistaspis (P.) planilimbata xuất hiện tại hoặc ngay phía dưới GSSP.
 
T

thienlangbachoai

Kỷ Silur hay phiên âm thành kỷ Si-lua là một kỷ chính trong niên đại địa chất kéo dài từ khi kết thúc kỷ Ordovic, vào khoảng 443,7 ± 1,5 triệu (Ma) năm trước, tới khi bắt đầu kỷ Devon vào khoảng 416,0 ± 2,8 Ma (theo ICS, 2004). Giống như các kỷ địa chất khác, các tầng đá xác định sự khởi đầu và kết thúc kỷ này được xác định khá rõ, nhưng niên đại chính xác thì vẫn là không chắc chắn trong phạm vi 5-10 triệu năm. Căn cứ xác định sự bắt đầu kỷ này là một sự kiện tuyệt chủng lớn khi 60% các loài sinh vật biển đã bị đào thải. Xem Sự kiện tuyệt chủng kỷ Ordovic-kỷ Silur.
Biên niên sử
Hệ thống địa tầng kỷ Silur đã lần đầu tiên được Roderick Murchison xác định, khi ông kiểm tra các tầng đá trầm tích chứa hóa thạch ở miền nam Wales (Xứ Uên/Xứ Gan) vào đầu thập niên 1830. Ông đặt tên cho các tầng đá này theo tên gọi của một bộ lạc người Celt (Xen-tơ) ở Wales- là người Silures, kế tục truyền thống của bạn ông là Adam Sedgwick, người đã xác định và đặt tên cho kỷ Cambri. Năm 1835, hai người đã đưa ra một bài báo chung, dưới tên gọi On the Silurian and Cambrian Systems, Exhibiting the Order in which the Older Sedimentary Strata Succeed each other in England and Wales, có thể coi là phôi thai cho việc xác định niên đại địa chất hiện đại. Tuy nhiên, sau khi đã xác định kỷ này và khi lần theo dấu vết của kỷ Silur trên thực địa thì người ta nhận ra rằng nó chồng lấn lên các tầng thuộc kỷ Cambri của Sedgwick, điều này đã gây ra tranh cãi và gây bất hòa đến mức chấm dứt luôn cả tình bạn của họ. Charles Lapworth cuối cùng đã giải quyết mâu thuẫn bằng cách xác định một hệ thống địa tầng chính mới với tên gọi là kỷ Ordovic để bao gồm các tầng đang tranh chấp.
Các phân kỷ
Khoảng thời gian của kỷ Silur thông thường được chia nhỏ thành các phân kỷ Tiền (Llandovery và Wenlock) và Hậu (Ludlow và Pridoli) Silur. Tuy nhiên, một vài sơ đồ hệ thống sử dụng Tiền (Llandovery), Trung (Wenlock) và Hậu (Ludlow và Pridoli) Silur. Các tầng động vật này được đặc trưng bởi các hóa thạch chỉ mục, là các loài mới của các sinh vật biển thuộc nhóm Graptolita xuất hiện trong mỗi tầng. Mỗi thế địa chất này tương ứng với một chuỗi đá, chúng được nói đến như là thuộc về các phần dưới, giữa và trên của tầng đá, tương tự với thời gian đầu, giữa và cuối của kỷ Silur. Các thế địa chất và các tầng động vật từ trẻ nhất đến già nhất là:
• Thế Pridoli - không định nghĩa tầng động vật (hậu Silur)
• Thế Ludlow được phân chia thành:
o Kỳ Ludford (hậu Ludlow - hậu Silur)
o Kỳ Gorst (tiền Ludlow - hậu Silur)
• Thế Wenlock được phân chia thành:
o Kỳ Homer (hậu Wenlock - tiền hoặc trung Silur)
o Kỳ Sheinwood (tiền Wenlock - tiền hoặc trung Silur)
• Thế Llandovery được phân chia thành:
o Kỳ Telych (hậu Llandovery - tiền Silur)
o Kỳ Aeron (trung Llandovery - tiền Silur)
o Kỳ Rhuddal (tiền Llandovery - tiền Silur)
Tại Bắc Mỹ một hệ thống các tầng động vật cục bộ khác được sử dụng:
• Cayuga (hậu Silur - Ludlow)
• Lockport (trung Silur - Wenlock)
• Tonawand (trung Silur - Wenlock)
• Ontario (tiền Silur - Llandovery)
• Alexandria (tiền Silur - Llandovery)
Cổ địa lý học
Trong kỷ Silur, Gondwana vẫn tiếp tục trôi dạt chậm về phía nam tới các vĩ độ lớn, nhưng có các chứng cứ cho thấy các chỏm băng thuộc kỷ Silur là ít lớn hơn so với các chỏm băng thuộc thời kỳ băng hà hậu Ordovic. Sự tan chảy ra của các chỏm băng và các sông băng đã làm cho mực nước biển lên cao, được ghi nhận từ thực tế là các trầm tích kỷ Silur che phủ lên trên các trầm tích kỷ Ordovic bị xói mòn, tạo thành một sự phân vỉa không chỉnh hợp. Các craton khác và các mảng lục địa đã trôi dạt cùng nhau gần đường xích đạo, bắt đầu sự hình thành của siêu lục địa thứ hai, được biết đến dưới tên gọi Euramerica (Âu-Mỹ).
Khi proto-Europe (tiền-châu Âu) va chạm với Bắc Mỹ thì va chạm này đã gấp nếp các trầm tích ven bờ biển đã được tích lũy từ kỷ Cambri ngoài khơi phía đông của Bắc Mỹ và phía tây của châu Âu. Sự kiện này được gọi là kiến tạo sơn Caledonia, sự dồn lên của các dãy núi kéo dài từ tiểu bang New York (ngày nay) tới chỗ nối lại của châu Âu với Greenland và Norway. Vào cuối kỷ Silur, mực nước biển lại hạ thấp xuống một lần nữa, để lại các lòng chảo lộ rõ chứa muối (evaporit) trong lưu vực kéo dài từ Michigan tới West Virginia, và các dãy núi mới hình thành nhanh chóng bị xói mòn. Sông Teays, chảy vào các biển nông trên giữa lục địa, đã xói mòn các tầng thuộc kỷ Ordovic, để lại dấu vết trong các tầng thuộc kỷ Silur ở miền bắc Ohio và Indiana.
Đại dương rộng lớn Panthalassa đã bao phủ phần lớn Bắc bán cầu. Các đại dương nhỏ khác như Proto-Tethys, Paleo-Tethys, Rheic, đường thông ra biển của đại dương Iapetus (nằm giữa Avalonia và Laurentia), và Ural mới hình thành.
Trong kỷ này, Trái Đất đang nằm trong giai đoạn nhà kính ấm và kéo dài và các biển nông và ấm đã che phủ phần lớn các vùng đất tại khu vực xích đạo. Kỷ này có một sự ổn định tương đối của khí hậu Trái Đất, kết thúc kiểu khí hậu thất thường của giai đoạn trước đó. Các lớp mai (vỏ) vỡ (gọi là coquina) cung cấp các chứng cứ mạnh mẽ cho kiểu khí hậu mà các cơn bão mạnh ngự trị được phát sinh khi đó bởi các mặt biển ấm.
 
