H
hocdesong_98s


1,Chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực I của quốc gia rõ nhất là:
Việt Nam là quốc gia tiêu biểu về sự chuyển dịch cơ cấu GDP ở khu vực I
Nguyên nhân để kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng trong những năm qua:
Do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhờ sự chuyển dịch kinh tế một cách hợp lí ở mỗi quốc gia và khu vực do vậy mà nó đã mang lại thành quả lớn
VD: Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao đạt 6,8% (2009), do nước ta đang có xu hướng chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế bằng cách giảm tỉ trọng khu vực I ( 20,25%), phát triển công nghiệp (38,14%) và dịch vụ (41,61%)
- Phát triển các ngành kinh tế dựa vào những điều kiện có sẵn ( tài nguyên thiên nhiên, lao động…)
- Trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa: phát triển các ngành công nghiệp chế biến, ưu tiên phát triển các ngành sử dụng nhiều nguyên liệu, thu hút nhiều lao động, vốn ít, không yêu cầu công nghệ cao, sản phẩm tiêu thụ trong thị trường nội địa như công nghiệp thực phẩm, dệt may, sản xuất hàng tiêu dùng.
Sở dĩ các nước trong khu vực phát triển mạnh những ngành đó bởi nó phù hợp với điều kiện của các nước trong khu vực Đông Nam Á, hơn nữa qua việc phát triển các ngành trên nó còn thể hiện được trình độ phát triển kinh tế. Hiện nay Việt Nam đang tiếp cận với xu hướng này với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp.
VD:
Năm 2009 do thiếu nguồn nguyên liệu để sản xuất báo nhân dân, Việt Nam đã phải nhập khẩu giấy để in báo khiến giá giấy lên cao. Trước tình trạng đó nhà máy giấy Tân Mai đã sản xuất loại giấy này để cứu nguy cho nước ta ( nhà máy giấy Tân Mai đã tận dụng nguồn nguyên liệu từ bã mía để sản xuất giấy)
Các hãng nước ngoài liên doanh với các nước Đông Nam Á:
Honda, Mitxubixi, Panasonic, Tosiba….
- Các nước đã xây dựng được tuyến đường sắt xuyên Á dài 5569km với trị giá 2,5 tỉ USD nối liền Xingapo, Malaixia, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Mianma với Côn Minh (Trung Quốc) và đã xây dựng được tuyến đường ô tô xuyên Á, xây dựng được hành lang Đông- Tây với với chiều dài lớn hơn 1450 km đi qua Lào, Thái Lan, Việt Nam, Mianma, nối Ấn Độ Dương với Biển Đông ( có 270km chạy qua lãnh thổ Việt Nam từ Lao Bảo (Quảng Trị) đến Tiên Sa (Đà Nẵng)
- Một số cảng lớn của Đông Nam Á: Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng (Việt Nam); Rangun (Mianma); Băng Cốc (Thái Lan); Xiangapo; Klang (Malaixia).
Cảng Klang (Malaixia)- trung tâm bốc dỡ hàng đang khẳng định vị trí của mình như cánh cổng đường biển mở ra thế giới.
- Hệ thống thông tin liên lạc ngày càng phát triển
VD: Hệ thống thông tin và giao thông vận tải ở Malaixia được kết nối rộng khắp trong cả nước và thế giới. Các dịch vụ y tế, ngân hàng và viễn thông( điện thoại cố định, điện thoại công cộng, quán Internet công cộng) đều có ở mọi nơi trong tỉnh, thành phố.
Hay đối với Việt Nam hệ thống thông tin liên lạc cũng đang được phát triển mạnh
VD: Duyệt trình Web trên điện thoại di động tại Việt Nam tăng trưởng nhất trong khu vực: theo thống kê 12/2009 thế giới có 46,3 triệu người sử dụng Opera mini trên toàn cầu, tăng 159% trong đó Việt Nam là nước xếp thứ 8 trong 10 nước có người sử dụng Opera Mini nhiều nhất thế giới và cũng là nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á.
