I. Quá trình hình thành của các quốc gia phong kiến Tây Âu
1. Các yếu tố dẫn đến sự hình thành Nhà nước Phong Kiến Phương Tây.
1.1 Yếu tố tác động từ bên trong.
a. Sự suy yếu của đế quốc La Mã
FKhoảng cuối thế kỉ II, đầu thế kỉ III, phương thức sản xuất chiếm nô Rôma bị khủng hoảng. Số nô lệ giảm sút mạnh, giá bán rất cao nên nô lệ không còn là nguồn lợi chính mà còn trở nên nguy hiểm. Kinh tế công- thương-nghiệp theo đó bị đình trệ.
F Trong khi đó ở phía Đông, nhờ sự liên hệ với các nước Phương Đông nên kinh tế phát triển hơn. Năm 330, hoàng đế Conxtantinut dời đô sang miền đông, năm 395, hoàng đế Têôdôdiut chia La Mã thành 2 quốc gia tách biệt: Tây La mã và Đông La Mã.
b. Sự hình thành quan hệ sản xuất phong kiến ở Tây La Mã
F Quan hệ sản xuất dần không còn phù hợp, những mầm mống sản xuất phong kiến đã xuất hiện, biểu hiện cụ thể qua hai mặt diễn ra đồng thời, đan xen lẫn nhau đó là:
s lãnh địa hóa toàn bộ ruộng đất
s nông nô hóa giai cấp nông dân
F Do nô lệ giảm sút, năng suất lao động ngày càng thấp. Chủ nô buộc phải nghĩ ra cách thức mới để bóc lột của họ có hiệu quả. Đó là chia nhỏ ruộng đất và giao cho các nô lệ tự cày cấy. Công cụ, giống má là của chủ nô, một phần thu hoạch nô lệ được hưởng, phần lớn thuộc về chủ nô. Họ chia đất của mình làm 2 phần :
s phần nhỏ hơn (1/3) do chủ đất trực tiếp quản lý
s phần lớn hơn (2/3) họ lại chia thành nhiều mảnh nhỏ, phát canh cho những nông dân tự do và nô lệ.
Họ có nghĩa vụ lao động và nộp lại cho chủ đất một khoản tiền
hoặc hiện vật (gọi là địa tô);
s Ngoài ra họ phải đến lao động không công trên phần đất củachủ đất trong một số ngày nhất định (gọi là tô lao dịch). Họ không còn bị giám sát chặt chẽ như trước mà có phần tự do hơn.
s Đó chính là những người “lệ nông”, tiền thân của thân phận nông nô thời kì phong kiến sau này.
F Trong thời kỳ này, xã hội La Mã còn tồn tại một số nông dân tự do, trước nạn cướp bóc khắp nơi, họ không thể tự bảo vệ mình, nhà nước La Mã suy yếu cũng không thể bảo vệ họ. Các chủ đất lợi dụng hoàn cảnh và địa vị xã hội đã tổ chức quân đội riêng để bảo vệ đất, giữ gìn an ninh trong phần đất của mình. Do vậy, những nông dân tự do tìm đến chủ đất lớn xin được bảo vệ bằngcách biến đất của mình thnhà của chủ đất rồi lĩnh canh tại đó và trở thành lệ nông.
F Đất đai của các chủ đất ngày càng lớn hơn, dần chúng nắm quyền thu thuế, lập tòa án riêng và nhà tù, thế lực ngày càng mạnh, có xu hướng thoát ly sự kiểm soát của chính quyền TW. Nếu coi những “lệ nông” là tiền thân của nông nô thời trung cổ thì có thể coi những tên chủ đất này là tiền thân của những lãnh chúa phong kiến tương lai.
Như vậy, trong xã hội lúc bấy giờ đã hình thành 2 giai cấp tiền thân của giai cấp đặc trưng cho chế độ phong kiến là địa chủ và lệ nông. Phương thức bóc lột sức lao động trong thời kỳ này cũng đã thay đổi và chuyển sang phương thức bóc lột của chế độ phong kiến là “ địa tô”
1.2 Yếu tố tác động từ bên ngoài.
F Bên cạnh các yếu tố nội tại, ở phía đông biên giới sông Ranh và sông Đanuýp của La Mã là địa bàn cư trí của người Giecman gồm nhiều tộc người như Frăng, Iaraniêng…Lúc này, họ vẫn đang sống trong thời kỳ công xã thị tộc mạt kỳ, người La Mã gọi họ là “man tộc”.
F Người Giecman là bộ tộc lớn ở Đông bắc đế quốc La mã, vào đầu thế kỉ công nguyên, chế độ công xã nguyên thủy do sự phát triển về kinh tế và dân số tăng nhanh, 1 số bộ tộc người Giec-man đã di cư vào lãnh thổ Rôma để sinh sống (cuối thế kỉ II). Đến giữa thế kỉ IV, người Giecman ồ ạt xâm nhập vào Rôma.
F Năm 476, một viên tướng người Giecman chỉ huy quân cấm vệ của Hoàng đế Rôma làm chính biến, giết chết Hoàng đế. Đế quốc Tây Rôma bị diệt vong. Chính quyền TW của Rôma không còn. Các vương quốc “man tộc” được dịp bành trướng khắp lãnh thổ Tây Rôma cũ và bắt đầu thực hiện phương thức sản xuất mới Phương thức sản xuất phong kiến. Chế độ phong kiến ra đời thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ.
· Nhưng một tộc người có trình độ văn minh thấp hơn làm sao có thể quản lý và cai trị một quốc gia có trình độ phát triển caohơn?
F Khi chinh phục những người La Mã có trình độ phát triển caohơn mình, người Giecman không thể dung nạp họ vào các thị tộc của mình, cũng không thể dùng những tập đoàn này để quản lý họ được. Do đó các cơ quan quản lý thị tộc buộc phải nhanh chóng chuyển hóa thành cơ quan Nhà nước phù hợp để thống trị được người La Mã. Nhà nước đó không thể là nhà nước Chiếm hữu nô lệ vì hình thức này đã không còn thực tế và hiệu quả nữa. Lực lượng sản xuất đã phát triển đến giai đoạn mới, dần trở thành lực lượng sản xuất của chế độ Phong kiến, vì vậy QHSX và KTTT cũng phải phù hợp theo.
àCho nên, nhà nước mà người Giecman có thể thiết lập chỉ là nhà nước Phong kiến mà thôi.
F Trong quá trình này, các thủ lĩnh quân sự đoạt lấy quyền lực, thay thế cho các tù trưởng, lại được sự ủng hộ của quân đội nên đã trở thành Vua với quyền lực tối cao. Vua tuyên bố tất cả đất đai chiếm được đều thuộc quyền sở hữu của Vương triều và đem đất đó phong tặng cho những người có công lao như quý tộc quân sự, thị tộc, tăng lữ, quan chức La Mã cũ ủng hộ giúp chính quyền mới…
F Về xã hội Tây La Mã, đang manh nha phát triển thành xã hội Phong kiến thì xuất hiện cuộc chiến giữa các tộc người Giecman.Đóng vai trò như nhân tố thúc đẩu làm cho xã hội chuyển hóa sang xã hội Phong kiến một cách dứt khoát và nhanh chóng hơn.
Nguồn; zing blog