Địa 11 Kinh tế Đông Nam Á

H

_huong.duong_

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Cứ mỗi lần các nền kinh tế Đông Nam Á có vẻ sắp cất cánh trở lại sau cuộc khủng hỏang năm 1997, thì một cơn bão lớn bất ngờ lại buộc họ phải hạ cánh xuống mặt đất. Năm 2001, cơn suy thoái công nghệ toàn cầu đã chấm dứt sự phục hồi dựa vào xuất khẩu mới nảy mầm.

Năm 2003, sự lo sợ tấn công khủng bố và sự bùng phát dịch bệnh SARS, một căn bệnh đường hô hấp gây chết người, đã làm tắt ánh hào quang của một năm đáng lẽ đã trở thành năm thành công nhất của khu vực này kể từ sau cuộc khủng hoảng. Hiện nay, các nhà kinh tế đang lo ngại rằng giá dầu leo thang và kinh tế suy thoái ở Trung Quốc sẽ đẩy Đông Nam Á xuống một lần nữa.
Hiện tại, khu vực này đang bay cao. Trong quý I, Xing-ga-po tăng trưởng 7,5%, Ma-lai-xia tăng trưởng 7,6%. Thái Lan và Việt Nam đang tăng trưởng nhanh bằng nhau, trong khi ngay cả những nước chậm chạp tương đối như In-đô-nê-xia và Phi-lip-pin cũng có kết quả tốt, với tốc độ tăng trưởng tương ứng là 4,5% và 6,4%. Tuy vậy, các thị trường chứng khoán trong khu vực lại thất bại: thị trường chứng khoán của Thái Lan giảm 20% kể từ đầu năm nay. Ngày 25 tháng 5, Bộ tài chính Thái Lan đã giảm dự báo tăng trưởng năm 2004 từ mức 7,9% xuống còn 7,1%.
Giá dầu cao đang làm xấu thêm tình trạng ảm đạm này. Trong số các nền kinh tế lớn trong khu vực, chỉ có Việt Nam và Ma-lai-xia là các nước có giá trị xuất khẩu thặng dư (mặc dù xuất khẩu khí đốt của In-đô-nê-xia bù đắp lớn hơn nhập khẩu dầu của nước này). Một nghiên cứu gần đây của Cơ quan Năng lượng Quốc tế cho biết giá dầu cao sẽ gây tổn hại đến các nước đang phát triển nhiều hơn là các nước giàu, vì các nước này sử dụng nhiều dầu hơn so với sản lượng khai thác của nước mình. Nếu giá dầu ở mức trên 35 đô-la một thùng trong một năm, thì theo nghiên cứu này tăng trưởng ở Phi-lip-pin sẽ bị giảm 1,6% và Thái Lan giảm 1,8%.
Nhưng có lý do để lạc quan hơn. Thái Lan, trong số nhiều nước khác, trợ giá dầu mỏ, nên giá dầu cao gây nhiều thiệt hại cho ngân sách của chính phủ nhiều hơn so với nền kinh tế nói chung. Dù sao thì hầu hết giá cả hàng hóa đều đang cao ở thời điểm này, gồm cả giá của các sản phẩm như dầu cọ, cao su và gạo mà các nước Đông Nam Á sản xuất. Khi chi phí nhập khẩu dầu được cân nhắc với doanh thu từ xuất khẩu các hàng hóa này, thì phần lớn các nước Đông Nam Á đều thặng dư – trong trường hợp của In-đô-nê-xia, nhiều đến 6% GDP.
Hơn nữa, theo Tim Condon của ngân hàng ING chỉ ra, có quan hệ tương quan rõ rệt giữa giá dầu cao và tăng trưởng mạnh ở châu Á trong những năm gần đây. Hiện tượng này có lẽ là do cầu của châu Á giúp tăng giá dầu, chứ không phải vì nguyên nhân nào khác. Các nền kinh tế trong khu vực có thể tăng trưởng còn nhanh hơn nếu giá dầu rẻ hơn. Nhưng việc giả định rằng giá dầu đắt đỏ chắc chắn sẽ dẫn tới một cơn suy thoái trong khu vực sẽ chắc chắn là sai.
