Sử Hoàn thành bảng

Xuân Long

Học sinh chăm học
Thành viên
18 Tháng ba 2017
684
631
149
22
Nam Định
Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông
1. Khởi nghĩa Bắc Sơn
Nguyên nhân: 23/9/1940: Nhật đánh Lạng Sơn , Pháp thua , chạy qua châu Bắc Sơn.Nhân dân Bắc sơn dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đã nổi dậy , ngày 27-9-1940 thành lập chính quyền cách mạng
Diễn biến :
27/9/1940: Nhân dân Bắc Sơn dứơi sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đã tước khí giới của quân Pháp.
Quân khởi nghĩa tiến đánh Mỏ Nhài , Bình Gia giải tán chính quyền phản động , tổ chức bảo vệ an ninh , trật tự trong vùng , tiếp đó quân khởi nghĩa chiếm đánh Vũ Lăng .
Nhật – Pháp thỏa hiệp, Pháp tập trung lực lượng đàn áp nhân dân Bắc Sơn rất dã man ( dồn dân , bắt giết cán bộ, đốt phá nhà cửa).
Thất bại do khởi nghĩa xuất hiện tại địa phương nên Pháp có điều kiện tập trung đàn áp – Tuy thất bại , khởi nghĩa Bắc Sơn đã duy trì một phần lực lượng đó là đội du kích Bắc Sơn , trở thành lực lượng vũ trang nòng cốt của Đảng
2. Khởi nghĩa Nam Kỳ (23- 11- 1940)
Nguyên nhân:
Binh lính người Việt Nam trong quân đội Pháp bất mãn vì bị Pháp điều đi biên giới Lào- Cam pu chia để chống Thái Lan .
Phong trào phản kháng của binh lính lan rộng , nhân dân cũng sẵn sàng nổi dậy
Tình thế rất cấp bách, Đảng bộ Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa tuy chưa có sự chuẩn y của Trung ương .
Diễn biến:
Trước ngày khởi nghĩa kế hoạch bị lộ , thực dân Pháp tước vũ khí của binh lính người Việt , ra lệnh giới nghiêm và bủa lưới vây bắt các chiến sĩ cách mạng
Đêm 22 rạng 23/11/1940 , khởi nghĩa vẫn bùng nổ khắp các tỉnh Nam Kỳ. Nhiều nơi lập được chính quyền cách mạng ( Mỹ Tho , Vĩnh Long , Gia Định ), lần đầu xuất hiện cờ đỏ sao vàng.
Pháp tập trung lực lượng , đàn áp dã man: ném bom , bắn phá nhiều làng mạc, đốt nhà , cứơp của , tàn sát nhân dân, xử bắn nhiều Đảng viên: Nguyễn Văn Cừ , Nguyễn Thị Minh Khai….
Kết quả:
Pháp dìm nhân dân ta trong biển máu. Đảng bị tổn thất nặng , một số cán bộ và nghĩa quân rút vào rừng chờ cơ hội hoạt động trở lại .
bạn tự điền vào nha
 

mỳ gói

Học sinh tiêu biểu
Thành viên
28 Tháng mười 2017
3,580
6,003
694
Tuyên Quang
THPT NTT
1. Khởi nghĩa Bắc Sơn
Nguyên nhân: 23/9/1940: Nhật đánh Lạng Sơn , Pháp thua , chạy qua châu Bắc Sơn.Nhân dân Bắc sơn dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đã nổi dậy , ngày 27-9-1940 thành lập chính quyền cách mạng
Diễn biến :
27/9/1940: Nhân dân Bắc Sơn dứơi sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đã tước khí giới của quân Pháp.
Quân khởi nghĩa tiến đánh Mỏ Nhài , Bình Gia giải tán chính quyền phản động , tổ chức bảo vệ an ninh , trật tự trong vùng , tiếp đó quân khởi nghĩa chiếm đánh Vũ Lăng .
Nhật – Pháp thỏa hiệp, Pháp tập trung lực lượng đàn áp nhân dân Bắc Sơn rất dã man ( dồn dân , bắt giết cán bộ, đốt phá nhà cửa).
