Sử 8 [ Lịch Sử 8] Kháng chiến chống Pháp

D

depvazoi

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Bài tập:
1. Lập bảng thống kê phong trào chống Pháp ở cuối TK XIX theo các mục sau:
Thời gian|cuộc khởi nghĩa|lãnh đạo
2. Trình bày những nét lớn về quá trình xâm lược của Thực dân Pháp ở nước ta từ năm 1858-1884?
3. Nêu chính sách cai trị của Pháp ở 6 tỉnh Nam Kì?
4. Tại sao nói từ 1858-1884 là quá trình đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ của triều Nguyễn trước quân xâm lược?
 
Last edited by a moderator:
0

0872

4. Tại sao nói từ 1858-1884 là quá trình đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ của triều Nguyễn trước quân xâm lược?

s8_zps9c61dc8a.png
 
H

huuthuyenrop2

Câu 3:
Trên l‎ý thuyết, các chính sách kinh tế, xã hội và quân sự người Pháp áp dụng tại Việt Nam phải dựa trên một chính sách chung dành cho tất cả các thuộc địa và đất bảo hộ, được hoạch định từ bộ Thuộc địa Pháp. Tuy nhiên trên thực tế các viên chức đại diện cho Pháp tại thuộc địa có toàn quyền hành xử, do đó chính sách cai trị thay đổi tùy thuộc vào khuynh hướng chính trị và tính tình của từng cá nhân.[7]
Lúc bấy giờ trong các lý thuyết gia thuộc chính giới Pháp có hai khuynh hướng khác biệt về chính sách thuộc địa, một khuynh hướng chủ trương đồng hóa (assimilation), một chủ trương liên hiệp (association).[8] Quan điểm của chính sách đồng hóa cho rằng các nước thuộc địa và bảo hộ không thể tồn tại và phát triển như những cơ thể độc lập, mà phải có sự hòa hợp thống nhất giữa mẫu quốc và thuộc địa trong tất cả các lãnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quân sự và an ninh. Quan điểm của chính sách liên hiệp cho rằng việc đồng hóa là không tưởng, và trên thực tế nên cai trị thế nào để có lợi cho đôi bên, và cần tôn trọng các khác biệt giữa mẫu quốc và thuộc địa.[9]
 
H

huuthuyenrop2

Em không biết quá trình xâm lược nước ta nhưng có biết chút ít về châu Á anh xem giúp được không nếu không thì xóa nhé