Tiểu kết:
Như vậy có thể thấy cùng với việc hiện đại hóa cơ sở hạ tầng ngành dịch vụ Đông Nam Á ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chuyển ý:
Ở bài học trước cô trò chúng ta đã biết rằng Đông Nam Á là khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi cả về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội để phát triển nganh nông nghiệp. Vậy với những điều kiện đó các nước Đông Nam Á đã đạt đến trình độ phát triển nông nghiệp như thế nào. Chúng ta cùng chuyển sang nghiên cứu phần IV…
Đông Nam Á có nền nông nghiệp nhiệt đới giữ vị trí quan trọng trong việc nuôi sống hơn 1 tỉ dân của khu vực này. Trong đó một số nước đã có bước phát triển theo hướng nông- công nghiệp như: Thái Lan, Malaixia. Các ngành chính trong sản xuất nông nghiệp của các nước Đông Nam Á: trồng lúa nước, trồng cây công nghiệp và cây ăn quả, chăn nuôi, đánh bắt nuôi trồng thủy sản.
- Lúa nước là cây trồng truyền thống của các nước Đông Nam Á:
Lúa nước là cây trồng lâu đời của cư dân khu vực vì nó phù hợp với nền nhiệt cao, nhiều ánh sáng, chế độ mưa và đất phù sa màu mỡ và trở thành cây lương thực chính.
Phân bố ở tất cả các nước trong khu vực nhưng sản lượng nhiều nhất là ở các nước: In-đô-nê-xia, Thái Lan, Việt Nam, Philippin, Malaixia.
Trong những năm gần đây Thái Lan và Việt Nam là 2 trong 3 nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. Năm 2007 Thái Lan sản xuất 23,8 triệu tấn và xuất khẩu 10 triệu tấn. In-đô-nê-xia do dân số đông nên sản xuất lúa gạo chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước.
Philippin và Malaixia sản xuất lương thực không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước. Năm 2007 Việt Nam sản xuất 35,8 triệu tấn lúa gạo và xuất khẩu 4 triệu tấn. Sản lượng lúa gạo của Việt Nam liên tục tăng và đạt được những thành tựu đáng kể.
VD: Năm 2009 sản xuất được 38,9 triệu tấn lúa, sản lượng xuất khẩu gạo tăng nhanh và năm 2009 cũng được xem là một kỉ lục xuất khẩu gạo của Việt Nam với 5,8 triệu tấn thu được giá trị là 2,6 tỉ USD. Việt Nam là một trong 3 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Nếu đặt địa vị em là Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn em sẽ đưa ra những giải pháp nào để vừa có thể tăng được sản lượng lương thực vừa có đất phát triển công nghiệp?
- Cần áp dụng các biện pháp khoa học kĩ thuật tác động vào giống cây trồng
- Tăng cường đầu tư vốn…vv
Ngoài các biện pháp mà các em kể trên chúng ta cần quy hoạch phát triển hợp lí quỹ đất vì ở mỗi quốc gia diện tích đất trống có thể còn nhiều nhưng diện tích đất trồng lúa có thể rất hạn chế. Do vậy các nước trong khu vực cần sử dụng hợp lí đất gieo trồng lúa nước, tránh tình trạng lãng phí đất, phải quy hoạch dài hạn, phù hợp với chiến lược phát triển.
- Các loại cây trồng được trồng nhiều ở khu vực Đông Nam Á:
Cao su, hồ tiêu, cà phê, một số cây lấy sợi
- Các nước Đông Nam Á nổi tiếng về trồng các loại cây công nghiệp và cây ăn quả nhiệt đới: cà phê, cao su… Hiện nay các nước Đông Nam Á cung cấp 90% sản lượng cao su tự nhiên của thế giới (với tổng sản lượng khoảng 5,5 triệu tấn).
Cọ dầu được trồng nhiều và trở thành cây công nghiệp quan trọng ở Malaixia, In-đô-nê-xia, Thái Lan trong đó Malaixia có diện tích trồng cao su khoảng 1,3-1,5 triệu ha và là nước xuất khẩu dầu cọ đứng đầu thế giới.
- Ngoài ra khu vực còn trồng nhiều loại cây cung cấp đồ uống ở In-đô-nê-xia, Việt Nam, Philippin (cà phê), Việt Nam là nước đứng đầu về diện tích cây cà phê, chè cũng được trồng nhiều ở Việt Nam, In-đô-nê-xia. Năm 2007 Việt Nam sản xuất 705 nghìn tấn chè (xuất khẩu 114.000 tấn) và xuất khẩu 1194 nghìn tấn cà phê.
