Sử 7 [Lịch sử 7]Nho giáo thời Lê Sơ

C

caybutthanki

vì văn hóa Việt Nam ảnh hưởng văn hóa của Trung Quốc rất nhiều (vì chúng ta bị gần 1000 năm bắc thuộc và các triều đại TQ muốn đồng hóa chúng ta mà). mà ở TQ thời bấy giờ nho giáo chiếm vị trí độc tôn nên việc chúng ta ảnh hưởng là không thể tránh khỏi mặt khác thời Lê sơ đất nước ta cũng mới thoát khỏi ách đô hộ của giặc phương bắc chưa lâu nên vẫn còn ảnh hưởng nhiều hơn nữa nho giáo cũng là một đạo giáo tiến bộ thời bấy giờ tuy nhiên có phần khắt khe ,trọng nam khinh nữ (nhìn theo quan điểm của thời đại mới).
với lại Nho giáo ngoài chuẩn mực đạo đức. Nó còn hướng đến cách trị nước, bình thiên hạ, đề ra nhiều biện pháp, chuẩn mực giáo dục, xây dựng luật pháp (cái mà Phật giáo không có được). Trong khi thời lê sơ, bộ máy nhà nước của ta chưa được hoàn chỉnh, nên cần tiếp thu Nho giáo để xây dựng luật pháp, giáo dục,...

nhớ thanks chị cái nha
 
  • Like
Reactions: Detulynguyen
H

hpthao_99

Bổ sung: PK bấy giờ dùng nho giáo làm cơ sở tư tưởng cho ND nên k muốn giáo phái nào khác xâm nhập vào nước ta
 
I

izamaek

Vậy có phải nhà Lý là nền móng không ta ;-?
Mà tại sao từ nhà Trần nhà Lý đạo Phật lại suy yếu
 
L

langtham_98

I. QUÁ TRÌNH DU NHẬP CỦA NHO HỌC VÀO VIỆT NAM.

Tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luận hướng dẫn tư duy và hành động cho dân tộc mình là một chân lý phổ biến, là một sự thực khách quan của các thời đại, của các dân tộc.

Thực tế này có căn cứ vững chắc trong sự phát triển. Đó là sự phát triển không đồng đều của các dân tộc qua không gian và thời gian. ở cùng một thời đại, ta thường thâý ở một vùng này, có một dân tộc hoặc một vài dân tộc khác cao hơn, nhanh hơn, mạnh hơn các dân tộc khác ở xung quanh. Sự thực này ta có thể tìm thấy ở Châu á, Châu Phi, Châu Âu, Châu Mỹ, ở thời xưa cũng như thời nay. Những dân tộcc ở bất cứ đâu, bất cứ thời nào muốn sống, muốn nâng cao mức sống của mình không thể không học tập những dân tộc tiên tiến. Ta không hề thấy một dân tộc nào cứ chịu lạc hậu, chịu áp bức bóc lột nghèo nàn để chờ sự sáng tạo của riêng mình không thèm học tập những dân tộc tiến bộ hơn mình. Điều này đúng với khoa học tự nhiên và kỹ thuật cũng như vưói khoa học xã hội. Vì thế chúng ta tiếp thu tư tưởng văn hoá Trung Quốc là một điều tất yếu.

Trong ý thức hệ phong kiến mà người Hán đưa vào nước ta từ thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo lâu bền nhất và có ảnh hưởng sâu sắc nhất. Phật giáo dần dần rút lui vào chùa chiền, lão giáo cũng dần biến thành một thứ mê tín dị đoan mà các thầy phù thuỷ dùng làm kế sinh nhai. Tư tưởng trị vì trong lĩnh vực chính trị và học thuật suốt 2000 năm là tư tưởng Nho giáo. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân vô cùng quan trọng là sức sống của dân tộc. Trong hoàn cảnh thời trước, nhất là từ khi giành được nền tự chủ dân tộc Việt Nam muốn tồn tại thì phải chọn lấy một ý thức hệ tích cực, quan tâm đến con người đến cuộc đời, đến xã hội, đến vận mệnh dân tộc. Nho giáo có nhiều hạn chế nhưng trong 3 ý thức hệ phong kiến thì phải nói Nho giáo có nhiều nhân tố tích cực nhất. Do đó cha ông ta đã chọn lấy Nho giáo.