Sự xâm lược của của nghĩa thực dân phương Tây ở châu Á
Nhìn chung, Đông Nam Á là khu vực trở thành “viên ngọc” có lực hút các nước châu Âu, khu vực có nhiều thực dân xâm chiếm nhất, do vị trí địa-chính trị của nó. Đồng thời, quá trình chinh phục của thực dân phương Tây đối với Đông Nam Á có thể nói là đa dạng, không đồng đều và phức tạp như quá trình chinh phục với những thời điểm khác nhau, tốn nhiều tiền bạc và của cải, thời gian chinh phục lúc kéo dài (như trên dưới 3 thế kỉ mới chinh phục được In-đê-nô-xia, Miến Điện…), có lúc chỉ tốn nửa thế kỉ (như Pháp chiếm Đông Dương). Lý do là chúng vấp phải sự kháng cự quyết liệt của nhân dân các nước này. Hay tạo ra vùng đệm đặc biệt đó là Thái Lan.
Ở khu vực Nam Á, Ấn Độ trở thành mục tiêu đầu tiên của các cuộc xâm lược của thực dân châu Âu. Ấn Độ bị thực dân châu Âu nhòm ngó đầu thế kỉ XVI và trải qua 3 thế kỉ, họ mới hoàn thành công cuộc chinh phục nước này. Từng bước một từ thấp đến cao, chủ nghĩa thực dân đã hoàn thành cuộc xâm lược của mình ở Ấn Độ.
Bồ Đào Nha là cường quốc thực dân đến Ấn Độ sớm nhất. Vì Nước này có kinh nghiệm đi biển sớm và dài ngày. Chủ nghĩa thực dân đã thôi thúc người châu Âu đi tìm những vùng đất mới và Bồ Đào Nha rất thích hợp với vai trò tiên phong này. Năm 1498, V.G Gama sau khi đi vòng quanh ven biển châu Phi đã đặt chân lên Calicut (nay thuộc Kê-rê-la) miền Tây Nam Ấn Độ, theo chân nhà thám hiểm này, các thương nhân Bồ Đào Nha đến đây buôn bán và lập thương điếm từ năm 1510.
Sau Bồ Đào Nha là người Hà Lan. Năm 1602, Hà Lan thành lập công ty Đông Ấn. Mặc dù gạt bỏ được ưu thế của người Bồ Đào Nha và chiếm một số vùng đất làm thương điếm nhưng cả hai nước này đều không đứng vững được ở Ấn lý do là phải đối mặc với 2 địch thủ cạnh tranh mạnh hơn là Anh và Pháp.
Anh đến Ấn muộn hơn, nhưng quá trình xâm nhập lại hiệu quả hơn. Người Anh đầu tiên đến Ấn là Phô-mát Xphen năm 1578. Sau khi trở về Anh, ông ta đã trình lên nữ hoàng Anh Ê-li-da-bét về Ấn – một vùng đất kim cương và tất cả những cái hay về đất nước này…Người Anh lập tức xúc tiến kế hoạch xâm lược Ấn Độ. Đến giữa thế kỉ XVII, Anh thông qua công ty Đông Ấn của mình đã lập nhiều căn cứ ở Ma-đrat, Cancutta, Bombay… Những địa điểm này đã trở thành trung tâm thương mại lớn ở vùng Viễn Đông. Đây chính là cơ sở để Anh gặt bỏ đối thủ của mình là Bồ Đào Nha và Hà lan, sau này là Pháp ở Ấn Độ.
Sau Anh, Pháp là nước tiếp theo đến Ấn (giữa thế kỉ XVII), Pháp sau khi đến Ấn cũng lập tức chiếm các căn cứ và thiết lập các thương điếm của mình. Tuy nhiên, các thương điếm của công ty Đông Ấn của Pháp (lập năm 1664) ở Ấn nhỏ và tổ chức kém chặt chẽ hơn Anh, lại bị sự trói buộc của chính quyền phong kiến ở Pháp nên các hoạt động thương mại không được khởi sắc (như Pông-đi-xê-ri và San-đéc-na-go), hơn nữa Pháp gặp nhiều khó khăn bởi nhân dân ở đây thường xuyên nổi dậy đấu tranh.
Ngoài ra, Đan Mạch, Thụy Điển, Áo…cũng đặt chân lên mảnh đất phì nhiêu này thành lập các công ty Đông Ấn và lập căn cứ thương mại. Như vậy, đến thế kỉ XVII, hầu hết các nước thực dân đều có mặt ở Ấn Độ và đều thiết lập các thương điếm. Sự cạnh tranh gay gắt này ở Ấn vào thời kì đầu đều thông qua các công ty Đông Ấn mà đứng đằng sau là các chính phủ. So sánh với các nước Đông Nam Á, cuộc xâm lược của thực dân phương Tây ở Ấn có những nét khác biệt. Nếu như Đông Nam Á các nước thực dân tiến hành xâm lược ồ ạt và ngay lập tức vấp phải sự kháng cự quyết liệt của nhân dân ở đây thì tình hình ở Ấn lại khác. Ở Ấn, các nước thực dân không tiến hành xâm lược ồ ạt mà tiến hành xâm lược từ từ theo từng công đoạn và giai đoạn đầu tiên là lập các thương điếm.
