Sử 8 [ Lịch Sử 8] Rất Khó

T

tiendat3456

B

boboiboydiatran

Câu 1 duy tân minh trị ảnh hưởng như thế nào với các nước thời bấy giờ?(trung quốc , việt nam)
Câu 2 trong công cuộc hiện đại hoá đất nước hiện nay việt nam có thể học tập được gì từ nhật bản?


câu 1 :

cuộc duy tân minh trị đưa nhật bản nhanh chóng trở nên hùng mạnh ảnh hưởng của nó làm cho việt nam cũng có một số quan lại muốn cải cách đất nước và cuộc duy tân mậu tuất ở trung quốc,ngoài ra ảnh hưởng lớn hơn của nó tới VN và TQ là đưa nhật bản chở thành một nước hùng mạnh dẫn đến nhưng cuộc chiến tranh xâm lược của nhật bản tới việt nam và TQ,nói đúng hơn là nhật bản đi xâm lược trung quốc và việt nam.

câu 2

theo mình việt nam cần học tập nhật bản các họ cải cách đất nước và ứng dụng soa cho phù hợp . đặc biệt chúng ta cần phải học tập nhiều điểm tót đẹp của họ như : luôn cẩn thận,luôn đề phòng trước về tương lai....
_________
khi vọng là đúng và có ích với mọi người
 
