kiểm tra học kì 3

H

hoaerika_ot

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

ôn thi rồi mà cô giáo còn bắt bọn tớ làm bài kiểm tra
mọi người giúp tớ với :
1.chỉ ra hình ảnh ẩn dụ và cho biết nó có ý nghĩa gì trong tp ''chyện người con gái Nam Xương''
2. viết đoạn văn theo mô hình diễn dịch với nội dung về thói ăn chơi xa đoạ của vua quan chuía Trịnh
 
Last edited by a moderator:
K

kunkon94

mình đưa 1 đoạn phân tích LVT nhé! bạn xem được í nào thì lấy í đó. thông cảm nha, mình buồn ngủ quá!!!
Đây là nhân vật lý tưởng của tác phẩm được khắc họa qua một kiểu thức khuôn mẫu thường gặp trong truyện Nôm truyền thống. Hình ảnh này cũng giống như hình ảnh Thạch Sanh đánh đại bàng cứu công chúa trong truyện cổ.
Hành động đánh giặc cướp cứu người của Lục Vân Tiên cho ta thấy tính cách của chàng. Một chàng trai anh hùng, tài năng và giàu nghĩa khí. Chỉ một mình, lại không có vũ khí chàng đã dám bẻ gậy xông vào bọn cướp đông người giáo gươm đầy đủ. Hình ảnh Lục Vân Tiên xông xáo tung hoành được nhả thơ miêu tả thật đẹp sánh ngang với hình ảnh Triệu Tử Long – một dũng tướng thời Tam Quốc.
“Vân Tiên tả đột hữu xung,
Khác nào Triệu Tử giữa vòng Đương Vương”
Với võ nghệ cao cường, LVT đã đánh tan bọn cướp và diệt tên đầu đảng Phong Lai. Hành động của chàng còn tỏ rõ đức độ của người nghĩa hiệp : “Giữa đường thấy sự bất bình chẳng tha”. Không sợ nguy hiểm Vân Tiên sẵn sàng vì nghĩa trừ hại cho dân .
Đánh xong bọn cướp thấy hai cô gái còn chưa hết hãi hùng Vân Tiên đã ân cần hỏi han, an ủi họ. Hành động của chàng thật đàng hoàng, chững chạc. Tuy có phần câu nệ nhưng vẫn là phong độ giữ lễ của một con người có văn hoá trong khi ứng xử với hai người con gái : “ Khoan khoan ngồi đó chớ ra . Nàng là phận gái ta là phận trai”. Vân Tiên đã từ chối cái lạy trả ơn, từ chối lời mời đền đáp, không nhận trâm vàng trao tặng mà chỉ nhận lời cùng Nguyệt Nga làm thơ xướng hoạ. Câu trả lời “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” và đặc biệt là câu nói của Vân Tiên “Nhớ câu kiến ngãi bất vi. Làm người thế ấy cũng phi anh hùng” cho thấy chàng là một người trọng nghĩa khinh tài đáng quý.
 
H

hoaerika_ot

rùi tớ cám ơn bạn
bạn đỡ buồn ngủ chưa
đỡ rùi thì giúp mình cho chót đi, mình đọc cũng '' tàm tạm'' ah
 
P

p3sily_k0ol

gợi ý câu 2 nè. còn bạn tự làm theo cách diễn dịch đi nhá. thời gian này mình bận lắm. bài này mình lấy từ ý tham khảo của thành viên khác thôi.
1. Cuộc sống của chúa Trịnh và bọn quan lại

- Xây dựng nhiều cung điện, đền đài lãng phí, hao tiền tốn của.
- Thích đi chơi, ngắm cảnh đẹp.
- Những cuộc dạo chơi bày trò giải trí hết sức lố lăng tốn kém.
- Việc xây dựng đền đài liên tục.
- Mỗi tháng vài ba lần Vương ra cung Thuỵ Liên…
- Việc tìm thú vui của chúa Trịnh thực chất là để cướp đoạt những của quý trong thiên hạ để tô điểm cho cuộc sống xa hoa.
Bằng cách đưa ra những sự việc cụ thể, phương pháp so sánh liệt kê - miêu tả tỉ mỉ sinh động, tác giả đã khắc hoạ một cách ấn tượng rõ nét cuộc sống ăn chơi xa hoa vô độ của vua chúa quan lại thời vua Lê, chúa Trịnh.
- “Cây đa to, cành lá… như cây cổ thụ”, phải một cơ binh hàng trăm người mới khiêng nổi.
- Hình núi non bộ trông như bể đầu non…
- Cảnh thì xa hoa lộng lẫy nhưng những âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn, tang tóc đau thương, báo trước điềm gở: sự suy vong tất yếu của một triều đại phong kiến.
- Thể hiện thái độ phê phán, không đồng tình với chế độ phong kiến thời Trịnh - Lê.