Thất bại do khởi nghĩa xuất hiện tại địa phương nên Pháp có điều kiện tập trung đàn áp – Tuy thất bại , khởi nghĩa Bắc Sơn đã duy trì một phần lực lượng đó là đội du kích Bắc Sơn , trở thành lực lượng vũ trang nòng cốt của Đảng
2. Khởi nghĩa Nam Kỳ (23- 11- 1940)
Nguyên nhân:
Binh lính người Việt Nam trong quân đội Pháp bất mãn vì bị Pháp điều đi biên giới Lào- Cam pu chia để chống Thái Lan .
Phong trào phản kháng của binh lính lan rộng , nhân dân cũng sẵn sàng nổi dậy
Tình thế rất cấp bách, Đảng bộ Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa tuy chưa có sự chuẩn y của Trung ương .
Diễn biến:
Trước ngày khởi nghĩa kế hoạch bị lộ , thực dân Pháp tước vũ khí của binh lính người Việt , ra lệnh giới nghiêm và bủa lưới vây bắt các chiến sĩ cách mạng
Đêm 22 rạng 23/11/1940 , khởi nghĩa vẫn bùng nổ khắp các tỉnh Nam Kỳ. Nhiều nơi lập được chính quyền cách mạng ( Mỹ Tho , Vĩnh Long , Gia Định ), lần đầu xuất hiện cờ đỏ sao vàng.
Pháp tập trung lực lượng , đàn áp dã man: ném bom , bắn phá nhiều làng mạc, đốt nhà , cứơp của , tàn sát nhân dân, xử bắn nhiều Đảng viên: Nguyễn Văn Cừ , Nguyễn Thị Minh Khai….
Kết quả:
Pháp dìm nhân dân ta trong biển máu. Đảng bị tổn thất nặng , một số cán bộ và nghĩa quân rút vào rừng chờ cơ hội hoạt động trở lại .
bạn tự điền vào nha
mình vẫn chưa rõ địa điểm cụ thể ở đâu ?
 

mỳ gói

Học sinh tiêu biểu
Thành viên
28 Tháng mười 2017
3,580
6,003
694
Tuyên Quang
THPT NTT
Mâu thuẫn giữa cái gì vậy bạn?
cái đấy là bài học của mình không cần quan tâm tới bạn ạ.
Còn hoàn thành bảng là bài tập về nhà của mình.
bạn có thể viết lại đề không
mình chả hiểu
mà mình muốn hỏi hoàn thành bảng thì bạn cần cho mình biết là ở thời điểm nào,
tìm thời gian, địa điểm, lãnh đạo, lực lượng, địa điểm, kết quả ý ngĩa của 2 cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam kì.
 

Hiểu Lam

Học sinh tiến bộ
Thành viên
24 Tháng tư 2017
1,167
1,857
259
21
Trái Đất
Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940)
* Nguyên nhân
- Ngày 22/9/1940, Nhật đánh vào Lạng Sơn, Pháp thua và rút lui qua Châu Bắc Sơn. Nhân cơ hội đó, Đảng bộ địa phương đã lãnh đạo nhân dân Bắc Sơn khởi nghĩa.
* Ý nghĩa
Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng đã để lại nhiều bài học về khởi nghĩa vũ trang cho Đảng. Đặc biệt, trong cuộc khởi nghĩa, đội du kích Bắc Sơn được thành lập – Đây là lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của ta.
Khởi nghĩa Nam kỳ (23/ 11/ 1940)
* Nguyên nhân
Tháng 11/1940, quân phiệt Xiêm đã khiêu khích và gây xung đột dọc đường biên giới Lào và Campuchia. Thực dân Pháp đã đưa binh lính người Việt và người Cao Miên sang làm bia đỡ đạn chết thay cho chúng. Sự việc này làm cho nhân dân Nam kỳ rất bất bình.
Trước hoàn cảnh đó, Đảng bộ Nam kỳ đã quyết định chuẩn bị phát động khởi nghĩa và cử đại diện ra xin chỉ thị của Trung ương. Trung ương quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa.
