Việt Bắc (Trích - Tố Hữu)
(Phần 2)
2. Phần hai (còn lại): Lời của người ra đi
*) Bốn câu đầu
''– Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…''
- Có thể nhận ra ngôn ngữ giao đối trong đoạn thơ đầu, khi sau những câu hỏi trăn trở của người ở lại là những đồng vọng xao xuyến của người ra đi. Và bây giờ, sau rất nhiều câu hỏi băn khoăn, nhớ nhung của người Việt Bắc, 4 câu cuối của đoạn thơ tiếp tục khẳng dịnh nỗi nhớ, sự thủy chung son sắt của người ra đi khi từ biệt quê hương cách mạng về xuôi
- Câu thơ đầu gồm hai tiểu đối, trong đó nhà thơ sử dụng phép lặp đan xen giữa ta-mình cùng từ “với” như một thứ keo gắn kết “ta với mình, mình với ta”. Kết cấu ngôn ngữ đặc sắc ấy đã gợi tả sự quấn quýt. Giao hòa giữa người đi, kẻ ở khăng khít không thể tách rời
- Sau câu thơ thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa “mình” và “ta” là một lời khẳng định : tình cảm không thay đổi , không bao giờ vơi cạn như nước trong nguồn. Nghĩa tiếng Hán của cụm từ “sau trước” nghĩa là thủy chung, sống có trước có sau, đạo lý thủy chung truyền thống của người Việt Nam từ bao đời nay. Ý thơ không chỉ dừng lại ở việc khẳng định sự thủy chung mà còn lí giải sự thủy chung một cách sâu xa thuyết phục
- Hai câu cuối như một lời thề thủy chung: nếu người ở lại băn khoăn, trăn trở trong một câu hỏi hàm chứa bao ý nghĩa sâu xa: mình đi, mình có nhớ mình thì người đi cũng trả lời trong một sự hô ứng đồng vọng, đồng cảm: mình đi mình lại nhớ mình. Từ “mình” ở cuối câu thơ có nhiều nét nghĩa: vừa là người ở lại, vừa là người ra đi, thể hiện nỗi nhớ da diết, có sự gắn kết giữa ta với mình. Đó còn là lời khẳng định của người ra đi: ánh đèn thành phố và cuộc sống hòa bình kkhoong bao giờ khiến người trở về quên đi quá khứ đẹp đẽ, nghĩa tình
- Dùng lời của người ở lại để trả lời “Có nhớ”, “lại nhớ” tạo sự hô ứng đồng vọng về tình cảm
*) Mười tám câu tiếp
''Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều.
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…"
- Người ra đi khẳng định nỗi nhớ như nhớ người yêu (thường trực). Nhớ người yêu là nỗi nhớ ám ảnh, thường trực, không thể nguôi ngoai, vơi cạn, một nỗi nhớ nhiều khi mãnh liệt đến phi lí. Có thể coi đây là một so sánh thể hiện sắc thái đặc biệt nhất và mức độ cao nhất cho nỗi nhớ của con người. Qua so sánh ấy, Tố Hữu đã bộc lộ sự gắn bó sâu nặng và nỗi nhớ thương của người về xuôi với mảnh đất và con người Việt Bắc
- Bức tranh thiên nhiên
+ Trăng núi, nắng nương, khói sương
+ Rừng nước, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy
+ Âm thanh: mõ, chày đêm
- Thiên nhiên được nhắc tới ở mọi thời gian khác nhau, mọ không gian quen thuộc, bình dị, ấm áp, thơ mộng, lãng mạn. Từng cảnh vật thiên nhiên của Việt Bắc liên tiếp, dồn dập hiện ra trong nỗi nhớ của người ra đi. Nếu trong câu thơ đầu, người Việt Bắc mới chỉ hiện lên trong nỗi nhớ nguòi yêu thì tới câu thơ sau, họ đã thực sự trở thành người thương trong lòng người về xuôi. Những cảnh vật ở Việt Bắc dù có tên như nào hay không tên đều in đậm trong nỗi nhớ của người ra đi, đó là nỗi nhớ không thể nguôi ngoai, vơi cạn dù cho nước sông lúc cạn, lúc đầy
- Từ “nhớ” và cụm từ “nhớ từng” điệp lịa nhiều lần trong đoạn thơ cho thấy nỗi nhớ da diết sâu đậm của người đi không chỉ với những cảnh vâth cụ thể, thân thuộc mà còn là nỗi nhớ bao trùm, toàn vẹn với tất cả những gì thuộc về Việt Bắc
*) Hình ảnh con người kháng chiến