L

lasd45

Như chúng ta đã biết, sau khi các cuộc cách mạng tư sản diễn ra ở Hà Lan, Anh và nhiều nước châu Âu khác, chủ nghĩa tư bản với tư cách là một hình thái kính tế xã hội mới đã xuất hiện và bắt đầu có những tác động to lớn đến đời sống chính trị và kinh tế thế giới. Nhờ có nền sản xuất công nghiệp và việc ứng dụng thành tựu kỹ thuật tiên tiến mà năng suất lao động trong trong các nước tư bản đã tăng cao. Sau các cuộc phát kiến địa lý lớn diễn ra vào cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, một số cường quốc châu Âu mà tiêu biểu là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Hà Lan, Pháp… đã ra sức tìm đường đến phương Đông và nhiều vùng đất khác trên thế giới tìm kiếm thị trường, tiến hành hoạt động buôn bán và vơ vét tài nguyên thiên nhiên. Lợi nhuận thu được từ các quốc gia phương Đông trong các thế kỷ XVI-XVII đã góp phần quan trọng tạo ra nguồn tích lũy vốn nguyên thủy cho quá trình công nghiệp hóa và phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản.
Trong quá trình mở rộng ảnh hưởng và bành trướng đó, đến thế kỷ XIX, các quốc gia tư bản sau một thời kỳ phát triển trong điều kiện tự do cạnh tranh đã chuyển dần sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Bằng nhiều cách và mức độ khác nhau, các dân tộc châu Á và nhiều quốc gia trên thế giới đã từng bước trở thành thuộc địa và phụ thuộc nặng nề về kinh tế, chính trị vào các nước tư bản phương Tây. Vào cuối thế kỷ XIX, trong quá trình bành trướng mạnh mẽ của chủ nghĩa thực dân, các nước tư bản Anh, Pháp, Đức, Nga, Mỹ đã dần dần nổi lên như những cường quốc trên thế giới. Theo đó, năm 1881, Pháp đã thiết lập chế độ bảo hộ ở Tunis, năm 1882, Anh chiếm Ai Cập, năm 1883, Đức bắt đầu tham gia giành đất thuộc địa ở Tây - Nam Phi. Trong các năm 1884 - 1885, Pháp và Anh tiến mạnh đến khu vực Đông Dương và Miến Điện (Myanmar) năm 1889 các nước Đức, Anh và Mỹ chiếm vương quốc Samoan và phân chia nước này thành ba vùng cộng trị[3]. Như vậy, đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, phần lớn khu vực Trung Đông, châu Phi, châu Á Thái Bình Dương đều lần lượt rơi vào tay các cường quốc thực dân. Ở Đông Bắc Á, cho đến giữa thế kỷ XIX, các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên cũng bắt đầu bị cơn lốc của chủ nghĩa thực dân tràn tới.
Là một quốc gia có vị trí chiến lược ở khu vực Đông Bắc Á, lại từng là một trung tâm kinh tế lớn của châu Á trong các thế kỷ XVI-XVIII, đến thế kỷ XIX, Nhật Bản trở thành đối tượng chinh phục của nhiều nước tư bản Âu - Mỹ. Từ đầu thế kỷ XIX, nhiều tàu buôn và chiến hạm của Nga, Hà Lan, Anh và Mỹ… đã đến Nhật Bản, yêu cầu chính quyền Edo từ bỏ chính sách tỏa quốc (sakoku) để mở cửa thông thương với thế giới bên ngoài[4].
Nguyễn Trường Tộ (1830[5]-1871) vốn xuất thân trong một gia đình Công giáo, nhưng là người học thông Tứ thư, Ngũ kinh của đạo Nho, lại có điều kiện trải nghiệm thực tế, học tập và tiếp xúc với nền văn minh của nhiều nước phương Đông và phương Tây như Hương Cảng, Singapore, Romas, Thụy Sĩ và Pháp. Chính từ vốn học vấn uyên thâm kết hợp với những trải nghiệm quý báu của bản thân, đã tạo cho ông nhãn quan sắc bén cũng như tầm nhìn sâu rộng với nhiều nhận thức vượt thời đại. Trong bối cảnh và khuynh hướng vận động chung của thế giới thời bấy giờ, Nguyễn Trường Tộ có những nhận định sâu sắc và xác thực: “Ngày nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời, mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân đến, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ”[6].
Ông còn phân tích thêm: “Trước đây trong bài Lục Lợi từ tôi đã bẩm rằng cái kế mưu sinh của phương Tây, quá nửa do đoạt lấy từ nước ngoài… Phương pháp họ dùng để đoạt lấy, chủ yếu là ở xen lộn và thông thương buôn bán. Nếu sơ đầu mà không đạt được yêu cầu, họ sẽ không chiếm đất đai để làm chỗ bảo vệ việc thông thương buôn bán của họ. Nếu được ngay không có gì trở ngại, có thể cư ngụ yên ổn, họ không cần cưỡng bức chiếm cắt (Không phải bản tâm họ không muốn chiếm cắt, nhưng mới đầu, thế buộc phải làm như vậy). Trước tiên họ chỉ tiến hành thiết lập các phố buôn để tiện cư trú buôn bán mà thôi. Như gần đây bọn chúng đã làm ở Nhật Bản, Trung Quốc, Xiêm La vậy. Ý họ cho rằng nếu tranh chấp sớm kết oán càng sâu”[7].
Như vậy, trước sự xâm nhập và bành trướng ngày càng sâu rộng, với cường độ ngày càng gia tăng của các quốc gia tư bản phương Tây, điều tất yếu là các quốc gia phương Đông phải đứng lên bảo vệ chủ quyền dân tộc và giữ gìn những nguồn tài nguyên của đất nước mình. Mỗi quốc gia phương Đông có những tiềm lực và điều kiện khác nhau, cho nên giữa họ cũng có những khuynh hướng tự vệ khác nhau. Dù đấu tranh theo hình thức nào thì cuối cùng các quốc gia phương Đông hoặc phải đứng lên đấu tranh bằng vũ trang hoặc lựa chọn con đường cải cách, duy tân tiến tới tự cường đất nước. Tuy cách thức có khác nhau nhưng cả hai con đường đó đều có mục tiêu chung là bảo vệ nền độc lập, chủ quyền dân tộc.
Là quốc gia tiêu biểu ở châu Á tiến hành thành công cải cách đất nước, giới lãnh đạo phong trào cải cách ở Nhật Bản đã có những nhận thức đúng, kịp thời và vận dụng có hiệu quả thuyết thế và thời trong triết luận phương Đông vào công cuộc “phú quốc cường binh”, hơn thế họ còn vượt qua được “định mệnh” của lịch sử, bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, sánh vai cùng đội ngũ liệt cường thế giới. Đúng như trí sĩ Nguyễn Trường Tộ từng nhận xét về bối cảnh thế giới và hiện trạng của Nhật Bản cũng như một số quốc gia khác thời bấy giờ: “Theo phép liên hoành và cân bằng thế lực trên thế giới mà cái gương thành công thất bại gần ta nhất như nguyên do Ấn Độ mất toàn lãnh thổ, Miến Điện bỏ một nửa đất đai, Xiêm La, Nhật Bản, Trung Quốc được lợi lớn, có thể thấy được đại khái là do không biết thời thế. Không biết thời thế thì tri thức câu chấp, tâm tính hẹp hòi”[8].
 
Top Bottom