* Ý nghĩa: Chứng tỏ tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân Nam Bộ, sẵn sàng đứng lên chiến đấu chống quân thù .
 
  • Like
Reactions: mỳ gói

thanh bình lớp 9a3 thcs lâm thao

Học sinh chăm học
Thành viên
3 Tháng một 2018
348
215
99
20
Phú Thọ
trường thcs lâm thao
1 Khởi nghĩa Bắc Sơn:Châu Bắc Sơn nằm ở phía Tây Nam tỉnh Lạng Sơn, với diện tích khoảng 800km2, phía Đông giáp huyện văn quán, phía Tây giáp huyện Võ Nhai, phía Nam giáp huyện Hữu Lũng và phía Bắc giáp huyện Bình Gia.
Bắc Sơn địa thể hiểm trở. Núi cao, lắm hang động kỳ vĩ, có hang rộng tới 12.000m2 dài hàng kilômét với nhiều di tích khảo cổ. Giữa rừng núi trùng điệp là những thung lũng rộng, những vạt ruộng khá phì nhiêu. Bắc Sơn có 5 dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Hoa và Kinh. Người Tày đông nhất, chiếm tới 80% dân số.
Bắc Sơn là quê hương của đồng chí Hoàng Văn Thụ, một trong những người lãnh đạo xuất sắc của Đảng lúc ấy.
Năm 1933, từ Lũng Nghìu (một làng nhỏ huyện Long Châu, Trung Quốc) cách biên giới không xa, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã về quê hương gây dựng cơ sở từ Na Sầm, Khe Da đến Đồng Đăng, Kỳ Lừa. Ngày 25 tháng 9 năm 1936, chi bộ Đảng đầu tiên ở Bắc Sơn xuất hiện ở Mỏ Tát, xã Vũ Lăng.
Bắc Sơn lúc ấy nằm trên con đường chiến lược Lạng Sơn-biên giới Việt-Trung, vì thế tháng 8-1938, Xứ ủy Bắc Kỳ cử cán bộ về củng cố. Tháng 5-1939, Ban cán sự châu Bắc Sơn thành lập ở đồi Nà Kheo, xã Vũ Lăng. Từ đó nhân dân Bắc Sơn luôn gắn mình với phong trào cách mạng chung của cả nước: chống phát- xít, chống bắt phu, đòi bán muối, đòi tự do đi lại...
Tháng 9 năm 1939, Hội nghị Trung ương lần thứ VI họp ở Bà Điểm (Sài Gòn) chỉ rõ: "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là đánh đổ đế quốc Pháp và chống tất cả mọi ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng".
Tháng 6-1940, nước Pháp của tên phản bội Pê-tanh đầu hàng Hít-le. Đón trước tình hình mới, Đảng ta rất chú trọng đến tình hình biên giới phía Bắc.
Quả vậy, ở Đông Dương, phát xít Nhật bắt đầu thực hiện kế hoạch xâm lược của chúng. Ngày 22-9-1940, quân Nhật vượt biên giới đánh vào Lạng Sơn. Quân Pháp chống cự yếu ớt rồi rút chạy qua Điểm He, Bình Gia, Bắc Sơn, Thái Nguyên. Ngày 25-9-1940, tại cầu Rá Riềng, tên đại úy đồn Bình Gia bỏ chạy vứt lại cả ô-tô và súng đạn. Quân lính cởi bỏ quân phục cho dễ lẫn trốn. Chính quyền địa phương của giặc rệu rã.
Nhân dân Bắc Sơn không bỏ lỡ thời cơ, tự tổ chức việc thu nhặt võ khí, tước khí giới của các toán quân lẻ để tự vũ trang, sẵn sàng nổi dậy cướp chính quyền.
Đảng bộ Bắc Sơn được tăng cường một số đảng viên vừa thoát khỏi nhà ngục Lạng Sơn đã quyết định khởi nghĩa.