- Người thương (gợi sự gần gũi, thân thương) “bếp lửa sớm khuya” -> cần cù, chăm chỉ
- “Sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui”: là những hình ảnh cụ thể và chân thực cho thấy cuộc sống kháng chiến gian khổ và thiếu thốn vô cùng. Đối diện với người kháng chiến không chỉ có kẻ thù mà còn cả cái đói, cái rét, họ đã cùng đồng bào Việt Bắc vượt qua những khó khăn, thử thách không chỉ bằng sức mạnh của lòng dũng cảm mà còn bằng sức mạnh của tình thương
- Hình ảnh cuộc sống gian khổ, đói nghèo và sự vất vả, cực nhọc của người dân Việt Bắc trong những công việc thầm lặng hàng ngày góp phần phục vụ cách mạng và kháng chiến đã trở thành nỗi nhớ xót x trong lòng người đi
- Người mẹ “cháy lưng” (vừa gợi hình vừa gợi cảm)
+ Lao động vất vả, cực nhọc
+ Thương cảm, xót xa
- Người đồng đội, đồng chí: chia sẻ bát cơm, củ sắn, chung chăn -> đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi
- Sinh hoạt kháng chiến: lớp học kháng chiến, cơ quan. Người ra đi không chỉ nhớ những hình ảnh của cuộc sống đói nghèo hay gian nan vất vả, tâm trí họ còn in đạm những kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương, những nếp sống yen bình, thơ mộng của cuộc sống núi rừng thời kháng chiến -> tình dân quân ấm áp, tuy khó khăn gian vẫn lạc quan, yêu đời
- Điệp từ “nhớ sao” khắc sâu nỗi nhớ
[tex]\Rightarrow[/tex] Tóm lại, trong bức tranh thiên nhiên Việt Bắc và con người hiện lên sinh động, ấm áp, nghĩa tình
*) Mười câu tiếp
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung."
- Dùng lời của người ở lại để ướm hỏi “Ta về mình có nhớ ta”. Thực ra câu hỏi chỉ là cái cớ để bộc lộ cảm xúc. Đây là câu hỏi đầu tiên từ phía người đi, một câu hỏi ngọt ngào, phảng phất hương vị của tình yêu. Có thể thấy người ra đi hỏi mà không chờ lời đáp, không có sự băn khoăng, trăn trở, hỏi chỉ để bộc lộ nỗi bồi hồi xao xuyến phút chia xa. Và có lẽ cũng vì thế nên ngay câu sau câu hỏi đã là lời khẳng định: ta về, ta nhớ những hoa cùng người
- Xưng hô: ta (người đi) – mình (người ở lại)
- Người ra đi khẳng định : nhớ về “hoa”: kết tinh vẻ đẹp của thiên nhiên, “người”: con người. “hoa” có thể hiểu theo nghĩa cụ thể với “hoa chuối đỏ tươi” hay “hoa mơ nở trắng rừng”.... nhưng cũng có thể hiểu “hoa” là hình ảnh hoán dụ cho vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc, hai đối tượng ấy không hề thực sự tách rời mà luôn hòa quyện, gắn bó, đan xen
- Bức tranh thiên nhiên trong nỗi nhớ: không theo quy luật
+ Các câu 6 nói về thiên nhiên, câu 8 nói về con người: đan xen, hòa quyện
+ Mùa động: rừng xanh – hoa chuối – đỏ tươi: màu đỏ tươi nổi bật trên nền rừng xanh -> ấm áp, xua tan lạnh lẽo mùa đông. Miêu tả mùa đông vừa mở rộng không gian nghệ thuật mênh mông vừa đưa không gian ấy lên chiều cao ngút ngàn. Trên nên xanh thăm thẳm, hùng vĩ của rừng đại ngàn là sắc đỏ tươi của hoa chuối nổi bật, vừa tạo cảm giác chói chang, ấm áp, mỗi bông hoa như một ngọn lửa thắp sáng và xua tan đi cái lạnh lẽo của núi rừng. Sự phôis hợp khéo léo giữa ánh sáng và màu sắc khiến bức tranh mùa đông càng trở nên rực rỡ
+ Mùa xuân: mơ nở trắng rừng -> tinh khiết -> không gian lãng mạn, thơ mộng, huyền ảo. Thiên nhiên mùa xuân được miêu tả trong những gam màu dịu mát, trẻ trung. Phép đảo ngữ trong cụm từ “trắng rừng” đem lại ấn tượng về những khu rừng Việt Bắc mênh mông, trắng xoa sắc hoa mơ. Đọng từ “nở” cho thấy sức sống sinh sôi, nảy nở của núi rừng mùa xuân.