Last edited by a moderator:
T

thienlangbachoai

Động vật
Mực nước biển cao và các biển nông trên thềm lục địa cung cấp một môi trường thích hợp cho sự sống đại dương của tất cả các loài. Các tầng đá kỷ Silur là nơi chứa nhiều mỏ dầu và hơi đốt ở nhiều khu vực. Các tầng đá kỷ Silur chứa hematit -- một loại quặng sắt --ở miền đông Bắc Mỹ đã đóng vai trò quan trọng cho nền kinh tế châu Mỹ thuộc địa thời kỳ đầu.
Các dải đá san hô ngầm đã lần đầu tiên xuất hiện trong kỷ này, được các nhóm san hô đã tuyệt chủng như các bộ Tabulata và Rugosa tạo ra. Những loài cá xương đầu tiên (nhóm Osteichthyes) đã xuất hiện, với các đại diện là Acanthodii được che phủ bằng lớp vảy bằng chất xương; các loài cá đã đạt được sự đa dạng đáng kể và phát triển các quai hàm chuyển động được, được thích ứng từ sự hỗ trợ của 2 hoặc 3 cung mang ở phía trước. Hệ động vật đa dạng của nhóm Eurypterida (bò cạp biển) -- một số trong chúng có độ dài vài mét -- sinh sống ở các biển nông thời kỳ Silur ở Bắc Mỹ; nhiều hóa thạch của chúng đã được tìm thấy ở bang New York. Các ngành Brachiopoda, Bryozoa, Mollusca và Trilobita đã rất đông đảo và đa dạng.
Nhóm Myriapoda trở thành những động vật sống trên đất liền đích thực đầu tiên. Các hệ sinh thái đất liền, bao gồm những động vật đa bào đầu tiên trên đất liền hiện đã xác định được, là các họ hàng của nhện và động vật nhiều chân ngày nay, các hóa thạch của chúng đã được phát hiện ra trong thập niên 1990.