Một số cây ăn quả chủ yếu được trồng nhiều ở khu vực Đông Nam Á:
Dừa, xoài, chuối, bưởi, cam, đu đủ, nhãn được trồng nhiều ở Thái Lan, Việt Nam, In-đô-nê-xia.
- Đông Nam Á có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm (ánh sáng dồi dào, nhiệt ẩm phong phú), đất đai (đất feralit và nhất là đất badan) tốt, màu mỡ rất thích hợp cho việc trồng các loại cây trên
- Cao su: sản lượng cao su Đông Nam Á nhiều hơn thế giới. Từ năm 1985-2005 sản lượng cao su của thế giới và khu vực Đông Nam Á đều tăng.
- Cà phê: sản lượng cà phê của Đông Nam Á chiếm tỉ trọng lớn, tăng nhanh và đều nhưng sản lượng của thế giới tăng chậm.
Khái quát: Nhìn vào bản đồ ta thấy
- Cao su
+ Sản lượng cao su của Đông Nam Á chiếm phần lớn sản lượng cao su của thế giới (khoảng 2/3 sản lượng cao su của thế giới)
+ Từ 1985-2005 sản lượng cao su của Đông Nam Á và toàn thế giới đều tăng nhưng sản lượng cao su của toàn thế giới tăng nhanh hơn.
- Cà phê
+ Sản lượng cà phê của khu vực Đông Nam Á chiếm tỉ trọng khá lớn trong tổng sản lượng cà phê của thế giới. Năm 2005 tỉ trọng này là 23%
+ Sản lượng cà phê của khu vực Đông Nam á tăng khá nhanh và tăng đều, trong đó sản lượng cà phế của thế giới tăng chậm, thậm chí thế giới còn giảm năm 1995.
Như vậy, Đông Nam Á là khu vực phát triển các loại cây công nghiệp nhiệt đới như cà phê, cao su. Sản lượng cà phê, cao su của khu vực chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản lượng của thế giới. Đông Nam Á là khu vực cung cấp một phần rất lớn nhu cầu về cà phê, cao su trên thị trường thế giới.
Tuy trong những năm gần đây chăn nuôi có sự thay đổi đáng kể.Tuy nhiên vẫn chưa trở thành ngành chính, chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp chưa nhiều. Chăn nuôi gia súc lớn: trâu, bò, ngựa chủ yếu là cung cấp sức kéo.
Hiện nay các nước Đông Nam Á việc đưa chăn nuôi trở thành một ngành sản xuất chính trong nông nghiệp là một phương châm đúng nhưng không dễ dàng thực hiện:
* Là một phương châm đúng vì:
- Chăn nuôi cung cấp thực phẩm, đạm nuôi sống con người
- Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp
- Cung cấp hàng xuất khẩu
- Tạo việc làm cho người lao động
- Góp phần củng cố quốc gia
* Không dễ thực hiện vì:
- Thiếu vốn
- Trình độ khoa học kĩ thuật thấp
- Sức mua trong nước kém
- Sản xuất kém chất lượng, khó cạnh tranh với thị trường
- Thiếu đất trồng, ít đồng cỏ
- Lương thực chưa đủ cung cấp cho người, chưa dư thừa để phục vụ phát triển chăn nuôi
- Công nghệ sinh học còn non yếu, chưa lai tạo được nhiều giống tốt. Dịch vụ thú y kém phát triển.
Ngoài chăn nuôi gia súc lớn còn chăn nuôi gia cầm
VD: Năm 2005 chăn nuôi 27 triệu con lợn, 220 triệu con gà
Là khu vực có nhiều lợi thế riêng về sông, biển nên đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản là ngành kinh tế truyền thống và đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á.
Tuy nhiên việc khai thác các tài nguyên này so với nơi khác chưa nhiều, nguyên nhân là do phương tiện đánh bắt của cư dân các nước Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng còn lạc hậu, điều đó được thể hiện ở phương tiện chuyên chở (tàu, thuyền), phương tiện đánh bắt (lưới), nhân lực chế biến tại chỗ còn thô sơ, công cụ lao động lạc hậu nên chỉ đánh bắt thủ công và đánh bắt gần bờ, ít có tàu lớn để đánh bắt ra các đại dương.