Đến thế kỉ XVIII, cả Anh cà Pháp đều đẩy mạnh xâm lược Ấn. Đến thời kì này, Anh đã tìm cách gạt bỏ các đối thủ cạnh tranh của mình ở Ấn, nạn nhân đầu tiên là Bồ, Hà Lan. Sau đó, đối thủ tiềm tàng và ngang ngửa là Pháp. Hai kẻ thực dân hàng đầu này không thể tồn tại trong cùng một mảnh đất. Thế là cuộc chiến tranh Anh – Pháp diễn ra (1746 – 1763) ở Ấn. Bằng ưu thế vượt trội của mình (Anh là nước tiến hành cách mạng tư sản sớm, nước đầu tiên tiến hành cách mạng công nghiệp, hải quân đứng đầu thế giới…) Anh đã nhanh chóng đánh bại Pháp, độc chiếm Ấn Độ (1763) và không còn đối thủ nào nhòm ngó nữa. Từ giữ thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX, gần như 100 năm Anh bình tĩnh một mình chinh phục Ấn Độ, lần lượt tiêu diệt các tiểu quốc ở đây theo kiểu “tằm ăn lá dâu”. Bằng sự kiên trì, mánh khóe, Anh từng bước chinh phục toàn bộ Ấn (1849). Từ một nước đế quốc đến sau, Anh đã vươn lên và trở thành đế quốc duy nhất thống trị Ấn Độ.
Sỡ dĩ Anh gạt bỏ lần lược đối thủ của mình để chinh phục và thống trị Ấn Độ là do những nguyên nhân sau:
+ Triều đại Mô-gôn ở Ấn suy yếu và bất lực về nhiều mặt như kinh tế, chính trị, mâu thuẫn xã hội sâu sắc … đã tạo điều kiện thuận lợi cho Anh xâm lược Ấn.
+ Thủ đoạn xâm lược của Anh khác với các nước khác ở chỗ như khôn khéo, mánh khóe hơn. Để tiến hành xâm lược, Pháp dùng giáo sĩ đi trước, gươm súng đi sau, giữa giáo sĩ với thực dân gắn bó mật thiết như hình với bóng. Còn Anh, phương cách tiến hành xâm lược thường theo kiểu thương nhân đi đầu trong quá trình xâm lược – những thương nhân tỏ ra hiền lành, vô hại với tình hình chính trị bản địa, họ mang đến nhiều điều có lợi lớn hơn có hại, những món quà làm hài lòng dân bản địa”. Vì vậy, quá trình xâm lược của Anh nhiều khi không phải tiến hành bằng chiến tranh ào ạt mà bằng hình thức “tằm ăn lá dâu”. Nhận xét về sự thành công của người Anh, J.Nê-ru nói: “ Trong số các nước thực dân đến Ấn Độ, người Anh và khi ấy chỉ có người Anh thôi có nhiều tính cách nhất cho sự thành công”.
+ Trong các nước thực dân lúc bấy giờ, Anh là nước có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất. Chính tiềm lực ấy là cơ sở vững chắc để thực dân Anh chinh phục được nhiều miền đất khắp hành tinh mà không một nước thực dân nào bằng.
Cùng với quá trình xâm lược các nước phương Đông nói chung và Ấn nói riêng, thực dân Anh đã thiết lập nền thống trị của mình ở Ấn lâu dài, Ấn Độ bị Anh cai trị trực tiếp, phải hát Quốc ca Anh…Ấn Độ là một bộ phận quan trọng nhất trong hệ thống thuộc địa của Anh, nhờ đó Anh trở nên cường thịnh vào cuối thế kỉ XIX đầu XX.
Ở vùng Tây Nam Á, tình hình chính trị, kinh tế…của các nước ( Thổ Nhĩ Kì, Ba Tư (Iran)…khủng hoảng và suy yếu nghiêm trọng. Điều kiện đó, các nước thực dân phương tây có cơ hội xâm lược, song do cạnh tranh gay gắt và quyết liệt giữa các nước với vùng có vị trí địa –chính trị, địa - kinh tế quan trọng nên các nước này giành được độc lập về hình thức nhưng trên thực tế các nước này vẫn là những nước phụ thuộc.
Trung Quốc là một nước rộng lớn và đông dân nhất thế giới, giàu tài nguyên…đã trở thành mục tiêu xâm lược của thực dân châu Âu, nhưng vì Trung Quốc là một nước lớn nên không một nước thực dân nào có thể một mình chinh phục. Do đó, Trung Quốc đã bị nhiều nước thực dân tranh nhau sâu xé từ giữa thế kỉ XIX. Đi đầu là Anh. Anh đã gây ra cuộc chiến tranh Nha Phiến (hay chiến tranh Thuốc phiện) từ năm 1840 – 1842, buộc triều đình phong kiến Mãn Thanh kí Hiệp ước Nam Kinh (1842), chịu nhiều điều khoảng rất nặng nề. Với Hiệp ước này, đã mở đầu và biến Trung Quốc từ một quốc gia độc lập có chủ quyền trở thành nước nửa thuộc địa nửa phong kiến. Đây cũng là mốc mở đầu thời kì Cận đại trong lịch sử Trung Quốc.