Thế Llandovery

Trong niên đại địa chất, thế Llandovery (từ 443,7 ± 1,5 triệu năm trước (Ma) tới 428,2 ± 2,3 Ma) diễn ra trong kỷ Silur. Thế này diễn ra sau sự kiện tuyệt chủng kỷ Ordovic-kỷ Silur; sự kiện tuyệt chủng hàng loạt lớn thứ hai sau sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias gần 200 triệu năm sau đó.
Thế này được đặt tên theo LlandoveryWales.
Phân chia

Thế Llandovery được phân chia thành 3 tầng là: Rhuddan, AeronTelych.

Tầng Rhuddan

Trong thời địa tầng, tầng Rhuddan (tiếng Anh: Rhuddanian) là giai đoạn (bậc hay tầng động vật) đầu tiên của thống Llandovery trong hệ Silur của giới Cổ sinh thuộc Liên giới Hiển sinh. Nó diễn ra trong giai đoạn từ khoảng 443,7 ± 1,5 Ma cho tới khoảng 439,0 ± 1,8 Ma. Thời gian của tầng Rhuddan là trước tầng Aeron cùng thống và sau tầng Hirnant của thống Thượng Ordovic thuộc hệ Ordovic. Như thế nó là tầng thứ 1 của hệ Silur và là ranh giới giữa kỷ Ordovic và kỷ Silur. Tên gọi của tầng đặt theo tên làng nhỏ Cwm Rhuddan ở miền nam Llandovery (Wales), được một nhóm các nhà địa chất, do L. R. M. Cocks dẫn đầu, đề xuất năm 1971. GSSP là phẫu diện ở Dob's Linn, Scotland, được IUGS phê chuẩn năm 1984, tại tọa độ
clip_image002.gif
55°26′24″N 3°16′12″W / 55.44, -3.27.
Định nghĩa

Đáy của hệ Silur và tầng Rhuddan được định nghĩa tại 1,6 m phía trên đáy của thành hệ đá phiến Birkhill, trong phẫu diện tại Dob's Linn, gần Moffat ở vùng cao nguyên phía nam Scotland, Vương quốc Anh, và trùng khớp với sự xuất hiện lần đầu tiên của bút thạch Akidograptus ascensus, xác định đáy của đới sinh học A. ascensus.
Cần lưu ý rằng việc gán ghép đã công bố trước đây như là sự trùng khớp với đáy cục bộ của đới Parakidograptus acuminatus hiện nay được biết là không chính xác, và nó đã gây ra các tương quan mâu thuẫn và gây nhầm lẫn. Xem thêm tại Silurian Times, số 14 (2006)
Vị trí

GSSP cho khởi đầu hệ Silur nằm tại phẫu diện ở Dob's Linn, trong hố khai quật nhân tạo được tạo ra ngay phía bắc suối Linn Branch
Trầm tích học

Hai đơn vị thạch học (thành hệ) diễn ra gần ranh giới. Thành hệ dưới là đá phiến Hartfell (dày 48 m), bao gồm chủ yếu là nê thạch xám nhạt với đá phiến đen và một vài lớp meta-bentonit xen tầng lệ thuộc. Trên nó là lớp đá phiến Birkhill dày 43 m, chủ yếu bao gồm đá phiến nguồn gốc bút thạch (graptolit) màu đen với nê thạch màu xám và meta-bentonit lệ thuộc.
Sơ cấp

Sự xuất hiện của các loài bút thạch Akidograptus ascensusParakidograptus praematurus ở độ sâu 1,6 m phía trên đáy thành hệ đá phiến Birkhill.
Thứ cấp