2. Thủ đoạn của bọn quan hầu cận
Được chúa sủng ái, chúng ngang nhiên ỷ thế hoành hành, vừa ăn cướp vừa la làng. Đó là hành vi ngang ngược, tham lam, tàn bạo, vô lý bất công.
- Các nhà giàu bị vu cho là giấu vật cung phụng.
- Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà, huỷ tường để khiêng ra.
- Dân chúng bị đe doạ, cướp bóc, o ép sợ hãi.
- Thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phỉa đập bỏ núi non bộ - hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ…
Tăng tính thuyết phục, kín đáo bộc lộ thái độ lên án phê phán chế độ phong kiến.
- Bằng cách xây dựng hình ảnh đối lập, dùng phương pháp so sánh liệt kê những sự việc có tính cụ thể chân thực, tác giả đã phơi bày, tố cáo những hành vi thủ đoạn của bọn quan lại hầu cận.
 
M

mr.lik

IV/Đọc và hiểu văn bản:
1/Về tính chất tự truyện của tác phẩm:
Đọc tiểu sử tác giả Nguyễn đình Chiểu và Truyện Lục Vân Tiên ta thấy có những yếu tố giống và khác nhau giữa cuộc đời tác giả và nhân vật Lục Vân Tiên.
Trước hết là những chi tiết trùng hợp:
-NĐC cũng chẳng khác chi LVT lúc vào đời thật hăm hở và đầy khát vọng, cũng đều lên kinh ứng thí :
“Chí lăm bắn nhạn ven mây,
Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa”
“Làm trai trong cõi người ta,
Trước lo báo bổ sau là hiển vang”
Nhưng cả hai đếu bất hạnh đến khắc nghiệt : Mẹ mất phải bỏ thi về chịu tang, bị đau mắt và sau đó bị mù. Vì thế đã bị bội hôn . Nhưng sau đó, họ đều được một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Nếu Lục Vân Tiên cưới được Kiều Nguyệt Nga thì Nguyễn Đình Chiểu cũng cưới được cô Năm Điền. Chính vì thế mà nhiều ý kiến cho rằng LVT là một tự truyện.
Tuy nhiên cuộc đời của tác giả và nhân vật cũng có những điểm khác nhau. Đó là Vân Tiên được tiên ông cứu cho sáng mắt để sau đó lại tiếp tục đi thi đỗ Trạng nguyện, được vua cử đi dẹp giặc Ô Qua thắng lợi. còn cụ Đồ Chiểu thì không như thế. Với cụ vĩnh viễn là bóng tối. Sự khác biệt đó thể hiện ước mơ và khát vọng của tác giả.