- Năm 2003 sản lượng cá khai thác đạt 14,5 triệu tấn, trong đó có 5 nước đứng đầu là In-đô-nê-xia, ( 4,7 triệu tấn), Thái Lan (2,8 triệu tấn), Philippin (2,2 triệu tấn), Việt Nam (1,8 triệu tấn) và Malaixia (1,3 triệu tấn)
- Ở Việt Nam sản lượng thủy sản đạt 3,4 triệu tấn ( năm 2005), lớn hơn sản lượng thịt cộng lại từ chăn nuôi gia súc, gia cầm, sản lượng thủy sản bình quân đầu người hiện nay khoảng 42kg/ người.
Em hãy kể tên những loài thủy hải sản nhiệt đới có giá trị ở Đông Nam Á?
Tôm (tôm hùm, tôm he…), cá chim biển, cá tráp, cá chình, cá song…
Đông Nam Á nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa do vậy mà vùng có nhiều loại thủy hải sản có giá trị điển hình như Việt Nam: với đường bờ biển dài 3260 km, vùng đặc quyền kinh tế hơn 1 triệu km2 . Biển Việt Nam có nhiều loài cá trong đó có khoảng 130 loài có giá trị kinh tế cao.
Do đặc điểm của vùng biển nhiệt đới nên cá biển của Việt Nam phần lớn là các loài cá có kích thước nhỏ, chu kì sinh sản ngắn. VD: cá chim biển, cá chình, cá thu, cá hồng...
Hàng năm các mặt hàng cá biển của Việt Nam được xuất khẩu sang hầu khắp các thị trường thế giới tập trung ở Nhật Bản và các nước thuộc châu Á, châu Mỹ, châu Âu, các nước châu Đại Dương. Giá trị xuất khẩu mặt hàng cá đông lạnh chiếm khoảng 15-20% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản hàng năm.
Trong đó giá trị xuất khẩu các mặt hàng cá biển chiếm khoảng 40-50% tổng giá trị các mặt hàng cá đông lạnh.
Đông Nam Á là khu vực có nhiều lợi thế để phát triển ngành chăn nuôi, nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản. Tuy giá trị kinh tế mang lại chưa cao so với những lợi thế của vùng song nếu như đầu tư trang thiết bị đánh bắt và các cơ sở chế biến hiện đại thì trong tương lai đây sẽ là ngành hứa hẹn một triển vọng phát triển cho nền kinh tế khu vực.
(*) ko dùng mực đỏ nha bạn !!
Việt Nam là quốc gia tiêu biểu về sự chuyển dịch cơ cấu GDP ở khu vực I
Nguyên nhân để kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng trong những năm qua:
Do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhờ sự chuyển dịch kinh tế một cách hợp lí ở mỗi quốc gia và khu vực do vậy mà nó đã mang lại thành quả lớn
VD: Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao đạt 6,8% (2009), do nước ta đang có xu hướng chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế bằng cách giảm tỉ trọng khu vực I ( 20,25%), phát triển công nghiệp (38,14%) và dịch vụ (41,61%)
- Phát triển các ngành kinh tế dựa vào những điều kiện có sẵn ( tài nguyên thiên nhiên, lao động…)
- Trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa: phát triển các ngành công nghiệp chế biến, ưu tiên phát triển các ngành sử dụng nhiều nguyên liệu, thu hút nhiều lao động, vốn ít, không yêu cầu công nghệ cao, sản phẩm tiêu thụ trong thị trường nội địa như công nghiệp thực phẩm, dệt may, sản xuất hàng tiêu dùng.
Sở dĩ các nước trong khu vực phát triển mạnh những ngành đó bởi nó phù hợp với điều kiện của các nước trong khu vực Đông Nam Á, hơn nữa qua việc phát triển các ngành trên nó còn thể hiện được trình độ phát triển kinh tế. Hiện nay Việt Nam đang tiếp cận với xu hướng này với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp.
VD:
Năm 2009 do thiếu nguồn nguyên liệu để sản xuất báo nhân dân, Việt Nam đã phải nhập khẩu giấy để in báo khiến giá giấy lên cao. Trước tình trạng đó nhà máy giấy Tân Mai đã sản xuất loại giấy này để cứu nguy cho nước ta ( nhà máy giấy Tân Mai đã tận dụng nguồn nguyên liệu từ bã mía để sản xuất giấy)
Các hãng nước ngoài liên doanh với các nước Đông Nam Á:
Honda, Mitxubixi, Panasonic, Tosiba….