Chitinozoa và răng nón được biết đến trong phẫu diện, nhưng không được bảo tồn tốt và cũng không mang tính chẩn đoán về niên đại.
Rất tiết là cho đến nay mình chưa thấy tư liệu nào nói về tầng Aeron
Tầng Telych
Rất tiết là cho đến nay mình chưa thấy tư liệu nào nói về tầng Telych
 
Last edited by a moderator:
T

thienlangbachoai

lưu ý: chữ Ma trong 428,2 Ma có nghĩa là 428,2 trăm triệu năm

Thế Wenlock

Trong niên đại địa chất, thế Wenlock (từ 428,2 ± 2,3 triệu năm trước (Ma) tới 422,9 ± 2,5 Ma) diễn ra trong kỷ Silur. Thế này diễn ra sau tầng/kỳ Telych của thế Llandovery.
Thế Wenlock được phân chia thành hai tầng là: tầng Sheinwoodtầng Homer.
Thế Wenlock có sự bảo tồn khá tốt các hóa thạch của ít nhất 600 loài động vật tay cuộn (Brachiopoda), cá không hàm thuộc lớp Osteostraci, san hô, bọ ba thùy, trai, động vật hình rêu (Bryozoa) và huệ biển (Crinozoa).
Khí hậu

Khí hậu trong thế Wenlock được cho là khô.
Tên gọi

Thế Wenlock được đặt tên theo vách núi WenlockShropshire, Anh cùng với Much Wenlock. Tên gọi 'Wenlock' có lẽ là sự sửa đổi sai lạc của tên gọi trong tiếng Welsh của 'nhà thờ trắng' cho một thị trấn vì nó có một nhà thờ màu trắng, làm từ đá vôi thuộc kỷ Silur.
Xuất hiện lần đầu


Và bây giờ mình cũng không thấy tư liệu nào nói về tầng Sheinwood và Homer
Thế Ludlow bao gồm hai tầng Gosrty là Ludford và thế Priodili cũng chẳng có tư liệu nào đề cập tới
 
T

thienlangbachoai

Kỷ Devon (kỷ Đề-vôn) là một kỷ địa chất trong đại Cổ Sinh. Nó được đặt theo tên gọi của khu vực Devon, Anh, là nơi mà các loại đá thuộc kỷ này được nghiên cứu lần đầu tiên.
Trong kỷ Devon thì những loài cá đã tiến hóa để có chân đã xuất hiện lần đầu tiên và bắt đầu việc đi lại trên mặt đất như là động vật bốn chân (Tetrapoda). Những động vật chân khớp (Arthropoda) như côn trùngnhện cũng bắt đầu chiếm lĩnh môi trường sống trên đất liền. Những loài thực vật hạt trần đầu tiên cũng lan truyền trên các vùng đất khô, tạo thành các cánh rừng lớn. Trong lòng đại dương, cá đã đa dạng hóa thành những loài cá mập và các loài cá vây thùy (Sarcopterygii) và cá xương. Những loài động vật thân mềm như cúc (Ammonita) cũng đã xuất hiện, còn bọ ba thùy (Trilobita) và những động vật tay cuộn (Brachiopoda) tương tự như động vật thân mềm và các đá san hô ngầm lớn vẫn là phổ biến. Sự kiện tuyệt chủng Hậu Devon đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới các sinh vật biển. Về mặt cổ địa lý học thì siêu lục địa Gondwana thống trị ở phía nam, trong khi lục địa Siberi ở phía bắc và một siêu lục địa nhỏ mới hình thành với tên gọi là Euramerica (Âu-Mỹ) ở đoạn giữa.
Tên gọi