2/Về nhân vật Lục Vân Tiên :
Đây là nhân vật lý tưởng của tác phẩm được khắc họa qua một kiểu thức khuôn mẫu thường gặp trong truyện Nôm truyền thống. Hình ảnh này cũng giống như hình ảnh Thạch Sanh đánh đại bàng cứu công chúa trong truyện cổ.
Hành động đánh giặc cướp cứu người của Lục Vân Tiên cho ta thấy tính cách của chàng. Một chàng trai anh hùng, tài năng và giàu nghĩa khí. Chỉ một mình, lại không có vũ khí chàng đã dám bẻ gậy xông vào bọn cướp đông người giáo gươm đầy đủ. Hình ảnh Lục Vân Tiên xông xáo tung hoành được nhả thơ miêu tả thật đẹp sánh ngang với hình ảnh Triệu Tử Long – một dũng tướng thời Tam Quốc.
“Vân Tiên tả đột hữu xung,
Khác nào Triệu Tử giữa vòng Đương Vương”
Với võ nghệ cao cường, LVT đã đánh tan bọn cướp và diệt tên đầu đảng Phong Lai. Hành động của chàng còn tỏ rõ đức độ của người nghĩa hiệp : “Giữa đường thấy sự bất bình chẳng tha”. Không sợ nguy hiểm Vân Tiên sẵn sàng vì nghĩa trừ hại cho dân .
Đánh xong bọn cướp thấy hai cô gái còn chưa hết hãi hùng Vân Tiên đã ân cần hỏi han, an ủi họ. Hành động của chàng thật đàng hoàng, chững chạc. Tuy có phần câu nệ nhưng vẫn là phong độ giữ lễ của một con người có văn hoá trong khi ứng xử với hai người con gái : “ Khoan khoan ngồi đó chớ ra . Nàng là phận gái ta là phận trai”. Vân Tiên đã từ chối cái lạy trả ơn, từ chối lời mời đền đáp, không nhận trâm vàng trao tặng mà chỉ nhận lời cùng Nguyệt Nga làm thơ xướng hoạ. Câu trả lời “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” và đặc biệt là câu nói của Vân Tiên “Nhớ câu kiến ngãi bất vi. Làm người thế ấy cũng phi anh hùng” cho thấy chàng là một người trọng nghĩa khinh tài đáng quý.

3/Nhân vật Nguyệt Nga:
Đoạn truyện ngoài việc giới thiệu Lục Vân Tiên còn cho ta biết về Kiều Nguyệt Nga biểu hiện qua những lời giải bày của nàng với ân nhân. Đó là lời lẽ của một cô gái có giáo dục, có học thức. Cách nói năng của nàng dịu dàng, mực thước và chân thành:
“Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lậy rồi sẽ thưa.
Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng”
Là một cô gái rất mực đằm thắm ân tình, Nguyệt Nga nhớ ơn và mong muốn đền ơn người đã cứu giúp mình giữ được tiết hạnh: “Lâm nguy chẳng kịp giải nguy. Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”
Nhất là cuối cùng, nàng đã tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với cuộc đời chàng trai nghĩa khí ấy và sẵn sàng liều chết để giữ trọn ân tình chung thủy với người yêu.
Suy cho cùng nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga chính là hai mặt của một cách sống. Một là làm ơn không cần người khác đền ơn. Hai là chịu ơn thì phải nhớ ơn. Đó cũng là tính cách sống có tính truyền thồng tốt đẹp của người Việt Nam chúng ta. Một cách sống cần được giữ gìn và phát huy.

4/ Phương thức miêu tả nhân vật trong đoạn truyện :
Trong đoạn truyện này nhân vật được miêu tả chủ yếu qua hành động, cử chỉ, lời nói. Do bị mù nên Truyện LVT sáng tác là để đọc truyền miệng. Dù các học trò và mọi người có ghi chép lại nhưng nói chung đã lưu truếyn trong nhân gian chủ yếu qua các hình thức nói thơ, kể thơ. Cũng vì thế nên khi mô tả nhân vật tác giả ít chú ý khắc hoạ ngoại hình, cũng ít đi sâu phân tích nội tâm nhân vật. Nhân vật trong LVT thường đặt trong những mối quan hệ xã hội, những xung đột của đời sống rồi bằng hành động, cử chỉ, lời nói của mình mà tự bộc lộ tính cách ra.
Ngoài ra tác giả cũng tỏ thái độ của mình trong việc ca ngợi hay phê phán nhân vật đó.

5/ Ngôn ngữ của tác phẩm qua đoạn trích :
Lời thơ mộc mạc giản dị gần gũi với lời ăn tiếng nói thường ngày và mang đậm sắc thái địa phương Nam bộ. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên ít trau chuốt uyển chuyển nhưng lại dễ đi sâu vào tâm hồn quần chúng nhân dân.
Trong đoạn trích này, sắc thái ngôn ngữ đa dạng. Lời thơ bình dị chất pghác nhất là trong đoạn đầu, đoạn kế tiếp lời Vân Tiên bất bình, phẩn nộ cùng với lời tên cướp tự phụ hống hách và đoạn đối thoại giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga thì lời thơ mềm mỏng, xúc động chân thành.