Chúng ta đã biết, lúc đầu Nho giáo được đưa vào Việt Nam trong trường hợp không hay ho gì. Nó bị bọn xâm lược đặt lên nhân dân ta với ý định gây cảnh “đồng văn” để dễ “đồng hoá”. Nhưng khi đã làm quen với đạo Nho, chắc rằng nhân dân ta thời đó thấy nó đáp ứng được nhiều vấn đề mà đời sống đặt ra, nên khi giành được độc lập, nhân dân ta nói lấy nó làm nền tảng lý luận để chỉ đạo tư duy và hành động của mình. Thế là từ chỗ bị ép học nó, nhân dân ta đã tự nguyện học nó và ngày một phổ biến nó một cách rộng rãi. Vì thế những người Việt Nam đầu tiên được giữ những chức vụ quan trọng dưới thời Bắc thuộc như Lý Tiến, Lý Cầm - làm thái thú, thứ sứ - đều là những người học thông kinh truyện, xuất thân từ khoa bảng. Ngay khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán, giành được độc lập đã xây dựng thể chế quốc gia, đặc các nghi lễ phẩm phục, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, tức là tinh thần tôn ti đẳng cấp. Các triều đại đầu tiên khi niên hiệu, tôn hiệu cũng đã thể hiện sự tin tưởng màu sắc là lý thuyết mệnh trời như “ứng thiên”, “thuận thiên” “Phụng thiên”. Phần “Chiếu dời đô” của nhà Lý tuy đoạn còn lại với chúng ta rất ngắn, cũng đượm mùi Nho giáo. Cái gương “nhà Thương, nhà Chu” cũng được nêu lên, cái gương “kính vâng mạng trời” cũng được nhấn mạnh. Các triều đại sau, Trần, Lê, Nguyễn thờ đạo Nho như thế nào thì sử sách đã nêu rõ.
 
L

langtham_98

II. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG VIỆT NAM.

1.Những nhu cầu xã hội giúp cho Nho giáo chiếm được địa vị độc tôn trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam.

Nho giáo Việt Nam chiếm được vị trí độc tôn từ thế kỷ 15 và thịnh đạt nhất vào thời Lê Thánh Tông thì đó không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Bởi vì nó có liên hệ với những nhu cầu xã hội nước ta lúc đương thời. Những nhu cầu này không chỉ tồn tại ở thế kỷ 15 mà đã sớm xuất hiện từ trước ngay khi Nho giáo còn đang trên đà phát triển.

Trong những nhu cầu đó đáng kể trước hết là nhu cầu xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền lớn mạnh và nhu cầu củng cố trật tự đã ổn định của xã hội phong kiến.

Ngay từ sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại ở thế kỷ X, việc xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đã tỏ ra cần thiết cho công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy nhiên dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê việc xây dựng một nhà nước chủ thế mới chỉ làm được những bước đầu tiên và chưa thực sự được đẩy mạnh, phải đợi đến thế kỷ XI với sự xác lập của vương triều Lý thì nhà nước phong kiến tập quyền mới được xây dựng một cách quy mô bề thế, với những tổ chức và thể chế trùng điệp của nó. Tiếp đó là triệu đại nhà Trần, rồi đến Lê Lợi khi đã lãnh đạo cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi đều quan tam tới việc củng cố chế độ phong kiến tập quyền và xây dựng một bộ máy nhà nước trung ương hùng mạnh không kém gì phương Bắc.

Nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam ra đời là một sự phủ định chính quyền của bọn phong kiến phương Bắc kéo dài trong 1000 năm Bắc thuộc. Thế cho nên khi xây dựng nhà nước tập quyền của mình, giai cấp phong kiến Việt Nam phải tiếp thu những kinh nghiệm và nguyên tắc tổ chức của nhà nước phong kiến tập quyền phương Bắc cùng với Nho giáo là cơ sở lý luận của Nhà nước. Vả lại trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ chỉ có Nho giáo mới có thể giải đáp được những vấn đề thiết thân đến việc củng cố nhà nước như vấn đề quân quyền, quy định các chương lễ chế và cơ cấu hành chính từ triều đình đến địa phương... Đó là những vấn đề mà bản thân phật giáo cũng như Lão giáo với toàn bộ hệ thống lý thuyết của nó không hề có một sự giải đáp thích đáng nào cả. Cho nên từ thế kỷ XV trở đi Nho giáo ngày càng được giai cấp phong kiến Việt Nam trọng dụng thì đó cũng là điều dễ hiểu. Sự thực chứng tỏ rằng trong thời Lý, Trần, Nho giáo đã bắt đầu được vận dụng một cách rõ rệt vào hoạt động thực tiễn nhằm củng cố chính quyền nhà nước.
Sau nữa, củng cố ở thời Lý, Trần và nhất là thời Lê sơ, tôn ti trật tự của chế độ phong kiến tập quyền cùng với sự phân biệt rạch ròi về quyền lợi và đẳng cấp của nó đã dần dần ổn định. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự khẳng định về mặt lý luận. Vả lại vào cuối triều Lý và nhất là khi nhà Trần suy vong, mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và đa số nhân dân đã lộ rõ, mầm phản kháng của nhân dân chống lại cái trật tự khắc nghiệt của chế độ phong kiến đã trở thành một sự nổi bật hơn cả những cuộc hỗn chiến giữa các tập đoàn thống trị. Trong hoàn cảnh ấy giai cấp phong kiến Việt Nam muốn tăng cường bộ máy Nhà nước và duy trì trật tự xã hội thì không thể không tìm đến cái đạo trị quốc bình thiên hạ, cái lý thuyết chính danh định phận và lễ trị của Nho giáo.