Kỷ này được đặt tên theo tên gọi của Devon, Anh là khu vực mà các phần lộ thiên của đá thuộc kỷ này là phổ biến. Trong khi các tầng đá xác định sự bắt đầu và kết thúc của kỷ này đã được xác định khá rõ thì niên đại chính xác vẫn chưa chắc chắn. Theo ICS (2004), thì kỷ Devon kéo dài từ khi kết thúc kỷ Silur vào khoảng 416,0 ± 2,8 triệu năm trước (Ma), cho đến khi bắt đầu kỷ Than Đá, khoảng 359,2 ± 2,5 Ma (tại Bắc Mỹ là sự bắt đầu của thế Mississippi trong kỷ Than Đá) (nguồn: ICS, 2004).
Kỷ Devon còn được gọi là Thời đại Cá, nhưng thuật ngữ này không được ưa chuộng. Trong khi cá đã có sự phân nhánh mạnh thì nó chỉ là một trong số vài mốc đánh dấu tiến hóa chính trong kỷ này và các dạng sự sống khác là phổ biến hơn.
Kỷ Devon cũng được gọi một cách sai lầm là Thời đại nhà kính, do sự thiên lệch trong lấy mẫu: phần lớn các phát hiện thuộc niên đại Tiền Devon đến từ các địa tầng thuộc Tây Âu và miền đông Bắc Mỹ, trong khi vào thời gian đó chúng đang nằm ở khu vực xung quanh đường xích đạo như là một phần của siêu lục địa Euramerica, khu vực mà các dấu hiệu hóa thạch của đá san hô ngầm phổ biến rộng chỉ ra kiểu khí hậu nhiệt đới ấm nóng và tương đối ẩm.
Trong các văn bản thế kỷ 19 thì kỷ Devon được gọi là Thời đại Đỏ cổ, theo các trầm tích đất liền có màu đỏ và nâu, được biết đến tại Vương quốc Anh như là "Old red sandstone" (sa thạch đỏ cổ) mà trong đó các phát hiện đầu tiên đã được tìm thấy.
Phân chia

Kỷ Devon thường được chia thành các phân kỷ (thế) Tiền, Trung và Hậu Devon. Các tầng đá tương ứng với các phân kỷ này được gọi là các phần Hạ, Trung và Thượng Devon. Các tầng động vật từ trẻ nhất đến già nhất là:

  • Hậu Devon
    • Famenne (Chautauquan, Canadaway, Conneaut, Conneautan, Conewango, Conewangan)
    • Frasne (Senecan, Sonyea, Sonyean, West Falls)
  • Trung Devon
    • Givet (Erian, Senecan, Tioughniogan, Tioughnioga, Taghanic, Taghanican, Genesee, Geneseean)
    • Eifel (Southwood)
  • Tiền Devon
    • Ems (Sawkill, Deer Park)
    • Praha (Siegenian)
    • Lochkov (Gedinnian/Helderbergian)
Các tầng đá kỷ Devon là nơi chứa các mỏ dầu và hơi đốt tại một vài khu vực.
Cổ địa lý học

Kỷ Devon là thời kỳ mà các hoạt động kiến tạo địa tầng lớn diễn ra, do các vùng đất của LaurasiaGondwana đang xích lại gần nhau. Lục địa Euramerica (hay Laurussia) đã được tạo ra vào đầu kỷ Devon do va chạm của LaurentiaBaltica, đã xoay vào khu vực khô tự nhiên dọc theo Nam chí tuyến, được hình thành phần lớn trong thời gian của đại Cổ Sinh cũng giống như ngày nay do sự hội tụ của hai luồng không khí lớn là hoàn lưu Hadleyhoàn lưu Ferrel. Trong các khu vực có khí hậu cận sa mạc này, các tầng đá cát trầm tích màu đỏ và cổ này đã được hình thành, màu đỏ là do sự ôxi hóa của sắt (hematit), đặc trưng cho các điều kiện khí hậu khô cằn.
Gần đường xích đạo, Pangaea bắt đầu được hợp nhất từ các mảng kiến tạo chứa Bắc Mỹ và châu Âu, tiếp tục nâng cao dãy núi Appalaches ở phía bắc và hình thành kiến tạo sơn Caledonia tại khu vực thuộc Vương quốc AnhScandinavia ngày nay. Ngược lại, bờ biển phía tây của Bắc Mỹ thuộc kỷ Devon là các bờ rìa thụ động với các vũng vịnh nhỏ và sâu, chứa đầy bùn, các vùng châu thổ và cửa sông, thuộc IdahoNevada ngày nay; một vòng cung đảo núi lửa cận kề đã đến gần các sườn dốc đứng của thềm lục địa vào cuối kỷ Devon và bắt đầu nâng các trầm tích vùng nước sâu lên, một sự va chạm mở đầu cho sự tạo núi trong thời gian của thế Mississippi và được gọi là kiến tạo sơn Antler .
Các lục địa phía nam vẫn nằm sát nhau trong một siêu lục địa là Gondwana. Các phần còn lại của đại lục Á-Âu (Eurasia) ngày nay nằm ở Bắc bán cầu. Mực nước biển là cao trên khắp thế giới và phần lớn các vùng đất nằm dưới mặt nước tạo thành các biển nông, tại đó các loại sinh vật như san hô tạo đá ngầm vùng nhiệt đới sinh sống.
Đại dương Panthalassa vẫn bao phủ phần lớn bề mặt Trái Đất. Các đại dương và biển nhỏ khác là Paleo-Tethys, Proto-Tethys, RheicUral (bị khép lại do va chạm của Siberi và Baltica trong kỷ Than Đá để tạo ra dãy núi Ural).
 