Sự suy thoái ở Trung Quốc sẽ không nhất thiết báo hiệu cho thảm họa. Nhập khẩu của Trung Quốc từ Đông Nam Á đã tăng vọt trong những năm gần đây. Chỉ tính riêng trong năm 2003, xuất khẩu của Xinh-ga-po và Thái Lan sang Trung Quốc đã tăng khoảng 50%, còn xuất khẩu của Phi-lip-pin thì tăng gần gấp đôi. Nhưng sự dấy lên này bắt đầu từ một cơ sở tương đối thấp. Mỹ vẫn nhập khẩu từ Đông Nam Á lớn hơn rất nhiều so với Trung Quốc.
Trung Quốc cũng chiếm một tỷ trọng lớn trong tăng trưởng xuất khẩu chung của khu vực này năm 2003: hơn một phần tư, chẳng hạn, ở cả Ma-lai-xia và Thái Lan. Nhưng điều đó phần nào bắt nguồn từ cầu yếu ở các thị trường lớn khác, trong đó có Mỹ, châu Âu và Nhật bản. Nếu các nền kinh tế đó tiếp tục được cải thiện –chí ít là trong trường hợp của Mỹ và Nhật bản – thì cầu tăng đối với hàng xuất khẩu của Đông Nam Á sẽ bù đắp hơn nhiều mọi sự thâm hụt từ Trung Quốc.
Hơn nữa, một phần lớn hàng nhập khẩu từ Đông Nam Á của Trung Quốc cuối cùng sẽ trở thành thành phần trong các mặt hàng xuất khẩu sau đó. Cầu đối với các mặt hàng này phụ thuộc vào sức mạnh của nền kinh tế thế giới nhiều hơn là vào nền kinh tế Trung Quốc. Ngân hàng Thế giới ước tính cứ 10% suy giảm trên mọi lĩnh vực nhập khẩu của Trung Quốc sẽ chỉ làm giảm, chẳng hạn, nửa điểm phần trăm của tăng trưởng ở Thái Lan. Nhưng các phân tích của Ngân hàng cũng chỉ ra rằng tỷ trọng của Đông Nam Á trong nhập khẩu của Trung Quốc đang tăng lên, nên bất kỳ sự suy giảm nào cũng không thể diễn ra trên mọi lĩnh vực. Cuối cùng, sự suy yếu của Trung Quốc cũng có thể giúp hạ nhiệt thị trường dầu mỏ đang quá nóng.
Thực ra, những mối đe dọa lớn nhất đối với tăng trưởng ở Đông Nam Á xuất phát từ bên trong chứ không phải là từ bên ngoài. Tại Thái Lan, có lần việc chính phủ thất bại trong việc đẩy mạnh chương trình tư nhân hóa đã làm thị trường chứng khoán suy yếu mạnh. Tình trạng nổi loạn ở các vùng mà đạo Hồi chiếm đa số ở miền nam nước này đã làm các nhà đầu tư hỏang sợ. Vì cuộc tổng tuyển cử đang đến gần, nên việc hoạch định chính sách trở nên theo chủ nghĩa dân tuý nhiều hơn. Tại Phi-lip-pin, thâm hụt ngân sách chính phủ gia tăng cùng nợ chính phủ tăng cao đã gây nhiều thiệt hại hơn nhiều so với giá nhiên liệu cao. Toà án tham nhũng và không thể dự báo được của In-đô-nê-xia đã đẩy đầu tư của nước này vào tình trạng trì trệ. Những vấn đề này có thể khó giải quyết, nhưng ít nhất là đây là các vấn đề nội bộ mà chính phủ các nước trong khu vực – về mặt lý thuyết – có khả năng kiểm soát nhất định.
UBQG (Theo Economist)
 
Top Bottom