Ngày 27-9-1940, tiếng súng Bắc Sơn bùng nổ. ủy ban khởi nghĩa đã huy động một lực lượng tự vệ phục kích một toán quân Pháp ở đèo Canh Tiến, diệt 1 tên, thu súng ống rồi đuổi chúng về đèo Dập Dị.
Ngay chiều hôm ấy, với 20 khẩu súng trường, 8 súng kíp, đội tự vệ vũ trang lạI cùng 3.000 quần chúng thuộc các xã Tam Hoa, Hưng Vũ, Trấn Yên mang giáo mác gậy gộc kéo về châu lị Bắc Sơn, tiến đánh đồn Mỏ Nhài, vị trí xung yếu nhất của địch ở Bắc Sơn.
Lực lượng khởi nghĩa chia làm 3 mũi. Tuy chưa có kinh nghiệm tác chiến nhưng với khí thế hùng dũng, mọi người ào ạt xông lên, vừa bắn vừa kêu gọi binh lính trong đồn. Tri châu Hoàng Văn Sĩ và một trung đội lính đầy đủ súng ống hoảng sợ tháo chạy.
Nghĩa quân chiếm được đồn, thu 17 khẩu súng kíp, 1 máy chữ và toàn bộ sổ sách, bằng, triện.
Hàng nghìn đồng bào, từ già đến trẻ, đốt đuốc kéo đến, reo hò sung sướng, náo động cả một vùng đồi núi xưa nay yên tĩnh.
Hôm sau, ngày 28-9-1940, tự vệ Bắc Sơn còn phục kích tàn quân Pháp ở đèo Thâu Thông. Nhân dân các xã Chiên Vũ, Hưng Vũ đón đánh, thu thêm vũ khí của binh lính địch ở đèo Nà Ty, Dập Dị...
Cuộc khởi nghĩa đang tiến triển thì giặc Nhật thỏa hiệp với Pháp để Pháp rảnh tay đàn áp cách mạng. Quân Pháp từ Đình Cả, Võ Nhai, Bình Gia kéo đến chiếm lại châu lị, đốt phá làng bản, tàn sát nhân dân. Xứ ủy Bắc Kỳ đã phát động quần chúng Võ Nhai hỗ trợ. Tại xã Phú Thượng, đồng chí Trần Đăng Ninh cùng với đồng chí Lương Văn Chi tập hợp các chiến sĩ tự vệ và một số quần chúng tích cực lập ra Đội du kích. Ngày 14-10-1940, Đảng bộ Bắc Sơn họp ở khu rừng Sa Khao quyết định thành lập chiến khu Bắc Sơn, lập chính quyền cách mạng và lực lượng vũ trang chống địch khủng bố. Quân du kích tiến đánh Khôn Ràng lùng bắt bọn đầu sỏ. 25-10-1940, tiến đánh đồn Vũ Lăng. Tên châu úy và 100 tay súng phải bỏ chạy. Chỉ sau vài ngày, quân du kích đã lên tới 200 người.
Giặc Pháp cho tên Boóc-đi-ê, trưởng đồn Đình Cả huy động trên 100 lính khố xanh, lính dõng chiếm lại Mỏ Nhài, châu lị Bắc Sơn. Ngày 28-10-1940, một cuộc tuần hành thị uy lớn có cờ đỏ sao vàng dẫn đầu từ Nam nhi đến Vũ Lăng đã bị quân Pháp nổ súng đàn áp. Giặc Pháp điên cuồng khủng bố. Phong trào tạm lắng xuống, nhưng ngọn lửa cách mạng vẫn âm ỉ. Đảng bộ Bắc Sơn đã thu thập lực lượng vũ trang, đIều động một số lên Vũ Nhai lập trung đội du kích mới.
Đội du kích phải chuyển sang hoạt động lẻ tẻ phân tán. Cuối năm, trời rét như cắt, mỗi người chỉ có một bộ quần áo chàm mỏng, lương thực thiếu, phải nhịn đói, gia đình bị khủng bố tàn sát, nhưng các chiến sĩ Bắc Sơn vẫn quyết chiến đấu đến cùng.