T

thienlangbachoai

Cổ địa lý học

Kỷ Devon là thời kỳ mà các hoạt động kiến tạo địa tầng lớn diễn ra, do các vùng đất của LaurasiaGondwana đang xích lại gần nhau. Lục địa Euramerica (hay Laurussia) đã được tạo ra vào đầu kỷ Devon do va chạm của LaurentiaBaltica, đã xoay vào khu vực khô tự nhiên dọc theo Nam chí tuyến, được hình thành phần lớn trong thời gian của đại Cổ Sinh cũng giống như ngày nay do sự hội tụ của hai luồng không khí lớn là hoàn lưu Hadleyhoàn lưu Ferrel. Trong các khu vực có khí hậu cận sa mạc này, các tầng đá cát trầm tích màu đỏ và cổ này đã được hình thành, màu đỏ là do sự ôxi hóa của sắt (hematit), đặc trưng cho các điều kiện khí hậu khô cằn.
Gần đường xích đạo, Pangaea bắt đầu được hợp nhất từ các mảng kiến tạo chứa Bắc Mỹ và châu Âu, tiếp tục nâng cao dãy núi Appalaches ở phía bắc và hình thành kiến tạo sơn Caledonia tại khu vực thuộc Vương quốc AnhScandinavia ngày nay. Ngược lại, bờ biển phía tây của Bắc Mỹ thuộc kỷ Devon là các bờ rìa thụ động với các vũng vịnh nhỏ và sâu, chứa đầy bùn, các vùng châu thổ và cửa sông, thuộc IdahoNevada ngày nay; một vòng cung đảo núi lửa cận kề đã đến gần các sườn dốc đứng của thềm lục địa vào cuối kỷ Devon và bắt đầu nâng các trầm tích vùng nước sâu lên, một sự va chạm mở đầu cho sự tạo núi trong thời gian của thế Mississippi và được gọi là kiến tạo sơn Antler [1].
Các lục địa phía nam vẫn nằm sát nhau trong một siêu lục địa là Gondwana. Các phần còn lại của đại lục Á-Âu (Eurasia) ngày nay nằm ở Bắc bán cầu. Mực nước biển là cao trên khắp thế giới và phần lớn các vùng đất nằm dưới mặt nước tạo thành các biển nông, tại đó các loại sinh vật như san hô tạo đá ngầm vùng nhiệt đới sinh sống.
Đại dương Panthalassa vẫn bao phủ phần lớn bề mặt Trái Đất. Các đại dương và biển nhỏ khác là Paleo-Tethys, Proto-Tethys, RheicUral (bị khép lại do va chạm của Siberi và Baltica trong kỷ Than Đá để tạo ra dãy núi Ural).
Sinh vật biển


Mực nước biển trong kỷ Devon là khá cao. Hệ động vật biển vẫn chủ yếu là động vật hình rêu (Bryozoa), các loài động vật tay cuộn (Brachiopoda) đa dạng và đông đảo cùng san hô. Các động vật thuộc lớp Huệ biển (Crinoidea, ngành Da gai -Echinodermata) là phổ biến, và bọ ba thùy (Trilobita) vẫn còn khá phổ biến, nhưng ít đa dạng hơn so với thời gian trước đó. Vào giữa kỷ Devon thì bên cạnh các loài cá không hàm thuộc lớp Ostracodermi đã xuất hiện những loài cá có quai hàm đầu tiên với lớp áo giáp bằng chất xương, thuộc lớp Placodermi, cũng như những loài cá mập đầu tiên và cá vây tia. Những loài cá mập đầu tiên (nhóm Cladoselache) này, đã xuất hiện trong lòng đại dương vào thời gian của kỷ Devon. Chúng nhanh chóng trở nên đa dạng và phổ biến. Vào cuối kỷ Devon thì cá vây thùy cũng đã xuất hiện, tạo tiền đề cho các loài động vật bốn chân đầu tiên.
Đá ngầm san hô