Ghi nhớ : LVT là một trong những truyện xuất sắc nhất của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, được lưu truyền trong dân gian. Đoạn thơ trích thể hiện khát vọng hành động hành đạo giúp đời của tác giả và khắc hoạ những phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật chính : Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trong nghĩa khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na, ân tình chung thủy.
Từng này là câu 1 qua nha
 
M

mr.lik

Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), là người có bút pháp nghệ thuật tinh tế tài hoa, một phong thái thư nhàn cao nhã, ông tiêu biểu cho cốt cách kẻ sĩ Bắc Hà cuối thời Lê – Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn. - “ Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là một trang tuỳ bút đặc sắc, rút trong “ Vũ trung tuỳ bút” của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm tập trung đi sâu vào phản ánh cảnh ăn chơi xa hoa của Chúa Trịnh Sâm, cảnh bán hàng của bọn nội thần nội thị, cảnh tấu nhạc của bọn nhạc công cung đình tại chùa Trấn Quốc nơi Hồ Tây giữa TK XVIII, sự nhũng nhiễu của bọn hoạn quan khắp chốn dân gian… B –Thân bài. - “ Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” đã sảy ra vào 2 năm Giáp Ngọ – ất mùi (1774 – 1775), đó là lúc Đàng Ngoài “vô sự”, là những năm tháng hoàng kim của Chúa Trịnh Sâm – Khi Đặng Thị Huệ được Chúa sùng ái trở thành nguyên phi – Trịnh Sâm sống xa hoa “ thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thuý…”. - Cảnh đón tiếp với các nghi lễ thật tưng bừng độc đáo. Có “ binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ”. Có tổ chức hội chợ, do quan nội thần cải trang “ đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hoá chung quanh hồ để bán”. Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hô tụng đại thần tuỳ ý nghé vài bờ để mua bán các thứ… Gác chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi hoà nhạc của bọn nhạc công cung đình. Đền đài cung điện được xây dựng “ liên tục” nhằm thoả mãn cuộc sống ăn chơi của bọn vua chúa và bọn quan lại. Bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu, nước mắt, mồ hôi của nhân dân bị bòn vét đến kiệt cùng. => Phạm Đình Hổ đã được mắt thấy, tai nghe những “ Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” nên cách kể , cách tả của ông ở đây hết sức sống động. - Để được sống trong xa hoa, hưởng lạc cuộc đời vàng son đế vương, từ Chúa đến quan đều trở thành bọn cướp ngày ra sức hoành hành, trấn lột khắp chốn cùng quê. Chúa thì “ sức thu lấy” những “ loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian…, không thiếu một thứ gì”. có những cây cảnh “ cành lá rườm rà…như cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng” ở bên bắc “phải dùng dến một cơ binh mới mang về nổi” cũng được chúa trở qua sông đem về. Trong phủ chúa “ điểm xuyết” bao núi non bộ trông lạ mắt như “ bến bể đầu non”. Vườn ngự uyển trong những đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm “ ồn ào như trận mưa xa, bão táp, vỡ tổ tan đàn”. - Bọn hoạn quan trong phủ Chúa vừa trắng trợn vừa xảo quyệt, như dân gian đã khinh bỉ chửi vào mặt “ Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Chúng dùng thủ đoạn “ nhờ gió bẻ măng, ra ngoài doạ dẫm”. Chỉ bằng hai chữ “ phụng thủ” biên ngay vào chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu haycủa bất cứ nhà nào là chúng cướp được. Chúng còn lập mưu “đêm đến” cho tay chân sai lính lẻn vào “ lấy phăng đi, rồi buộc tội đem dấu vật cung phụng để doạ dẫm lấy tiền”. Chúng ngang ngược “ phá nhà, huỷ tường” của dân để khiêng hòn đá hoặc cây cối gì mà chúng cướp được. Đối với nhà giàu thì chúng lập mưu vu cho là “dấu vật cung phụng”để hành hạ, để làm tiền, nhiều người phải “ bỏ của ra kêu van chí chết”, có gia đình “ phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ”. - Gia đình tác giả thuộc hàng quan lại, quý tộc thời Lê – Trịnh. Trước sự nhũng nhiễu hoành hành, mẹ của Phạm Đình Hổ là bà Cung Nhân phải sai người nhà chặt cây lê “ cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xoá thơm lừng” đây là chi tiết rất sống, rất thực là chuyện có thực của chính gia đình tác giả => tạo niềm tin cho người đọc, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê – Trịnh, vạch trần sự thối tha trong phủ Chúa. => Cuộc sống cực kì xa hoa và tàn ác ấy chính là nguyên nhân cho sự sụp đổ ngai vàng sảy ra đối với nhà Chúa Lê – Trịnh sau này.
Câu 2 đây
 
