Sử 7 khái quát về đặc điểm của quá trinh hình thành, phát triển vùng đất Biên Hòa-Đồng Nai

T

tieuyetdethuong1

Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
Ai li hò lờ ! Ai li hò lờ !
Đường về xứ bạn không xa
Qua vùng Đất Đỏ rồi ra Biên Hoà
Ai li hò lờ ! Ai li hò lớ !
Ai nghe chăng tiếng hò bao la
Những tiếng lòng di cư vẫy vùng theo gió
Ai nghe chăng tiếng người công phu
Biết tìm tự do tránh xa ngục tù
……………………………..
Ngày nào cạn nước Đồng Nai
Ngày nào cạn nước ngoài khơi
Non sông ta xóa mờ
Không ai nghe tiếng hò
Thì lời nguyền mới phai...
(Tiếng Hò Miền Nam - Nhạc Phạm Duy) Đồng Nai, mảnh đất đã chứng kiến bao thăng trầm lịch sử, kể từ khi Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược xứ Đàng Trong (1698), lấy đất Đồng Nai lập phủ Gia Định gồm 2 huyện Phước Long với dinh Trấn Biên và huyện Tân Bình với dinh Phiên Trấn làm mốc, thì kể từ đây Sài Gòn - Gia Định đã trở thành trung tâm hành chính - chính trị và đang từng bước hình thành một trung tâm kinh tế và văn hóa của vùng đất mới. Có thể nói sự kiện năm 1698 là cột mốc quan trọng trong quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của chúa Nguyễn đối với vùng đất Nam Bộ nói chung, đối với Gia Định - Đồng Nai nói riêng. Thực ra, vùng đất Đồng Nai đã có người ở từ trước đó rất lâu và trong một chừng mực nào đó có thể nói rằng đây là một trong những cái nôi của bình minh xã hội loài người. Trên chặng đường dài kể từ khi xuất hiện (văn hóa đá cũ Xuân Lộc) đến những bước phát triển cao hơn (văn hóa thời kim khí), cư dân cổ ở Đồng Nai cổ đạt đến tầm cao của cuộc sống thời tiền sử được mệnh danh “Văn minh tiền sử lưu vực sông Đồng Nai”. Cùng với những bước đi dò dẫm, những phát minh để thích ứng, tồn tại với môi trường sống, lớp cư dân Đồng Nai cổ xưa đã để lại những dấu ấn tuyệt vời của mình (đàn đá Bình Đa, qua đồng Long Giao, mộ cự thạch Hàng Gòn,…). Đó là kết quả của một quá trình lao động khai phá không ngừng và sáng tạo của người cổ, khẳng định một truyền thống trên vùng đất Đồng Nai với một bản sắc độc đáo. Ở đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu lịch sử Biên Hòa- Đồng Nai từ khoảng thế kỉ I- X. sau công nguyên. Đây là thời điểm có khá nhiều biến chuyển về chính trị cũng như xã hội trong lòng những cư dân Đồng Nai cổ nhưng nhìn chung trong hơn 10 thế kỉ sau công nguyên, cư dân ở Đồng Nai sử dụng văn hóa Óc Eo làm nền tảng và tiếp thu những nền văn hóa khác tạo nên một nét văn hóa mang tính nội địa. Đây chỉ là một bài luận mang tính chất tìm hiểu nên nội dung còn khá giản lược, chủ yếu trình bày về các sự kiện lịch sử quan trọng từ thế kỉ thứ I - X cũng như về cuộc sống hàng ngày của cư dân Đồng Nai cổ và mối quan hệ đoàn kết, giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Hoa, Việt, Khmer, Chăm,… Địa hình đồng bằng xen đồi núi thấp. Khí hậu nóng ẩm, lượng mưa trung bình năm khá lớn, nhiều điểm trên 2.000 mm, đất tốt thuận lợi cho phát triển nông lâm nghiệp. Sông chính: Đồng Nai, La Ngà. Sách Gia Định thành thông chí (năm 1820) của Trịnh Hoài Đức có đoạn: “ Bà Rịa ở đầu trấn Biên Hòa, là đất có danh tiếng, nên các phủ phía Bắc có câu ngạn rằng: cơm Nai Rịa, cá Rí Rang, ấy là lấy xứ Đồng Nai và Bà Rịa đứng đầu mà bao gồm cả Bến Nghé, Sài Gòn, Mỹ Tho, Long Hồ vậy”. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và khảo cổ cho rằng thời sơ sử từ đầu công nguyên tới thế kỉ VII vùng đất Đồng Nai hiện nay nằm trong vùng ảnh hưởng Phù Nam, vì nơi đây có nhiều di tích văn minh Óc Eo. Sau đó, đất này phụ thuộc lỏng lẻo vào Chân Lạp, là một phần đất Thủy Chân Lạp; có lúc là vùng trái độn bị Champa và Chân Lạp tranh chấp. Lúc đó, nơi đây không biết gọi là gì, người ta chưa tìm ra địa danh có thể đã xuất hiện từ lâu.Như vậy có thể đưa ra một bảng khái quát về lịch sử Đồng Nai từ thế kỉ I-X như sau:
Thời gian Sự kiện
Thế kỉ I-nửa đầu TK VI Chịu ảnh hưởng của vương quốc Phù Nam Đến TK III, Phù Nam bước vào thời kì hưng thịnh, lãnh thổ mở rộng về phía Đông, đã kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung Bộ (Việt Nam), về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam đến phần phía Bắc bán đảo Malaixia, về phía Bắc tới tận Ninh Thuận, Khánh Hòa ngày nay.
Nửa sau TK VI-TK VIII Chịu ảnh hưởng của Chân Lạp và Thủy Chân Lạp Ở miền Tây sông Hậu vào khoảng giữa thế kỉ VI, một tộc người ở Bassac là thuộc quốc của Phù Nam nổi lên thôn tính vương quốc này và thành lập vương quốc Chân Lạp, xây dựng kinh đô ở vùng Tonle Sap (Biển Hồ). Sau khi Chân Lạp đánh bại Phù Nam, trong sách Trung Quốc đã xuất hiện tên gọi Thủy Chân Lạp để chỉ phần lãnh thổ Phù Nam trên vùng đất Nam Bộ (Việt nam); và cũng để phân biệt với vùng đất Lục Chân Lạp, tức là vùng đất gốc của Vương quốc Chân Lạp
Nửa sau TK VIII-Đầu TK IX Chịu ảnh hưởng của Srivijava của người Java Khi Phù Nam tan rã là lúc nhiều vương quốc nhỏ ở Đông Nam Á nổi lên thay thế vai trò đế quốc hàng hải của vương quốc này, mà nổi bật là vương quốc Srivijaya ở đảo Sumatra và vương quốc Sailendra ở đảo Java, thuộc Indonesia ngày nay. Từ cuối thế kỷ 8, vương quốc Sailendre hùng mạnh đã xâm chiếm toàn bộ Thủy Chân Lạp đồng thời đưa Lục Chân Lạp vào vị trí chư hầu của mình, tới đầu thế kỷ 9, Sailendra suy yếu mới từ bỏ vùng đất Thuỷ Chân Lạp.