Một dải san hô đá ngầm lớn, hiện nay sót lại ở khu vực thung lũng Kimberley cao và khô thuộc miền tây bắc Australia, đã từng kéo dài hàng nghìn kilômét, diềm quanh lục địa kỷ Devon. Các loại đá ngầm này nói chung được tạo ra từ các loại sinh vật tiết cacbonat khác nhau, có khả năng tạo thành các mảng chắn sóng gần với mặt biển. Những sinh vật chính trong việc tạo đá ngầm kỷ Devon không giống như các loại sinh vật tạo đá ngầm ngày nay (chủ yếu là san hô và các loại tảo chứa canxi). Chúng bao gồm các loại tảo chứa canxi, sinh vật nhóm Stromatopore giống như san hô và các loại san hô thuộc các bộ Tabulata cùng Rugosa, theo trật tự này của tầm quan trọng.
Sinh vật đất liền

Vào kỷ Devon, sự sống đang trên đường chiếm lĩnh mặt đất. Các tấm thảm vi khuẩn và tảo theo các loài thực vật nguyên thủy lên đất liền đã tạo ra những loại đất đầu tiên có thể nhận biết được và làm nơi ẩn nấp cho một số loài động vật chân khớp như ve, bét, bò cạpđộng vật nhiều chân. Các loài thực vật đất liền đầu tiên của kỷ Devon không có rễ hoặc lá như các loài thực vật phổ biến ngày nay, và nhiều loài không có các mô mạch. Chúng có lẽ đã loang rộng chủ yếu là bằng sự phát triển sinh dưỡng (các thân bò chẳng hạn), và không mọc cao hơn vài xentimét.
 
T

thienlangbachoai

Vào cuối kỷ Devon, các cánh rừng của các loài thực vật nhỏ nguyên thủy đã tồn tại: Các loài thông đất, thạch tùng (ngành Lycopodiophyta), Sphenophyta, dương xỉ và tiền-thực vật hạt trần cũng đã tiến hóa. Phần lớn các loài này đã có rễ và lá thực sự, nhiều loài có thân khá cao. Nhóm tổ tiên của dương xỉ (Archaeopteris) có thân giống như cây thân gỗ, đã mọc và lớn như một loại cây thân gỗ lớn với gỗ thực sự. Đây là những loài cây thân gỗ cổ nhất của các cánh rừng đầu tiên trên thế giới. Cuối kỷ Devon thì những loài thực vật tạo hạt đầu tiên cũng đã xuất hiện. Sự xuất hiện nhanh chóng của nhiều nhóm thực vật và các dạng sinh trưởng được gọi là "Sự bùng nổ kỷ Devon". Các loài động vật chân khớp nguyên thủy đã cùng tiến hóa với cấu trúc thực vật đất liền đa dạng này. Sự cùng phụ thuộc tiến hóa của côn trùng và thực vật có hạt, đặc trưng cho một thế giới hiện đại có thể nhận ra được, đã có nguồn gốc từ cuối kỷ Devon. Sự phát triển của các loại hình đất và các hệ thống rễ thực vật dường như đã dẫn tới các thay đổi trong tốc độ và kiểu mẫu của sự xói mòn cùng các trầm tích.
Quá trình 'màu lục hóa' Trái Đất đóng vai trò như một yếu tố làm giảm lượng điôxít cacbon và nồng độ của nó trong khí quyển đã giảm xuống. Điều này có thể đã làm cho khí hậu trở nên mát mẻ hơn và đã dẫn đến sự tuyệt chủng hàng loạt. Xem thêm Sự kiện tuyệt chủng Hậu Devon.
Trong kỷ Devon, cả động vật có xương sống lẫn động vật chân khớp đã thiết lập sự sống vững chắc trên đất liền.
Nấm

Trong khi các loài nấm biển vẫn còn lại trong lòng đại dương và đa dạng thành các nhà tái sinh tự nhiên thì các loài nấm trên đất liền cũng là nơi tái chế của các sinh vật trên đất liền, chúng phân hủy các loại động vật, thực vật chết. Ngoài ra, do có nhiều loài động và thực vật trên đất liền đã xuất hiện nên nấm cũng đã rất thịnh vượng.
 
Top Bottom