+ Mùa hè: có âm thanh của tiếng ve râm ran, inh ỏi “rừng phách đổ vàng”: sự chuyển màu rất nhanh, đột ngột, cả không gian ngập tràn màu vàng, ánh vàng rực rỡ. Tiếng ve vang lên báo hiệu mùa hè đã tơus gợi ra cái náo nức của thời gian qua một tín hiệu rộn rã của khôngn gian. Động từ “đổ” miêu tả sự chuyển màu đột ngột, nhanh chóng của bức tranh thiên nhiên, đưa đến cảm giác ngỡ ngàng, choáng ngợp trong lòng người. Câu thơ đem đến cho chúng một tương quan kì diệu khiến cảnh vật như có linh hồn và sự giao cảm
+ Mùa thu: “trăng rọi”, màu vàng dịu nhẹ, yên ả -> Một không gian tràn ngập ánh trăng trở nên huyền ảo, yên ả, thơ mộng (hình ảnh quen thuộc trong thơ). Mùa thu kết thúc đoạn tứ bình cũng là thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến gian nan, oanh liệt, thời điểm chia li giữa Việt Bắc và những người kháng chiến. Bức tranh mùa thu được pgacs họa trong gam màu dịu mát của ánh trăng thanh bình. “rọi” là động từ miêu tả nguồn ánh sáng tập trung soi chiếu xuống một điểm hẹp trong không gian. Cách dùng từ này không chỉ giúp nhà thơ miêu tả chính xác ánh trăng lọt qua vòm cây, kẽ lá mà còn thể hiện tinh tế những cảm xúc của người
[tex]\rightarrow[/tex] Kết thúc ở mùa thu bởi mùa thu gắn liền với mặt trận cách mạng, chiến thắng
[tex]\Rightarrow[/tex] Bức tranh thiên nhiên rất đẹp, rực rỡ sắc màu, tràn đầy sức sống, mang đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc, thiên nhiên động (không tĩnh), ấm áp nghĩa tình, đã đẹp lại càng đẹp hơn bởi có hình ảnh con người
- Hình ảnh con người Việt Bắc
+ Người lên nương rẫy : hình ảnh đẹp, khỏe khoắn, chăm chỉ. Trên nền thiên nhien khoáng đạt, con người xuất hiện càng làm tăng thêm vẻ đẹp ấm áp, thơ mộng cho mùa đông Việt Bắc. Người dân Việt Bắc hiện ra với nét vẽ đơn sơ mà đầy ấn tượng của bút pháp chấm phá trong hội họa. Với con dao đi rừng lấp lóa gài ngang lưng, với vóc dáng trên đèo cao đầy nắng, tầm vóc con người như lớn lao, mạnh mẽ, rắn rỏi hơn
+ Người đan nón: chuốt từng sợi tỉ mỉ, khéo léo. Động tác “chuốt từng sợi giang” cho thấy rõ hơn vẻ đẹp của những người lao động cần mẫn, tinh tế và khéo léo nơi núi rừng -> nét đáng yêu, đáng nhớ của Việt Bắc
+ Cô gái hái măng một mình: một mình những không cô đơn mà vẫn tìm được niềm vui trong lao động bởi họ phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến. “em gái” là cách gọi thân thương trìu mến trong quan hệ gia đình, động tác hái măng gợi dáng vẻ cắm cúi, thầm lặng khiến cô gái càng nhỏ bé hơn giữa mênh mông rừng núi. Cảnh phảng phất buồn nhưng vẫn đẹp, một vẻ đẹp tĩnh lặng và trong sáng