Nửa đầu TK IX-Giữa TK IX Chịu ảnh hưởng của Champa Harivarman I tiến vào cao nguyên Đồng Nai thượng, đánh bại quân Khmer và kiểm soát một vùng đất rộng lớn.(803 và 817)
Nửa sau TK IX-Cuối TK IX Chịu ảnh hưởng của Angkor và Champa Với thời gian, Hoàn Vương Quốc (Champa) lại trở thành nạn nhân của sự giàu có của mình, các thế lực lân bang liên tục tràn vào cướp phá. Trong suốt 21 năm, từ 854 đến 875, quân của đế quốc Angkor đã nhiều lần tiến đánh Hoàn Vương Quốc, chiếm nhiều vùng đất rộng lớn dọc tả ngạn sông Đồng Nai, đôi khi còn băng cao nguyên Langbian đột nhập vào lãnh thổ Panduranga cướp phá. Vikrantavarman III mất năm 854 (được thờ dưới pháp danh Vikrantasvara), không người kế tự, nội bộ triều đình xảy ra tranh chấp.
Cuối TK IX và đầu TK X Vùng đất Đồng Nai bị kiểm soát lỏng lẻo, trở về với sự hoang hóa ban đầu mà chủ nhân của nó là những người dân tộc thiểu số như: Stieng, Choro,…
Dựa vào nguồn tài liệu thư tịch cổ, cùng nhiều di tích khảo cổ học: Gò Ông Tùng, Gò Chiêu Liêu, Cây Gáo I và II ở Đồng Nai được xây dựng bằng gạch mộc (gạch phơi khô hoặc nung) có bình đồ kiến trúc hình chữ nhật, chính giữa xây huyệt thờ hình vuông nện chặt cát-đá-gạch. Bên trên kiến trúc có mái che làm bằng vật liệu nhẹ (gỗ, tre, lá). Khung niên đại những di tích này được xác định từ thế kỉ I- III sau công nguyên. Những di tích kiến trúc, tượng thờ tìm thấy ở Đồng Nai như: Đà Lắc , Nam Cát Tiên (Tân Phú), Rạch Đông, Đỗng Bơ,… có khung niên đại từ TK VI - X SCN. Những kiến trúc này thuộc dạng kiến trúc thờ thần của đạo Hindu, kế thừa truyền thống Óc Eo, nhưng cải biến thành bình đồ vuông có bổ sung thêm các công trình phụ. Di vật tìm thấy trong di tích và quanh vùng Biên Hòa hầu hết là tượng thờ, vật thiêng của đạo Hindu - Ấn độ giáo, mà phổ biến là 2 giáo phái Vishnu và Siva. Các tượng thần Vishnu, thần Ganessa, các tượng Linga, Yoni… được thể hiện khá hiện thực, mộc mạc, mang truyền thống văn hóa Óc Eo. Có thể thời kì này, Đồng Nai còn thuộc không gian văn hóa Óc Eo. Khi văn hóa Óc Eo ở đồng bằng sông Cửu Long suy tàn, thì nơi đây tiếp tục kế thừa, phát huy và giao lưu, hội nhập với các nền văn hóa khác, tạo ra một nét văn hóa mới có tên gọi: “Văn hóa hậu Óc Eo”. Có thể nói nếu văn hóa Óc Eo là một bộ phận văn minh Phù Nam biển, thì văn hóa Óc Eo- hậu Óc Eo là một bộ phận văn minh Phù Nam nội địa. Nó tồn tại và phát triển độc lập với Champa ở phía đông và Chân Lạp ở phía tây. Theo sách Biên Hòa Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển thì “Từ đầu công nguyên, trên vùng đất Đồng Nai hẳn có nhiều bộ tộc cư trú, sinh sống. khi Phù Nam lập quốc, quản lí từ đèo Cả trở vào Nam Bộ, nhưng thực tế vùng đất này được quản lí rất lỏng lẻo. Hơn nữa, các bộ tộc mang tính tự trị cao, vốn thích tự do làm chủ núi rừng, nên khi có “thể chế quản lí”, đạo Ấn Độ du nhập, một số bộ tộc từ chối, họ rút sâu vào rừng hiểm trở, sống trên những thung lũng xung quanh đồi núi phía nam dãy Trường Sơn. Một số dần dần tiếp thu tin ngưỡng văn hóa Phù Nam, nhưng cải biến cho phù hợp với địa sinh thái trong vùng, hình thành một nét văn hóa mang tính bản địa”. Như vậy cư dân vản địa ở đây chủ yếu là các dân tộc ít người. Một số kết quả nghiên cứu cổ nhân học trên các xương sọ tìm thấy trong các dic tích mộ táng ở duyên hải đồng bằng miền Tây Nam Bộ cho thấy sọ của những người thuộc chủng Indonesien có mẫu tầm vóc trung bình nam 1.62 mét, nữ 1.60 mét, gần gũi với mẫu người dân tộc ít người hiện nay là Stieng, Choro, Châu Mạ,… Cư dân bản địa ở đây chủ yếu theo truyền thống tục thờ tự nhiên (đa thần giáo). Đó là những vị thần gần gũi với cuộc sống, phù hợp họ trong cuộc sống; hoặc những vị thần mà họ không thể chế ngự được, mang đến cho họ sự sợ hãi, kinh hoàng. Họ tiếp thu các nền văn hóa Champa, Chân Lạp, nhưng kế thừa truyền thống văn hóa Óc Eo để tạo ra một sắc thái riêng, khá độc đáo của mình (qua cac tượng, bia, kiến trúc,…): họ có ảnh hưởng đạo Hinđu, nhưng truyền thống tục thở tự nhiên vẫn là chủ đạo.Xã hội được tổ chức theo thị tộc, bộ tộc, mỗi bộ tộc có một tộc trưởng đứng đầu xử lí công việc, giai tầng xã hội phân chia không lớn. Đất của bộ tộc khai phá là sở hữu xã hội mang tính cộng đồng, giàu nghèo được phân biệt ở vật dụng được dùng trong nhà, họ theo chế độ mẫu hệ mà ngày nay còn thể hiện trong các sinh hoạt cúng tế.Trước kia, có lẽ họ cũng đã từng giao lưu, trao đổi hàng hóa trong vùng khi bến cảng Cần Giờ phá triển và mất thế chủ động khi Phù Nam phát triển cảng thị Óc Eo ở miền Tây Nam Bộ. Khi lui dần về miển trung du, họ dựa vào thiên nhiên, lấy nông nghiệp làm ruộng rẫy là chính để sản xuất lương thực theo phương thức “hỏa canh thủy nậu”, mang tính chất tự cung tự cấp. Chăn nuôi gia súc, gia cầm thường để phục vụ cho các lễ hiến sinh, cúng Yang (trời). Hình thái kinh tế chiếm đoạt như săn bắn, hái lượm vẫn còn vai trò quan trọng trong đời sống của họ. Các nghề thủ công như đan lát, dệt vải, rèn sắt vẫn được duy trì. Việc trao đổi hàng hóa diễn ra trong các bộ tộc và vùng lân cận bằng các sản phẩm của rừng để lấy những đồ dùng không sản xuất được như dồ thờ cúng, đồ trang sức….; phương tiện đi lại chủ yếu là đi bộ và thuyền độc mộc trên sông. Sông Đồng Nai bấy giờ vẫn là đường giao thông huyết mạch giao lưu kinh tế văn hóa với các vùng mà trung tâm hội tụ là thành phố Biên Hòa ngày nay. Trải qua một chặng đường gian nan, lịch sử đã chứng minh vùng đất Biên Hòa- Đồng Nai nói riêng và vùng đất Nam Bộ nói chung là một phần không thể tách rời khỏi lịch sử dân tộc Việt Nam . Những dấu tích còn lưu lại cho đến hôm nay là bằng chứng hùng hồn cho những gì mà cha ông ta đã gây dựng nên bằng mồ hôi, nước mắt và cả xương máu.Thế hệ trẻ người Việt nói chung sẽ mãi ghi nhớ và gắng sức xây dựng đất nước ngày càng tiến tới.
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về​
Nguồn: google
 
Top Bottom