Theo chân Anh, các nước thực dân khác cũng lần lược chinh phục Trung Quốc và cũng như Anh, các nước thực dân cũng ép triều Thanh phải kí lần lược các Hiệp ước bất bình đẳng. Trên cơ sở những hiệp ước được kí, các nước phương Tây đã từng bước xâm nhập vào thị trường Trung Quốc, đẩy Trung Quốc vào tình trạng phụ thuộc.
Quá trình xâm lược của Anh và các nước châu Âu khác ở Trung Quốc có những nét khác biệt so với quá trình xâm lược các khu vực khác trước đó. Sỡ dĩ có tình hình này bởi Trung là một nước rộng lớn, đông dân, không một nước thực dân nào có thể chiếm trọn đất nước này một mình và bằng những biện pháp thông thường như các nước khác. Khác với các khu vực khác, ở Trung Quốc, các nước thực dân đã dùng biện pháp mua hoặc thuê đất để lập tô giới. Về thực chất đây là vùng thuộc địa nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, hoàn toàn thuộc về đế quốc bên ngoài.
Tiếp theo hoạt động mua và thuê đất để lập tô giới, các nước thực dân đã tiến hành các cuộc chiến tranh quyết liệt như chiến tranh Trung – Pháp (1884 – 1885), chiến tranh Trung – Nhật (1894 – 1895) và tiếp tục Mãn Thanh rơi vào thất bại phải kí Hiệp ước mất chủ quyền. Với Hiệp ước Mã Quan, Nhật trở thành đế quốc duy nhất ở châu Á có thể sánh vai với các nước lớn trên thế giới. Đây là tiền đề để Nhật bước vào thế kỉ XX thuận lợi.
Đến cuối thế kỉ XIX đầu XX, cơ bản các nước đế quốc đã phân chia xong thế lực của mình ở Trung Quốc. sau cùng là Mỹ, đã thực hiện chính sách “mở cửa” (1889) để chen chân vào thị trường Trung Quốc và lần lược buộc các nước đế quốc phài công nhận thế lực của Mỹ.
Như vậy, đến cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Trung Quốc trở thành nước nửa thuộc địa nửa phong kiến, trở thành một miếng bánh khổng lồ để các nước đế quốc xâu xé và chia nhau.
Lý giải như thế nào vào cuối thế kỉ XIX đầu XX, hầu hết các nước châu Á (trừ Nhật và Xiêm) đều trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc thực dân? Thảm cảnh này có nhiều lý do giải thích nhưng khái quát lại có hai điểm đáng lưu ý sau đây:
Thứ nhất, nguyên nhân cơ bản chính là sự khủng hoảng, sụp đổ của chế độ phong kiến, chế độ này đã làm mất dần vai trò lịch sử của nó.
Thứ hai, phương cách giữ nước và chống xâm lược của các nhà cầm quyền của các nước châu Á đều là “đóng cửa” coi đó là phương cách tốt nhất để tự vệ. Rõ ràng đây là cách bảo vệ đất nước thụ động, không kịp thời và làm giảm sức mạnh dân tộc, gạt đi những cái tiến tiến ở bên ngoài mà đáng lẽ ra cần phải tiếp thu. Sự mở cửa và đón nhận yếu tố bên ngoài, kết hợp với cuộc cải cách, duy tân (như Nhật, Xiêm) đã đem lại kết quả là những nước này thoát khỏi số phận thuộc địa. Đó là phương cách tự vệ chủ động và cũng là hội nhập chủ động vào tiến trình phát triển của thế giới.
Tóm lại, quá trình chủ nghĩa thực dân xâm lược châu Á là tương đối sớm. Tuy nhiên cấp độ tiến hành xâm lược lại rất khác nhau về thời gian và cách thức…Sự khác nhau đó tùy thuộc vào khu vực, tùy thuộc vào tiềm lực của từng nước đế quốc thực dân.
Trong suốt quá trình tồn tại của mình, chủ nghĩa thực dân có một vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử nhân loại. Việc xâm chiếm thuộc địa có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa thực dân. Dĩ nhiên quá để đi đến sự thống trị các nước thuộc địa ở châu Á có hiệu quả thì chủ nghĩa thực dân phải tốn không ít những thách thức về người và của.
Khi đã trở thành thuộc địa, nửa thuộc địa nhân dân các nước châu Á bị thống trị trở thành đối tượng bóc lột dã man của các nước thực dân. Nền thống trị mà các nước thực dân áp đặt ở thuộc địa là hà khắc và toàn diện.
 
Top Bottom