Lúc đó, Đảng ta cũng đã chỉ thị các địa phương phối hợp hành động. Đặc biệt, ở Ngọc Trạo (Thanh Hóa) có phong trào khá mạnh đã lập ra chiến khu Ngọc Trạo...
Tháng 11 năm 1940, trong khi Bắc Sơn đang gặp khó khăn và trong lúc Nam Kỳ đang sôi sục chuẩn bị khởi nghĩa thì Hội nghị trung ương lần thứ VII nhóm họp ở Đình Bảng (Bắc Ninh).
Sau khi nghe đồng chí Trần Đăng Ninh báo cáo, Hội nghị quyết định duy trì và bồi dưỡng đội du kích Bắc Sơn làm lực lượng quân sự đầu tiên cho cách mạng. Lực lượng đó phải chuyển hướng từ hoạt động quân sự sang chính trị, gây cơ sở, thành lập căn cứ du kích lấy vùng Bắc Sơn, Võ Nhai làm trung tâm.
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra khi cả nước chưa được chuẩn bị nên phải chiến đấu lẻ loi. Đó là tiếng súng đầu tiên báo hiệu thời kỳ đấu tranh vũ trang của dân tộc Việt Nam. Khởi nghĩa Bắc Sơn đã cho ra đời đứa con đầu lòng của lực lượng vũ trang cách mạng: Đội du kích Bắc Sơn.
Khởi nghĩa Bắc Sơn đánh dấu sự chuyển hướng trong hình thức đấu tranh của nhân dân Việt Nam từ đấu tranh chính trị tiến đến kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang và nhờ những kinh nghiệm sinh động của cuộc khởi nghĩa ấy đã góp phần tạo ra khả năng cho một cuộc vận động cách mạng sôi nổi tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám.
2 Khởi nghĩa Nam Kì:
Cùng với việc quân Nhật kéo vào Bắc bộ, thừa cơ quân Pháp bối rối, tháng 11 năm 1940, bọn quân phiệt Thái Lan theo lệnh phát xít Nhật tiến đánh Campuchia. Thực dân Pháp bắt lính người Nam bộ và người Khơme ra trận làm bia đỡ đạn cho chúng. Căm thù thực dân Pháp và được cổ vũ bởi tiếng súng khởi nghĩa Bắc Sơn, nhân dân Nam bộ sục sôi tranh đấu.
Nam bộ lúc đó có phong trào mạnh mẽ hơn các nơi trong cả nước. Từ sau Hội nghị trung ương Đảng lần thứ VI (11-1939) họp tại Hóc Môn-Bà Điểm (Sài Gòn), mặc dù một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng bị bắt nhưng Xứ ủy Nam kỳ vẫn củng cố và lớn mạnh.
Tháng 3-1940, Ban thường vụ Xứ ủy do đồng chí Võ Văn Tần, ủy viên Trung ương Đảng làm bí thư đã vạch ra Đề cương chuẩn bị bạo động đưa các hoạt động lẻ tẻ vào phong trào chống đế quốc Pháp và tay sai, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa.
Cả Nam bộ rạo rực không khí chuẩn bị. Nhiều cuộc biểu tình nổ ra giữa ban ngày. Có nơi, khi bọn mật thám kéo đến bắt cán bộ, nhân dân nổi trống mõ uy hiếp, đánh tháo.
Các đội tự vệ, du kích dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, phát triển ngay ở những xí nghiệp lớn ở Sài Gòn như Ba Son, F.A.C.I, bến tàu, nhà đèn Chợ Quán, trường Bách Nghệ... ở nông thôn phần lớn các xã đều có từ một tiểu đội đến một trung đội du kích.
Làng nào cũng có lò rèn ngày đêm sản xuất vũ khí. Nhân dân góp nồi đồng, mâm thau, lư hương để du kích đúc đạn. Thậm chí xuất hiện cả những cơ sở làm bom, lựu đạn xi măng, súng thô sơ ở Móp Xanh (Tân An), Bà U (Mỹ Tho), chùa Hòa Thượng Đồng (Rạch Giá).