T

thuyan9i

Lục Vân Tiên -Chàng thư sinh miệt mài đèn sách, chỉ mong sớm ngày bước đến thang mây. Vậy mà, trên bước đường lai kinh ứng thí, chàng đã nán lại, làm một việc nghĩa lớn lao.
Chuyện bọn cướp Phong Lai đâu liên lụy đến chàng. Nhưng học sách thánh hiền, thấy người hoạn nạn, bị ức hiếp, làm sao quân tử cam lòng; thấy bọn gian tà độc ác, làm sao để chúng dung thân? Lục Vân Tiên vụt thành anh hùng chỉ vì thấy việc phải mà làm:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Chàng không kịp nghĩ đến thiệt hơn, tai họa cho bản thân, cho dù bọn Phong Lai nanh vuốt có cả bầy đàn, cho dù chàng chỉ một thân cây làm gậy. Tài năng và sức mạnh chính nghĩa đã giúp chàng chiến thắng. Giúp người xong rồi, chàng chẳng màng được đền ơn, chẳng nhận lấy một chút quà mọn làm kỷ vật. Đó cũng là suy nghĩ theo lẽ phải:
“Nhớ câu trọng ngãi khinh tài

Nào ai chịu lấy của ai làm gì”
Phẩm chất ấy của Vân Tiên là Nghĩa trong Nho giáo, nhưng cũng đâu nằm ngoài tấm lòng hào hiệp, tốt bụng của người dân Nam Bộ. Dẹp gian tà có khác gì diệt mãng xà, trừ sấu dữ trên đường khẩn hoang lập nghiệp?
Nhưng Vân Tiên không học chữ Nghĩa cốt trở thành anh hùng. Chàng học Nghĩa để làm người, làm đứa con hiếu thảo. Đường công danh đang ở tầm tay, nghe tin mẹ mất, chàng quay về thọ tang. Tiếc thương mẹ, khóc đến mù đôi mắt... Sống sót từ sông sâu, hố thẳm, chàng về bên mộ mẹ. Bài văn tế cất lên nghẹn ngào đứt ruột:
“Tưởng bề nguồn nước cội cây

Công cao ngàn trượng ngãi dày chín trăng”
Học gương người xưa, chàng tưởng nhớ chín chữ cù lao. Ơn nghĩa sinh thành như nguồn nước cội cây, người quân tử sao quên báo hiếu. Nhớ chữ Ngãi, Vân Tiên đồng thời sống theo chữ Hiếu của dân gian:

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Chưa kể, chàng còn tỏ cái nghĩa với Tiểu đồng. Được ông Tiều cứu giúp, chàng gặp lại bạn Hớn Minh. Khóc mẹ, chàng còn khóc cho cảnh thảm của Tiểu đồng:
“Hữu tam bất hiếu đã đành

Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan”
Nho giáo chỉ đòi hỏi kẻ dưới hy sinh, phục tùng tuyệt đối bề trên, nhưng chàng Vân Tiên đã thương tôi tớ bằng tình cảm ruột thịt gia đình. Chàng đối xử với Tiểu đồng bằng cả lòng yêu thương và kính trọng một con người biết hy sinh và làm theo lẽ phải. Vậy là chữ Nghĩa của Vân Tiên đẹp trọn cả đôi đường: theo Nho giáo và theo đạo lý nhân dân.
 
H

hoaerika_ot

cám ơn bạn tuy nhiên bạn chưa đọc kĩ yêu cầu thì phải
bài của bạn ko giúp ích gì cho mình lắm
 
Top Bottom