+ Tiêng hát ân tình, thủy chung. Âm thanh của tiếng hát rộn vang trong đêm trăng cũng cho thấy đó là tiếng hát của đám đông, của tập thể, của người ở lại đang trào dâng nỗi nhớ nhung, lưu luyến. Miêu tả tiếng hát gợi ân tình của người ở lại, nhắc gượi sự thủy chung có lẽ là dụng ý của tác giả khiến kết đoạn tứ bình hàm chứa một tâm nguyện đinh ninh: những thay đổi trong cuộc sống hòa bình sẽ không bao giờ có thể thay đổi lòng dạ con người
[tex]\rightarrow[/tex] Tóm lại, con người luôn xuất hiện trong tư thế lao động sản xuất, là những con người lao động chăm chỉ, chịu thương, chịu khó, phục vụ cách mạng, kháng chiến, nét đẹp nhất ở họ là tình nghĩa thủy chung
[tex]\Rightarrow[/tex] Đoạn thơ cũng thể hiện quan niệm tiến bộ của Tố Hữu về thiên nhiên và con người
*) Hai mươi hai câu tiếp: Việt Bắc kháng chiến hào hùng
''Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà…
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.''
- Nhịp điệu câu thơ nhanh hơn, mạnh hơn : âm hưởng hào hùng -> không khí kháng chiến sôi nổi, khẩn trương
- Cách xưng hô: mình – ta -> ta, chúng ta. Có thể nhận ra sự trùng điệp của ngôn ngữ đa tái hiện sinh động sự trùng điệp của địa hình núi rừng. Những vị ngữ “đánh”, “giăng”, “che”, “vây” đem đến sắc thái nhân hóa cho rừng núi, tạo cảm giác như rừng núi cũng góp sức vào cuộc kháng chiến, cùng con người tạo nên sức mạnh to lớn, ngăn chặn và vây hãm kẻ thù
- Đoạn trước: nỗi nhớ, đoạn sau: kháng chiến
- Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện
- Điệp từ “nhớ’ + liệt kê: khẳng định nỗi nhớ kỉ niệm. Những từ “nhơ” điệp lại liên tiếp trong các dòng thơ đã cho thấy nỗi nhớ hòa quyện với niềm phấn khích của chiến thắng đang ào ạt trào dâng trong dòng hoài niệm
- “Của ta” khẳng định chủ quyền -> tâm trạng sung sướng, tự hào
- Từ láy: sức mạnh, khí thế hào hùng, rung chuyển cả đất trời
- Các hình ảnh cường điệu: nát đá
- Ẩn dụ: “sương dày”: khó khăn, “đèn pha bật sáng”: niềm tin
- Liệt kê những chiến thắng liên tiếp, dồn dập (Đồng Tháp, An Khê....) thể hiện tâm trạng tươi sáng
[tex]\Rightarrow[/tex] Tóm lại, đoạn thơ tái hiện lại những kỉ niệm ngày tháng kháng chiến hào hùng, cảm xúc vui sướng, tự hào
*) Mười sáu câu cuối
''Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.''
- Nhớ Việt Bắc: lao động kháng chiến, căn cứ kháng chiến, niềm tin chiến thắng
- Không gian của cuộ họp là hang núi chật hẹp, vậy mà vẫn lồng lộng gió núi, vẫn rực rỡ cờ đỏ sao vàng, vẫn chan hòa ánh nắng.... Cảnh đẹp trang nghiêm và phóng khoáng trong ngọn gió thời đại mới, con đường của cách mạng Việt Nam đã thực sự chuyển biến từ đêm tối sang ngày mai tươi sáng
- Kết thúc đoạn thơ lại là hình ảnh Việt Bắc, Thủ đô kháng chiến, nơi có Đảng và Bác Hồ, nơi qui tụ niềm tin và hi vọng của người Việt Nam từ mọi miền đất nước