- Các nước đã xây dựng được tuyến đường sắt xuyên Á dài 5569km với trị giá 2,5 tỉ USD nối liền Xingapo, Malaixia, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Mianma với Côn Minh (Trung Quốc) và đã xây dựng được tuyến đường ô tô xuyên Á, xây dựng được hành lang Đông- Tây với với chiều dài lớn hơn 1450 km đi qua Lào, Thái Lan, Việt Nam, Mianma, nối Ấn Độ Dương với Biển Đông ( có 270km chạy qua lãnh thổ Việt Nam từ Lao Bảo (Quảng Trị) đến Tiên Sa (Đà Nẵng)
- Một số cảng lớn của Đông Nam Á: Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng (Việt Nam); Rangun (Mianma); Băng Cốc (Thái Lan); Xiangapo; Klang (Malaixia).
Cảng Klang (Malaixia)- trung tâm bốc dỡ hàng đang khẳng định vị trí của mình như cánh cổng đường biển mở ra thế giới.
- Hệ thống thông tin liên lạc ngày càng phát triển
VD: Hệ thống thông tin và giao thông vận tải ở Malaixia được kết nối rộng khắp trong cả nước và thế giới. Các dịch vụ y tế, ngân hàng và viễn thông( điện thoại cố định, điện thoại công cộng, quán Internet công cộng) đều có ở mọi nơi trong tỉnh, thành phố.
Hay đối với Việt Nam hệ thống thông tin liên lạc cũng đang được phát triển mạnh
VD: Duyệt trình Web trên điện thoại di động tại Việt Nam tăng trưởng nhất trong khu vực: theo thống kê 12/2009 thế giới có 46,3 triệu người sử dụng Opera mini trên toàn cầu, tăng 159% trong đó Việt Nam là nước xếp thứ 8 trong 10 nước có người sử dụng Opera Mini nhiều nhất thế giới và cũng là nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á.
Tiểu kết:
Như vậy có thể thấy cùng với việc hiện đại hóa cơ sở hạ tầng ngành dịch vụ Đông Nam Á ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chuyển ý:
Ở bài học trước cô trò chúng ta đã biết rằng Đông Nam Á là khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi cả về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội để phát triển nganh nông nghiệp. Vậy với những điều kiện đó các nước Đông Nam Á đã đạt đến trình độ phát triển nông nghiệp như thế nào. Chúng ta cùng chuyển sang nghiên cứu phần IV…
Đông Nam Á có nền nông nghiệp nhiệt đới giữ vị trí quan trọng trong việc nuôi sống hơn 1 tỉ dân của khu vực này. Trong đó một số nước đã có bước phát triển theo hướng nông- công nghiệp như: Thái Lan, Malaixia. Các ngành chính trong sản xuất nông nghiệp của các nước Đông Nam Á: trồng lúa nước, trồng cây công nghiệp và cây ăn quả, chăn nuôi, đánh bắt nuôi trồng thủy sản.
- Lúa nước là cây trồng truyền thống của các nước Đông Nam Á:
Lúa nước là cây trồng lâu đời của cư dân khu vực vì nó phù hợp với nền nhiệt cao, nhiều ánh sáng, chế độ mưa và đất phù sa màu mỡ và trở thành cây lương thực chính.
Phân bố ở tất cả các nước trong khu vực nhưng sản lượng nhiều nhất là ở các nước: In-đô-nê-xia, Thái Lan, Việt Nam, Philippin, Malaixia.
Trong những năm gần đây Thái Lan và Việt Nam là 2 trong 3 nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. Năm 2007 Thái Lan sản xuất 23,8 triệu tấn và xuất khẩu 10 triệu tấn. In-đô-nê-xia do dân số đông nên sản xuất lúa gạo chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước.
Philippin và Malaixia sản xuất lương thực không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước. Năm 2007 Việt Nam sản xuất 35,8 triệu tấn lúa gạo và xuất khẩu 4 triệu tấn. Sản lượng lúa gạo của Việt Nam liên tục tăng và đạt được những thành tựu đáng kể.
VD: Năm 2009 sản xuất được 38,9 triệu tấn lúa, sản lượng xuất khẩu gạo tăng nhanh và năm 2009 cũng được xem là một kỉ lục xuất khẩu gạo của Việt Nam với 5,8 triệu tấn thu được giá trị là 2,6 tỉ USD. Việt Nam là một trong 3 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Nếu đặt địa vị em là Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn em sẽ đưa ra những giải pháp nào để vừa có thể tăng được sản lượng lương thực vừa có đất phát triển công nghiệp?