Quá trình phát triển của chế độ trung ương tập quyền Việt Nam gắn liền với sự củng cố quyền sở hữu của Nhà nước và sự bành trướng của sở hữu tư nhân về ruộng đất. Hầu hết ruộng đất dù là ruộng công của làng xã hay ruộng của địa chủ đều được sử dụng trong khuôn khổ sản xuất nhờ lấy gia đình làm đơn vị. Trong mỗi gia đình không những cơ quan hôn nhân, huyết thống mà còn có cả quan hệ sở hữu, phân phối sản phẩm, phân công lao động cho đến những quan hệ tinh thần. Tất cả những quan hệ ấy chứng tỏ vai trò của người gia trưởng và tôn ti trật tự của gia đình có một ý nghĩa rất lớn. Đó chính là cơ sở để Nho giáo dễ thâm nhập vào cuộc sống bởi vì Nho giáo với các khái niệm hiếu, đễ, tiết, hạnh đã góp phần củng cố uy quyền của người gia trưởng và tôn ti trật tự trong gia đình.

Cuối cùng phải kể đến nhu cầu phát triển văn hoá và giáo dục nước ta khi chế độ phong kiến tập quyền đã bắt đầu, việc bổ sung quan lại bằng hai con đường “nhiệm tử” và “thủ sĩ” không đủ mà cần phải bổ sung một phương thức đào tạo và tuyển lựa quan lại mới. Phương thức này chỉ có thể phát triển giáo dục văn hoá và thực hiện chế độ thi cử để tuyển lựa nhân tài. Lúc đương thời Phật giáo, Lão giáo không chỉ đảm nhiệm công việc đó. Cho nên Nho giáo vốn có đầy đủ lý thuyết và quy chế về giáo dục và khoa cử tất nhiên phải đảm đương nhiệm vụ lịch sử ấy.

Tất nhiên những nhu cầu xã hội nói trên mới chỉ là những cơ sở khách quan cho sự phát triển Nho giáo ở nước ta mà thôi. Sự phát triển đó muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua hoạt động của những con người cụ thể, những lực lượng xã hội cụ thể. Trong thực tế từ vua cho đến các đại thần nắm quyền chính trị dưới càng triều Lý, Trần cũng như các thế hệ nho sĩ đời sau đều đã nhận thức được vai trò cần thiết của Nho giáo. Và đã tiến hành những bước truyền bá và sử dụng Nho giáo trong xã hội Việt Nam.


2. Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam.

Sự phát triển của Nho giáo Việt Nam không tách rời những yêu cầu xã hội như trên đã nói, choi nêdn trong buổi thịnh tự nhất, nó không khỏi có một số tác dụng tích cực.

Trước hết là cương vị độc tôn, Nho giáo đã có thêm nhiều sức mạnh và uy thế tóp phần củng cố và phát triển chế độ quân chủ và những kinh nghiệm mẫu mực cho việc chấn chỉnh và mở rộng nhà nước phong kiến tập quyền theo một quy mô hoàn chỉnh có đầy đủ những thể chế và điều phạm. Mà ở thế kỷ XV, các xu thế phát triển đó đã và đang giữ vai trò thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trên các bình diện sản xuất và củng cố quốc phòng.
Như đã biết, quá trình đi lên của Nho giáo Việt Nam không tách rời yêu cầu phát triển nền kinh tế tiểu nông gia trưởng dựa trên quyền sở hữu của giai cấp địa chủ của nhà nước và của một bộ phận nông dân trực tiếp tự canh về ruộng đất. Vì thế cho nên khi chiếm được vị trí chủ đạo trên vòm trời tư tưởng của chế độ phong kiến, Nho giáo càng có điều kiện xúc tiến sự phát triển này. Nó làm cho sản xuất nông nghiệp và trao đổi hàng hoá được đẩy mạnh hơn trước.