Phong trào chống chiến tranh, chống bắt lính với khẩu hiệu không một người lính, không một đồng xu cho đế quốc chiến tranh diễn ra sôi nổi trong nhân dân và binh lính.
Do công tác binh vận của anh em ráo riết, phần lớn trong số 15.000 binh lính người Việt đóng ở Sài Gòn sẵn sàng phối hợp nổi dậy.
Trước tình hình quần chúng sôi sục và chiến tranh Pháp-Thái sắp nổ ra, tháng 7-1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp mở rộng đã thông qua đề cương chuẩn bị khởi nghĩa do thường vụ Xứ ủy khởi thảo.
Đồng chí Phan Đăng Lưu, đại diện Trung ương Đảng, sau khi dự hội nghị này được cử ra Bắt họp Hội nghị Trung ương lần thứ VII để báo cáo và xin chỉ thị của Trung ương.
Sau khi nghe đồng chí Phan Đăng Lưu báo cáo cặn kẽ việc chuẩn bị khởi nghĩa, Hội nghị Trung ương nhận định điều kiện khởi nghĩa ở Nam Kỳ và trong cả nước chưa chín muồi, vì vậy đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ chưa nên phát động khởi nghĩa. Trung ương cũng phái đồng chí Phan Đăng Lưu quay trở lại để hoãn cuộc khởi nghĩa.
Ngày 22 tháng 10 năm 1940, vừa về đến Sài Gòn, đồng chí Phan Đăng Lưu đã bị bắt. Lệnh khởi nghĩa lúc đó đã phát đi khắp nơi không thể thu hồi lại.
Đáng tiếc hơn nữa, kế hoạch của cuộc khởi nghĩa đã phần nào bị địch đánh hơi thấy trước ít ngày. Tối 22.11.1940, đồng chí Tạ Uyên, bí thư Xứ ủy mới thay đồng chí Võ Văn Tần đã bị bắt từ ít tháng trước và một số đồng chí khác trong Thành ủy Sài Gòn sa lưới mật thám. Đế quốc ra lệnh cấm trại binh lính người Việt và tước vũ khí của số phản chiến. Kế hoạch định lấy tiếng súng đánh chiếm thành phố Sài Gòn vào lúc 24 gờ 22.11.1940 làm súng lệnh không thành!
Mặc dầu vậy, đêm 22 rạng sáng 23 tháng 11 năm 1940 cuộc khởi nghĩa Nam kỳ vẫn bùng nổ với khí thế mạnh mẽ và quy mô lớn chưa từng có.
Nông thôn Nam bộ rung chuyển. Từ Biên Hòa đến Cà Mau, 18 tỉnh nổi dậy cướp chính quyền. ở Mỹ Tho 54 trong số 56 xã được giải phóng. ở Chợ Lớn ta giành được nhiều tổng. ở Tân An, các xã hai bên bờ sông Vàm Cỏ Tây, hữu ngạn Vàm Cỏ Đông đều về tay nhân dân...
Cờ đỏ sao vàng và cờ đỏ búa liềm được kéo lên trước nhà làm việc của chính quyền cách mạng.
Năm 1931, khi bị giam ở Khám lớn Sài Gòn, đồng chí Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng có lần tâm sự: Sau này nước nhà độc lập, ta sẽ lấy quốc kỳ màu đỏ có ngôi sao năm cánh tượng trưng cho năm giới công, nông, binh, trí và thương đoàn kết xung quanh Đảng.
Nhớ lời Anh, các đồng chí ở Mỹ Tho lúc này đã gương cao cờ đỏ sao vàng bên cạnh cờ Đảng trên mái đình Long Hưng, nơi lập chính quyền cách mạng đầu tiên trong tỉnh.
Màu cờ đỏ rực sáng trên những cánh đồng bát ngát của vùng châu thổ chín khúc đầu rồng.
Bọn phản cách mạng bị xét xử. Ruộng, thóc của địa chủ phản động được chia cho dân cày nghèo.
Mặc dù chính quyền cách mạng chỉ giữ được một thời gian ngắn (lâu nhất ở Mỹ Tho giữ được 49 ngày) nhưng cũng như Xô Viết Nghệ Tĩnh ngót 10 năm trước, đó là những ngày hội của quần chúng.
Thực dân Pháp điên cuồng đàn áp, và quan trọng nhất là tiêu diệt chính quyền cách mạng. Máy bay dội bom xuống làng mạc, thôn xóm. Cùng với quần chúng, quân du kích Nam Kỳ đã chiến đấu vô cùng anh dũng.
Tại Hóc Môn (Gia Định) cách Sài Gòn 20km, dưới sự chỉ huy của đồng chí Mười Đen-xứ ủy viên, du kích vây đồn, chặn đánh địch tiếp viện ở Cầu Bông, giết tên ác-Nôn chánh xứ tỉnh Tây Ninh và một số lính, thu 15 súng rồi kéo lên Truông Mít (Tây Ninh).
ở Cần Giuộc, Bến Lức đội du kích của nữ đồng chí Nguyễn Thị Bảy đã làm cho bọn địch kinh sợ phải gọi chị là "Bà Chúa Đỏ"
ở Vũng Liêm (Vĩnh Long) đội du kích của nữ đồng chí Hồng, bí thư quận ủy, cùng quần chúng chiếm đồn địch trong 3 ngày, làm chủ quận l?? Mỹ Tho, hàng ngàn du kích do bí thư tỉnh ủy chỉ huy bức rút II đồn, phá hoại gần 10 km đường bộ, 14 cầu, ngăn 6 con sông, bóc đường sắt Sài Gòn-Mỹ Thọ. Ngày 14 tháng 12 năm 1940 địch phải dùng thủy, lục, không quân tiến công Mỹ Tho nhưng mãi đến 14.1.1941 chúng mới chiếm lại được và đẩy du kích vào Đồng Tháp Mười.
Giặc Pháp khủng bố rất khốc liệt, dã man. Chỉ trong 40 ngày, riêng bốn tỉnh Gia định, Mỹ Tho, Long Xuyên và Cần Thơ có tới 5.640 người bị giặc lấy dây thép xâu tay rồi phơi nắng cho đến chết khô, hoặc chất lên sà lan đưa ra biển nhận chìm...
Tháng 12-1940, Đảng bộ Nam kỳ họp ở Bà Quẹo (Gia Định) quyết định rút lui để tránh tổn thất, đưa lực lượng còn lại xây dựng căn cứ U Minh và Đồng Tháp Mười.
Ngay từ khi được tin Nam Kỳ khởi nghĩa, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra thông báo khẩn cấp, chỉ thị cho các địa phương chia lửa với Nam Kỳ. Từ việc rải truyền đơn, bãi khóa, bãi thị đến việc phát động du kích, nếu có điều kiện phá đường, cầu cống ngăn quân thù đàn áp.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bị dập tắt. Bọn đế quốc vẫn chưa hết hoảng sợ. Một bãi bắn được dựng lên vội vã ngay tại thị trấn Hóc Môn (Gia Định). Ngày 28-8-1941, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam có một cuộc tàn sát quy mô lớn. Các đồng chí lãnh đạo, những người con ưu tú của dân tộc, của Đảng, trong đó có Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai... đã bị giặc Pháp giết. Tấm gương hy sinh dũng cảm của các đồng chí mãi mãi sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Khởi nghĩa Nam kỳ là trang sử oanh liệt của đất Đồng Nai, của miền Nam "đi trước về sau" trên suốt chặng đường cách mạng của đất nước.
Cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ khởi nghĩa là hiệu kèn giải phóng hùng dũng báo hiệu thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Khởi nghĩa Nam Kỳ nêu một tấm gương sáng chói về tinh thần kiên cường bất khuất của nhân dân Việt Nam. Qua trận thử lửa này, quần chúng càng gắn bó với Đảng, càng tôi luyện chí khí cách mạng, củng cố nhận thức: Con đường sống duy nhất của dân tộc là phải dùng bạo lực cách mạng đập tan bạo lực phản cách mạng của bọn đế quốc và phong kiến, giành lại độc lập tự do.
 
Top Bottom