- Cần áp dụng các biện pháp khoa học kĩ thuật tác động vào giống cây trồng
- Tăng cường đầu tư vốn…vv
Ngoài các biện pháp mà các em kể trên chúng ta cần quy hoạch phát triển hợp lí quỹ đất vì ở mỗi quốc gia diện tích đất trống có thể còn nhiều nhưng diện tích đất trồng lúa có thể rất hạn chế. Do vậy các nước trong khu vực cần sử dụng hợp lí đất gieo trồng lúa nước, tránh tình trạng lãng phí đất, phải quy hoạch dài hạn, phù hợp với chiến lược phát triển.
- Các loại cây trồng được trồng nhiều ở khu vực Đông Nam Á:
Cao su, hồ tiêu, cà phê, một số cây lấy sợi
- Các nước Đông Nam Á nổi tiếng về trồng các loại cây công nghiệp và cây ăn quả nhiệt đới: cà phê, cao su… Hiện nay các nước Đông Nam Á cung cấp 90% sản lượng cao su tự nhiên của thế giới (với tổng sản lượng khoảng 5,5 triệu tấn).
Cọ dầu được trồng nhiều và trở thành cây công nghiệp quan trọng ở Malaixia, In-đô-nê-xia, Thái Lan trong đó Malaixia có diện tích trồng cao su khoảng 1,3-1,5 triệu ha và là nước xuất khẩu dầu cọ đứng đầu thế giới.
- Ngoài ra khu vực còn trồng nhiều loại cây cung cấp đồ uống ở In-đô-nê-xia, Việt Nam, Philippin (cà phê), Việt Nam là nước đứng đầu về diện tích cây cà phê, chè cũng được trồng nhiều ở Việt Nam, In-đô-nê-xia. Năm 2007 Việt Nam sản xuất 705 nghìn tấn chè (xuất khẩu 114.000 tấn) và xuất khẩu 1194 nghìn tấn cà phê.
Một số cây ăn quả chủ yếu được trồng nhiều ở khu vực Đông Nam Á:
Dừa, xoài, chuối, bưởi, cam, đu đủ, nhãn được trồng nhiều ở Thái Lan, Việt Nam, In-đô-nê-xia.
- Đông Nam Á có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm (ánh sáng dồi dào, nhiệt ẩm phong phú), đất đai (đất feralit và nhất là đất badan) tốt, màu mỡ rất thích hợp cho việc trồng các loại cây trên
- Cao su: sản lượng cao su Đông Nam Á nhiều hơn thế giới. Từ năm 1985-2005 sản lượng cao su của thế giới và khu vực Đông Nam Á đều tăng.
- Cà phê: sản lượng cà phê của Đông Nam Á chiếm tỉ trọng lớn, tăng nhanh và đều nhưng sản lượng của thế giới tăng chậm.
Khái quát: Nhìn vào bản đồ ta thấy
- Cao su
+ Sản lượng cao su của Đông Nam Á chiếm phần lớn sản lượng cao su của thế giới (khoảng 2/3 sản lượng cao su của thế giới)
+ Từ 1985-2005 sản lượng cao su của Đông Nam Á và toàn thế giới đều tăng nhưng sản lượng cao su của toàn thế giới tăng nhanh hơn.
- Cà phê
+ Sản lượng cà phê của khu vực Đông Nam Á chiếm tỉ trọng khá lớn trong tổng sản lượng cà phê của thế giới. Năm 2005 tỉ trọng này là 23%
+ Sản lượng cà phê của khu vực Đông Nam á tăng khá nhanh và tăng đều, trong đó sản lượng cà phế của thế giới tăng chậm, thậm chí thế giới còn giảm năm 1995.
Như vậy, Đông Nam Á là khu vực phát triển các loại cây công nghiệp nhiệt đới như cà phê, cao su. Sản lượng cà phê, cao su của khu vực chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản lượng của thế giới. Đông Nam Á là khu vực cung cấp một phần rất lớn nhu cầu về cà phê, cao su trên thị trường thế giới.
Tuy trong những năm gần đây chăn nuôi có sự thay đổi đáng kể.Tuy nhiên vẫn chưa trở thành ngành chính, chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp chưa nhiều. Chăn nuôi gia súc lớn: trâu, bò, ngựa chủ yếu là cung cấp sức kéo.