Đồng thời Nho giáo đem lại một bước tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn hoá tinh thần của xã hội phong kiến nước ta từ thế kỷ XV, trước hết nó làm cho nền giáo dục phát triển hết sức mạnh mẽ nhất là dưới triều Lê Thánh Tông. Nền giáo dục ấy cùng với chế độ thi cử đã đào tạo ra một đội ngũ tri thức đông đảo chưa từng thâý trong lịch sửd chế độ phong kiến Việt Nam. Do đó khoa học và văn học nghệ thuật phát triển.

Hơn nữa sự thịnh trị của Nho giáo từ thế kỷ XV cũng là một hiện tượng góp phần thúc đẩy lịch sử tư tưởng nước ta tiến lên một bước mới. Là một học thuyết tích cực nhập thể, nó cổ vũ và khuyến khích mọi người đi sâu vào tìm hiểu những quan hệ xã hội, những vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và đạo đức. Do đó, nhận thức lý luận của dân tộc ta về các vấn đề ấy cũng được nâng cao hơn. Dựa vào lịch sử của Nho giáo, nhà vua và các nho sĩ giải thích các vấn đề ấy có lập luận và có lý lẽ đầy đủ hơn.

Nhưng Nho giáo Việt Nam dù có lý do để tồn tại và phát triển thì cũng vẫn gắn liền với giai cấp phong kiến địa chủ trong nước và là công cụ thống trị và tư tưởng của giai cấp đó. Mà giai cấp địa chủ đó từ thế kỷ XV trở về trước tuy có một vai trò nhất định nhưng vẫn là một giai cấp bóc lột đối với nhân dân. Và bất cứ một giai cấp bóc lột nào ngay cả khi đang lên cũng mang theo những vết bùn nhơ và bàn tay vấy máu của những người lao động. Cho nên Nho giáo với tư cách là vũ khí của giai cấp phong kiến Việt Nam dù cho có không ít tích cực thì tác dụng tích cực đó cũng còn rất hạn chế. Thực ra ngay ở thời kỳ thịnh trị của nó, Nho giáo cũng đã có những mặt tiêu cực nghiêm trọng và chứa đựng khả năng suy yếu sau này của nó.

Nho giáo ở Việt Nam khi chiếm ở vị trí độc tôn thì đã làm cho chủ nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng và trong địa hạt giáo dục khoa học. Các quan lại, sĩ phu, đều lấy thánh kinh, hiền truyện của Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi người suy nghĩ và hành động của mình, lấy cái xã hội thời Nghiêu Thuấn làm khuôn mẫu cho mọi tình trạng xã hội; lấy những sự tích và điều phạm trong kinh, thư, kinh xuân thu làm tiêu chuẩn để bình giá mọi sự việc. Bệnh giáo điều và khuôn sáo này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật nhất là trong văn học và sử học khiến cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này bị dập vào những cái khuôn sẵn có. Đó là một tật bệnh đã được rèn đúc ngay từ khi người nho sĩ phải mài dũa văn chương để tiến vào con đường cử nghiệp.

Sự thịnh trị của Nho giáo còn khuyến khích mọi người nhất là các phần tử tri thức đi sâu vào cải tạo “tu tề trị bình” vào việc học hành, thi đỗ, dương danh thiên hạ. Vì vậy mà trong thực tế, Nho giáo đã làm cho những người gia nhập tầng lớp Nho sĩ này xa rời sinh hoạt kinh tế và lĩnh vực sản xuất xã hội, nó chỉ biết đề cao đạo tư thân và đạo tự nước chứ không hề đếm xỉa đến các tri thức vè khoa học tự nhiên cũng như về các ngành sản xuất và lưu thông.

Tính chất tiêu cực ấy của Nho giáo càng về sau càng gây tác hại không nhỏ trong việc phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.

Khi đã chiếm được địa vị thống trị trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo Việt Nam không tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất của đời sống và của vũ trụ, vì mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ chú trọng đến những quan hệ chính trị và đạo đức thực tế. Cho nên khi xã hội phong kiến rối loạn, vấn đề số phận và yêu cầu giải phóng con người được đặt ra thì Nho giáo trở thành bất lực. Nó không giải đáp được vấn đề ấy vì nó đã sớm bỏ con đường phát triển tư duy trừu tượng.

Hơn nữa, một khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của nó đặc biệt phát triển mạnh. Khi đó nó bắt đầu đè nặng lên con người và bóp nghẹt nếp sống giản dị, những quan hệ xã hội trong sáng, những tình cảm tự nhiên và chân thực của suy sụp cùng với xã hội phong kiến thì nó trở nên phản động, cổ hủ và lạc hậu.

Tóm lại bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng đem lại không ít tác động tiêu cực mà cho đến nay nó vẫn còn là nhân tố kìm hãm sự phát triển văn hoá tại các vùng nông thôn Việt Nam
Nhớ Thank anh đó nhá:p:p:p:p:p:p:p:p:D:D:D:D:D:Db-(b-(b-(b-(
 
I

izamaek

Em thấy anh toàn giải thích điều tố về nho giáo
Thế phật giáo không tốt à?
Nhà Đường sử dụng phật giáo là tôn giáo chính, và đã là nhà nước phong kiến phát triển nhất đấy ....
 
M

motdieunhonhoi

vì Nho giáo đề cao 2 chữ trung và hiếu
(trung:trung với vua , hiếu : hiếu với cha và mẹ
 
M

muttay04

Thời Lê là một giai đoạn lịch sử có diễn biến phức tạp cả về chính trị xã hội và hệ tư tưởng. Qua các nguồn sử liệu, chúng ta nhận thấy rằng, trong thời kỳ nhà Lê cực thịnh (1428-1527), Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của vương triều và phổ cập trong đại bộ phận dân cư làng xã.

Về sau, vào thời Lê - Mạc, Lê trung hưng, cùng với sự suy vi của tình hình chính trị xã hội, hệ tư tưởng này đã ngày càng mất vai trò độc tôn, trở nên lỏng lẻo, không phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Điều đó đã tạo cơ hội cho các tôn giáo khác cùng tồn tại, trong đó có Phật giáo, Đạo giáo. Đây là giai đoạn mà các sử gia gọi là thời kỳ tam giáo đồng tôn hay tam giáo đồng nguyên.

Tài liệu lịch sử đã ghi nhận Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Ngay từ thời Bắc thuộc, những hoạt động xã hội mang màu sắc Nho giáo như việc mở các trường học dạy kinh điển Nho gia, tiến hành các nghi thức cúng tế thần linh... đã xuất hiện. Nhưng có lẽ mãi đến thời Lê, Nho giáo mới thực sự xác lập một cách vững chắc và có ảnh hưởng một cách toàn diện đến xã hội Đại Việt. Lịch sử phát triển của nó, có thể nói, bắt nguồn từ thời Minh thuộc. Với dã tâm biến Đại Việt thành quận huyện của “thiên triều”, nhà Minh thực hiện một cách mạnh mẽ công cuộc đồng hóa. Một trong những biện pháp quan trọng là dùng lễ giáo Nho gia để giáo hóa dân. Điều đó thể hiện trước hết ở việc vua tôi nhà Minh tiến hành thiêu hủy, đập phá những công trình liên quan đến học vấn và những di sản văn hóa của người Việt. Bên cạnh đó chúng đưa hàng loạt thư tịch làm tài liệu giảng dạy, lập nhà học để phổ biến kinh điển Nho gia ở khắp các quận huyện nước ta, đào tạo nên tầng lớp quan lại mang đậm tư tưởng Tống Nho.
 
L

latre0072011

sử 7

vì nho giáo đề cao 2 chữ trung hiếu
trung là trung với dân với nước
hiếu là hiếu với cha mẹ\Rightarrowđược suy tôn
 
A

angel_in_me000

Thời Lê là một giai đoạn lịch sử có diễn biến phức tạp cả về chính trị xã hội và hệ tư tưởng. Qua các nguồn sử liệu, chúng ta nhận thấy rằng, trong thời kỳ nhà Lê cực thịnh (1428-1527), Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của vương triều và phổ cập trong đại bộ phận dân cư làng xã.
thời Lê, Nho giáo mới thực sự xác lập một cách vững chắc và có ảnh hưởng một cách toàn diện đến xã hội Đại Việt. Lịch sử phát triển của nó, có thể nói, bắt nguồn từ thời Minh thuộc. Với dã tâm biến Đại Việt thành quận huyện của “thiên triều”, nhà Minh thực hiện một cách mạnh mẽ công cuộc đồng hóa. Một trong những biện pháp quan trọng là dùng lễ giáo Nho gia để giáo hóa dân. Điều đó thể hiện trước hết ở việc vua tôi nhà Minh tiến hành thiêu hủy, đập phá những công trình liên quan đến học vấn và những di sản văn hóa của người Việt. Bên cạnh đó chúng đưa hàng loạt thư tịch làm tài liệu giảng dạy, lập nhà học để phổ biến kinh điển Nho gia ở khắp các quận huyện nước ta, đào tạo nên tầng lớp quan lại mang đậm tư tưởng Tống Nho.
 
Top Bottom