Hiện nay các nước Đông Nam Á việc đưa chăn nuôi trở thành một ngành sản xuất chính trong nông nghiệp là một phương châm đúng nhưng không dễ dàng thực hiện:
* Là một phương châm đúng vì:
- Chăn nuôi cung cấp thực phẩm, đạm nuôi sống con người
- Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp
- Cung cấp hàng xuất khẩu
- Tạo việc làm cho người lao động
- Góp phần củng cố quốc gia
* Không dễ thực hiện vì:
- Thiếu vốn
- Trình độ khoa học kĩ thuật thấp
- Sức mua trong nước kém
- Sản xuất kém chất lượng, khó cạnh tranh với thị trường
- Thiếu đất trồng, ít đồng cỏ
- Lương thực chưa đủ cung cấp cho người, chưa dư thừa để phục vụ phát triển chăn nuôi
- Công nghệ sinh học còn non yếu, chưa lai tạo được nhiều giống tốt. Dịch vụ thú y kém phát triển.
Ngoài chăn nuôi gia súc lớn còn chăn nuôi gia cầm
VD: Năm 2005 chăn nuôi 27 triệu con lợn, 220 triệu con gà
Là khu vực có nhiều lợi thế riêng về sông, biển nên đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản là ngành kinh tế truyền thống và đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á.
Tuy nhiên việc khai thác các tài nguyên này so với nơi khác chưa nhiều, nguyên nhân là do phương tiện đánh bắt của cư dân các nước Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng còn lạc hậu, điều đó được thể hiện ở phương tiện chuyên chở (tàu, thuyền), phương tiện đánh bắt (lưới), nhân lực chế biến tại chỗ còn thô sơ, công cụ lao động lạc hậu nên chỉ đánh bắt thủ công và đánh bắt gần bờ, ít có tàu lớn để đánh bắt ra các đại dương.
- Năm 2003 sản lượng cá khai thác đạt 14,5 triệu tấn, trong đó có 5 nước đứng đầu là In-đô-nê-xia, ( 4,7 triệu tấn), Thái Lan (2,8 triệu tấn), Philippin (2,2 triệu tấn), Việt Nam (1,8 triệu tấn) và Malaixia (1,3 triệu tấn)
- Ở Việt Nam sản lượng thủy sản đạt 3,4 triệu tấn ( năm 2005), lớn hơn sản lượng thịt cộng lại từ chăn nuôi gia súc, gia cầm, sản lượng thủy sản bình quân đầu người hiện nay khoảng 42kg/ người.
Em hãy kể tên những loài thủy hải sản nhiệt đới có giá trị ở Đông Nam Á?
Tôm (tôm hùm, tôm he…), cá chim biển, cá tráp, cá chình, cá song…
Đông Nam Á nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa do vậy mà vùng có nhiều loại thủy hải sản có giá trị điển hình như Việt Nam: với đường bờ biển dài 3260 km, vùng đặc quyền kinh tế hơn 1 triệu km2 . Biển Việt Nam có nhiều loài cá trong đó có khoảng 130 loài có giá trị kinh tế cao.
Do đặc điểm của vùng biển nhiệt đới nên cá biển của Việt Nam phần lớn là các loài cá có kích thước nhỏ, chu kì sinh sản ngắn. VD: cá chim biển, cá chình, cá thu, cá hồng...
Hàng năm các mặt hàng cá biển của Việt Nam được xuất khẩu sang hầu khắp các thị trường thế giới tập trung ở Nhật Bản và các nước thuộc châu Á, châu Mỹ, châu Âu, các nước châu Đại Dương. Giá trị xuất khẩu mặt hàng cá đông lạnh chiếm khoảng 15-20% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản hàng năm.
Trong đó giá trị xuất khẩu các mặt hàng cá biển chiếm khoảng 40-50% tổng giá trị các mặt hàng cá đông lạnh.
Đông Nam Á là khu vực có nhiều lợi thế để phát triển ngành chăn nuôi, nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản. Tuy giá trị kinh tế mang lại chưa cao so với những lợi thế của vùng song nếu như đầu tư trang thiết bị đánh bắt và các cơ sở chế biến hiện đại thì trong tương lai đây sẽ là ngành hứa hẹn một triển vọng phát triển cho nền kinh tế khu vực.
(*) ko dùng mực đỏ nha bạn !!
Last edited by a moderator: