Hồ Chí Minh_Tác giả, tác phẩm!

Status
Không mở trả lời sau này.
C

conu

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Mình cùng thảo luận một chút về tác gia Hồ Chí Minh nha. Mình chưa được học kỹ về Người nên chưa dám bàn nhiều, chỉ muốn nói Người là Vị Lãnh Tụ Vĩ Đại của dân tộc Việt Nam suốt đời vì dân vì nước cho đến lúc nhắm mắt. Những tác phẩm của Người cũng mang nặng một nỗi niềm lo lắng cho dân cho nước, người coi những tác phẩm văn chương là nơi tuyên truyền hữu hiệu tinh thần Cách Mạng cho nhân dân, nhà văn phải là chiến sĩ trên mặt trận là trang giấy. Người coi trọng chất "thép'' trong văn thơ cách mạng, thơ văn và nhà văn phải phục vụ cho kháng chiến:
"Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong"
Mình chưa được học nhiều, mong mọi người chỉ giáo thêm kiến thức về Hồ Chí Minh.

***********************************

Chủ đề này sẽ để các mem vào tham gia và trao đổi các tác phẩm của Hồ chủ tịch kính yêu!
 
C

conu

Đố các bạn biết, tại sao Bác có những tác phẩm đạt tầm quốc tế, nhưng lại có những tác phẩm giản dị, bình thường như lời nói hàng ngày:
Ví dụ như:
Hòn đá to
hòn đá nặng
một người vác
vác ko đặng
Nhưng lại có những tác phẩm bất hủ như tập thơ "Nhật ký trong tù", bản tuyên ngôn độc lập...
Có lẽ vì lý do trên mà có người ko hiểu hết về Bác đã có nhận xét nhầm lẫn: "Bác Hồ viết ko đều tay"
Theo các bạn, lý do của Bác khi viết nên những tác phẩm khác nhau như thế trong sự nghiệp sáng tác của mình là gì???
 
C

crazyfrog

sai rui. Phai la :
Hon da to
Hon da nang
Mot nguoi nhac
Nhac ko dang.

va thuc su thi tat ca cac tac pham cua Nguoi deu co cung chung mot nguyen tac sang tac va cung chung mot muc dich duy nhat do la dau tranh. Chinh vi vay ma du o the loai nao Nguoi cung co y thuc ve doi tuong tiep nhan.
Vi du bai tho hon da la nguoi dung de giao duc cac dong chi va dong bao ta can phai biet doan ket thi moi co the hoan thanh viec lon. Con nhu trong Tuye ngon doc lap thi Nguoi ko nham toi chi nguoi dan dat Viet ma con la nhan dan va du luan the gioi. Chinh vi vay ma co nhung tac pham Nguoi dung giong van gian di va co luc lai la nhung giong van chinh luan chat che.....................................

Co ji thi lien he sau nha..................
 
V

vuonglinhbee

tui nghĩ #

Khi cầm bút sáng tác, Bác luôn đặt ra 1 số câu hỏi, trong đó có: Viết cho ai ? VD như bài thơ về hòn đá đó, đối tượng hướng tới là quần chúng nhân dân --->Bác phải dùng cách diễn đạt gần gũi , thân thuộc và dễ hiểu như vậy. Nhân dân ta có thể truyền miệng 1 bài thơ như thế, và ai cũng hiểu được 1 cách thấu đáo, chứ o cần phải có những kiến thức uyên thâm... gì đó.
Tương tự với trường hợp của tuyên ngôn độc lập
Trên đây là 1 vài ý kiến đóng góp của cá nhân tôi rất mong nhân được sự ủng hộ cũng như phê bình của các bạn!
 
T

tranquang

Có một điều trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh mà anh rất thích. Đó là nội dung tư tưởng luôn hướng đến ánh sáng của lạc quan và tin tưởng vào 1 tương lai tốt đẹp. Cái tài tình trong thơ của Người là sự vận động của thiên nhiên, tạo hóa, để rồi từ đó dẫn mạch tới tình cảm con người. Và còn nhiều điều nữa, trong 1 cảm xúc ngắn thế này có lẽ tôi chỉ nói được từng đấy. vì đấy là nét đặc biệt nhất khi tôi đến với Người.
"Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm trọn non sông, mọi kiếp người"
 
C

conu

Lúc sinh thời, Người đã từng nói:"Viết cho ai, viết để làm gì và mục đích gì..."
Văn thơ Hồ Chí Minh là tuyên truyền cổ động cách mạng, tầng lớp chủ yếu trong xã hội lúc ấy là nông dân, 90% dân số ta mù chữ, cho nên nói ko được trừu tượng, xa vời người ta sẽ ko hiểu, ko hiểu thì tuyên truyền nỗi gì, nên Người viết cho đa số tầng lớp nhân dân thời đó nghe phải nói một cộng một bằng hai thì Người ta sẽ hiểu, người ta thấy thế là đúng, thế là chân lý thì người ta mới đi theo mình mà kháng chiến. Còn những bài thơ xuất thần là Người viết cho dư luận thế giới nghe, viết phải sắc sảo, chắc chắn thì mới tác động đến những người có học thức, thứ hai là Người viết để chia sẻ cùng thơ nỗi lòng thời cuộc nên những bài như thế của Người đạt tới đỉnh cao.
 
C

caudansoidoi

Nói chung là trong thơ văn của Bác đều là "ý tại ngôn ngoại". Dù chỉ là một bài thơ 4 câu nhưng đó là tâm tư, tình cảm mà Bac gửi gắm ở trong đó. Xin được dùng câu của bạn vuonglinhbee "vì một lẽ thường tình: Bác là Hồ Chí Minh!"
 
T

tranquang

Tân xuất ngục, học đăng sơn (Mới ra tù, tập leo núi)


--------------------------------------------------------------------------------

Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang tâm như kính, tịnh vô trần,
Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân


Hồ Chí Minh

“Nhật ký trong tù” gồm có 133 bài thơ, phần lớn là thơ tứ tuyệt. Bài thơ “Mới ra tù, tập leo núi” không nằm trong số 133 bài thơ ấy. Một số tài liệu cho biết, ngày 10/9/1943, tại nhà giam Liễu Châu, Hồ Chí Minh đã giành được tự do. Ra tù, chân yếu, mắt mờ, tóc bạc. Người đã kiên trì tập luyện để phục hồi sức khỏe. Tập leo núi, và khi leo đến đỉnh núi, Bác cao hứng viết bài thơ này. Bài tứ tuyệt “Mới ra tù, tập leo núi” được Bác Hồ viết vào rìa một tờ báo Trung Quốc, kèm theo dòng chữ: “Chúc chư huynh ở nhà mạnh khỏe và cố gắng công tác. Ở bên này bình yên”. Ngoài mục đích bí mật nhắn tin về nước, bài thơ thể hiện một tình yêu nước và thương nhớ đồng chí, bạn bè của Hồ Chủ tịch.

Hai câu đầu là hai câu thơ tuyệt bút tả cảnh sơn thủy hữu tình. Có mây, núi ôm ấp quấn quýt. Có lòng sông như tấm gương trong, không gợn một chút bụi nào! Câu thơ dịch khá hay:

“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng bụi không mờ”

Ba nét vẽ chấm phá đã lột tả được cái hồn cảnh vật. Nghệ thuật sử dụng điệp ngữ, nhân hóa và so sánh đã làm hiện lên phong cảnh sơn thủy hùng vĩ và hữu tình. Bức tranh sơn thủy được miêu tả ở tầm cao và xa, đậm đà màu sắc cổ điển. Trong bối cảnh lịch sử bài thơ ra đời, hình ảnh mây, núi, lòng sông mang hàm nghĩa sâu sắc, tượng trưng cho tâm hồn trong sáng, cao cả và thủy chung của con người.

Hai câu 3, 4 thể hiện một tâm trạng rất điển hình của người chiến sĩ cách mạng đang ở nơi đất khách quê người. Từ Tây Phong Lĩnh (Liễu Châu) đến Nam thiên là muôn dặm xa cách. Vừa leo núi, dạo bước mà lòng bồi hồi, bồn chồn, không yên dạ. Leo núi đến tầm cao rồi ngóng nhìn xa (dao vọng) trời Nam, quê hương đất nước mà lòng xúc động “nhớ bạn xưa” (Ức cố nhân):

“Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh
Trông lại trời Nam nhớ bạn xưa”

Ngôn ngữ thơ trang trọng, giàu biểu cảm, mỗi chữ là một nét, một mảnh tâm hồn của người chiến sĩ vĩ đại. “Bồi hồi”, “dao vọng”, “Nam thiên”, “ức cố nhân”… đó là tấm lòng của một con người nặng tình non nước “Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước – Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà”… (Chế Lan Viên).

Ức hữu, ức cố nhân,… là cảm xúc đằm thắm được diễn tả trong nhiều bài thơ “Nhật ký trong tù”. Lúc thì “Nội thương đất Việt cảnh lầm than” (ốm nặng). Khi thì “Nghìn dặm, bâng khuâng hồn nước cũ – Muôn tơ vương vấn một sầu nay” (Đêm thu).

Tóm lại, “Mới ra tù, tập leo núi” là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Tình yêu thiên nhiên gắn liền với tình yêu đất nước sâu nặng. Hàm súc và mầu sắc cổ điển là vẻ đẹp của bài thơ. Sắc điệu trữ tình trong thơ Hồ Chí Minh như dẫn hồn ta ngược thời gian nhớ một vần thơ Kiều tuyệt bút, lóng ta mãi rung động bồi hồi:

“Bốn phương mây trắng một màu,
Trông vời Tổ quốc biết đâu là nhà”

Thầy: Phú Khánh
(Copyright từ tramngan)
 
T

tranquang

Vãn cảnh (Cảnh chiều hôm)


--------------------------------------------------------------------------------

Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ,
Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình;
Hoa hương thấu nhập lung môn lý,
Hướng tại lung nhân tố bất bình.


Hồ Chí Minh

Bài “Thanh minh” là bài thơ số 113; B “Vãn cảnh” là bài thơ số 114. Đọc “Nhật ký trong tù” ta biết Hồ Chí Minh viết bài thơ này vào mùa xuân 1943, khi Người bị giam giữ tại “nhà giam của Cục Chính trị” ở Liễu Châu, Trung Quốc.

Bài thơ nói về hoa hồng, thể hiện một tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp với khát vọng tự do cháy bỏng. Lúc bấy giờ, Bác Hồ đang sống trong tâm trạng: “Thơ tù ta viết hơn trăm bài rồi – Xong bài, gác bút nghỉ ngơi – Nhòm qua cửa ngục, ngóng trời tự do”.

Hai câu đầu bài “Cảnh chiều hôm” nói về chuyện hoa hồng nở và tàn. Hoa đẹp, quý vô cùng, thế mà hoa nở cũng chẳng ai hay, hoa tàn cũng chẳng ai biết. Hoa nở và tàn đều bị chìm trong quên lãng. Ai là kẻ đã “vô tình” với hoa? Câu thơ dịch khá sát nghĩa, tuy câu hai có đảo trật tự ngôn ngữ thơ trong bản chữ Hán:

“Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng,
Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình”

Nhà thơ vốn yêu hoa như ngầm nhắc nhở mình (và mọi người) không thể vô tình với hoa nở, cũng không nên vô tình với hoa tàn. Trong thơ cổ, hoa nói chung cũng như hoa hồng là hình ảnh của giai nhân, của tài sắc trong cuộc đời. Hoa nở, vẻ đẹp phô bày. Hoa tàn, sắc đẹp mất đi. Một đời hoa sớm nở tối tàn thật đáng thương, đáng tiếc. Có lúc vì cuộc đời lận đận, bận bịu mà “Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình” (“Thơ tiếc cảnh – bài 4, Quốc âm thi tập). Có lúc, tài sắc bị dập vùi, bị lãng quên thì hoa cũng như người đều mang hận, nỗi đau thấm thía vô hạn. Một cánh hoa bay đi vì gió xuân đã mất đi ít nhiều vẻ đẹp. Một đoá hoa rụng, nỗi hận như thấm vào lòng người và trời đất: “lạc hoa tương dữ hận – Đáo địa nhất vô thanh” (Hoa rụng cùng chia hận - Tới đất không tiếng kêu) – Vi Thừa Khanh, đời Đường.

Hoa hồng trước cửa ngục, chiều nay đã tàn rồi, nhưng hương hoa – linh hồn hoa vẫn bay đi. Hương hoa đã tìm được người yêu hoa mà thổ lộ nỗi đau, nỗi bất bình của kiếp hoa:

“Hương hoa bay thấu vào trong ngục,
Kể tới tù nhân nỗi bất bình”.

Hạnh phúc phải được san sẻ. Nỗi đau lại càng cần được san sẻ, cảm thông hơn bao giờ hết. Hương hoa bay vào tận trong ngục, tìm đến với tù nhân để “tố bất bình”. Hoa với người đã có sự cảm thông. Tù nhân vốn yêu hoa, vì bị giam trong ngục, bị tước đoạt mất tự do, nên lúc hoa nở, khi hoa tàn đều không biết, đều chẳng hay. Ngục tối lạnh lẽo đã ngăn cách đôi bạn tri âm. Hương hoa được nhân hóa. Cuộc đối thoại, giữa hương hoa với thi nhân là sự thể hiện tài tình lòng yêu thiên nhiên với khát vọng tự do, là thái độ lên án cảnh bắt giam người một cách vô cớ, giày xéo lên tâm hồn người.

“Vãn cảnh” là một bài thơ thâm trầm, đa nghĩa. Hình tượng hương hoa nói lên một hồn thơ vừa cổ điển, vừa mới mẻ: Con người cần được sống trong tự do để yêu thương và quý trọng cái đẹp trong thiên nhiên và trong cuộc đời.

Thầy: Phú Khánh
Copyright từ tramngan)
 
T

tranquang

Tảo giải (Giải đi sớm)


--------------------------------------------------------------------------------

I

Nhất thứ kê đề dạ vị lan,
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san;
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.

II

Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất không;
Noãn khí bao la toàn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng


Hồ Chí Minh

Tảo giải (Giải đi sớm) là chùm thơ 2 bài 42, 43 trong “Ngục trung nhật ký” của Hồ Chí Minh. Trên đường chuyển lao từ Long An đến Đồng Chính, Hồ Chí Minh viết chùm thơ này. Như một trang ký sự của người đi đày thế nhưng đằng sau cảnh sắc thiên nhiên hé lộ một hồn thơ khoáng đạt, mạnh mẽ và tự tin, yêu đời.

Bài I, ngay câu đầu ghi lại thời điểm chuyển lao: “Gà gáy một lần, đêm chửa tan”. Đó là lúc nửa đêm về sáng. Chỉ có chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi thu. Trăng sao được nhân hóa như cùng đồng hành với người đi đày. Cái nhìn lên bầu trời trong cảnh khổ ải thể hiện một tâm thế đẹp. Hai câu 3, 4 nói về con đường mà tù nhân đang đi là con đường xa (chinh đồ). Gió thu táp vào mặt từng cơn từng cơn lạnh lẽo. Trong câu thơ chữ Hán, chữ “chinh” chữ “trận” được điệp lại hai lần (chinh nhân, chinh đồ; trận trận hàn), làm cho ý thơ rắn rỏi, nhịp thơ mạnh mẽ. Nó thể hiện một tâm thế rất đẹp. Mặc dù áo quần tả tơi, thân thể tiều tụy nhưng người chiến sĩ vĩ đại vẫn đứng vững trước mọi thử thách nặng nề: đêm tối, đường xa, gió rét…

Bài II, nói về cảnh rạng đông. Cái lạnh lẽo, cái u ám của đêm thu còn rơi rớt lại chốc đã bị quét hết sạch. Phương đông từ màu trắng đã thành hồng. Hơi ấm tràn ngập đất trời, vũ trụ. Trước một không gian bao la có màu hồng, có hơi ấm của rạng đông, “chinh nhân” (người đi xa) đã hóa thành “hành nhân” (người đi). Hình như mọi đau khổ bị tiêu tan trong khoảnh khắc. Người đi đày đã trở thành con người “tự do”, thi hứng dâng lên dào dạt nồng nàn. Niềm vui đón cảnh rạng đông đẹp và ấm áp. Một đêm lạnh lẽo đã trôi qua. Tứ thơ vận động từ tối qua rạng đông tráng lệ, từ lạnh lẽo đến hơi ấm. Người đọc có cảm giác nhà thơ đi đón bình minh, đón ánh sáng và niềm vui cuộc đời.

Chùm thơ “Tảo giải” cho thấy tinh thần chịu đựng gian khổ làm chủ hoàn cảnh và phong thái ung dung, lạc quan yêu đời của nhà thơ Hồ Chí Minh trong cảnh đọa đầy. “Tảo giải” là bài ca của người đi đày, hàm chứa chất “thép” thâm trầm, sâu sắc mà “không hề nói đến thép, lên giọng thép”.

Thầy: Phú Khánh
(Copyright từ tramngan)
 
T

tranquang

MỘ

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Hồ Chí Minh

“Mộ” (Chiều tối) bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 31. Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Sau một ngày dài bị giải đi, trời tối dần. Hai câu đầu tả cảnh bầu trời lúc chiều tối. Cánh chim mỏi (quyện điểu) về rừng tìm cây trú ẩn. Áng mây lẻ loi, cô đơn (cô vân) trôi lững lờ trên tầng không. Cảnh vật thoáng buồn. Hai nét vẽ chấm phá (chim và mây), lấy cái nhỏ bé, cái động để làm nổi bật bầu trời bao la, cảnh chiều tối lặng lẽ và buồn. Cánh chim mỏi và áng mây cô đơn là hai hình ảnh vừa mang tính ước lệ trong thơ cổ tả cảnh chiều tối, vừa là hình ảnh ẩn dụ về người tù bị lưu đày trên con đường khổ ải mờ mịt vạn dặm:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

Trời tối rồi, tù nhân bị giải đi qua một xóm núi. Có bóng người (thiếu nữ). Có cảnh làm ăn bình dị: xay ngô. Có lò than đã rực hồng (lô dĩ hồng). Các chi tiết nghệ thuật ấy làm hiện lên một mái ấm gia đình, một cảnh đời dân dã, bình dị, “ấm áp”. Nếu chim trời, áng mây chiều đồng điệu với tâm hồn nhà thơ thì cảnh xay ngô của thiếu nữ và lò than rực hồng kia như đang làm vợi đi ít nhiều nỗi đau khổ của người đi đày khi qua nơi miền sơn cước xa lạ. Tương phản với màn đêm bao trùm không gian, cảnh vật là “lò than đã rực hồng”. Tứ thơ vận động từ bóng tối hướng về ánh sáng. Nó cho ta thấy, trong cảnh ngộ cô đơn, nặng nề, bị tước mất tự do, bị ngược đãi, người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn gắn bó, chan hòa, gần gũi với nhịp đời thường cần lao. Câu thơ thứ 3 dịch chưa được hay. Chữ “cô em” hơi lạc điệu. Thêm vào một chữ “tối” đã mất đi ý vị “ý tại ngôn ngoại” vẻ đẹp hàm súc của thơ chữ Hán cổ điển:

“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”

Bài thơ có cảnh bầu trời và xóm núi, có áng mây, cánh chim chiều. Chim về rừng, mây lơ lửng. Có thiếu nữ xay ngô và lò than hồng. Đằng sau bức tranh cảnh chiều tối là một nỗi niềm buồn, cô đơn, là một tấm lòng hướng về nhân dân lao động, tìm thấy trong khoảnh khắc chiều tối. Nghệ thuật mượn cảnh để tả tình. Điệu thơ nhè nhẹ, man mác bâng khuâng, đậm đà màu sắc cổ điển. Tinh tế trong biểu hiện, đậm đà trong biểu cảm là vẻ đẹp trữ tình của bài thơ “Chiều tối” này… Rất nhân hậu, rất người.

Thầy: Phú Khánh
(Copyright từ tramngan)
 
T

tranquang

Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc ta, thể hiện phong cách chính luận của Hồ Chí Minh


--------------------------------------------------------------------------------

1. Cùng với bài thơ “Sông núi nước Nam” của Lý Thường Kiệt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, bản “Tuyên ngôn độc lập”, phản ánh đúng diện mạo tinh thần và truyền thống chống xâm lăng của dân tộc Việt Nam trong trường kỳ lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước.

2. Một lối viết ngắn gọn (950 từ). Có câu văn 9 từ mà nêu đủ nêu đúng một cục diện chính trị: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Những bằng chứng lịch sử về 10 tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta là không ai chối cãi được. Sử dụng điệp ngữ tạo nên những câu văn trùng điệp đầy ấn tượng: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Cách dùng từ sắc bén: “cướp không ruộng đất”, “giữ độc quyền in giấy bạc”, “quỳ gối đầu hàng… rước Nhật”, thoát ly hẳn… xoá bỏ hết… xoá bỏ tất cả…”. Hoặc “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, v.v…

Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay/ một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay → dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” Một luận điểm, một lý lẽ được trình bày bằng 2 luận cứ, dẫn đến 2 kết luận khẳng định được diễn đạt trùng điệp, tăng cấp.

Tóm lại, “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh góp phần làm giàu đẹp lịch sử và nền văn học dân tộc, tô thắm tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta./.
 
T

tranquang

Tiếp về "Tuyên ngôn độc lập"

1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là những quyền không ai có thể xâm phạm được; người ta sinh ra phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.

Hồ Chủ Tịch đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, trước hết là để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại, sau nữa là “suy rộng ra…” nhằm nêu cao một lý tưởng về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của các dân tộc trên thế giới.

Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ.

Cách mở bài rất hay, hùng hồn trang nghiêm. Người không chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta, mà còn tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến 2 vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, nhất là các nước trong phe Đồng minh, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc địa của Đờ Gôn và bọn thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.

2. a. Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp.

- Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”.

- Năm tội ác về chính trị: 1- tước đoạt tự do dân chủ, 2- luật pháp dã man, chia để trị, 3- chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta, 4- ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân, 5- đầu độc bằng rượu cồn, thuốc phiện.

- Năm tội ác lớn về kinh tế: 1- bóc lột tước đoạt, 2- độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng, 3- sưu thuế nặng nề, vô lý đã bần cùng nhân dân ta, 4- đè nén khống chế các nhà tư sản ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân ta, 5- gây ra thảm họa làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói năm 1945.

- Trong vòng 5 năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã “bán nước ta 2 lần cho Nhật”.

- Thẳng tay khủng bố Việt Minh; “thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.

b. Quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta

- Từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật hàng Đồng minh.

- Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.

- Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn chấm dứt và xoá bỏ.

- Trên nguyên tắc dân tộc bình đẳng mà tin rằng các nước Đồng minh “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”:

“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập.

Phần thứ hai là những bằng chứng lịch sử không ai chối cãi được, đó là cơ sở thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập được Hồ Chí Minh lập luận một cách chặt chẽ với những lí lẽ đanh thép, hùng hồn.

3. Lời tuyên bố với thế giới

- Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập (từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên)

- Nhân dân đã quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (được làm nên bằng xương máu và lòng yêu nước).

Thầy: Phú Khánh
 
T

tranquang

Anh sẽ cố gắng đưa các tài liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh để các mem tham khảo. Hi vọng nếu mem nào có ý kiến đóng góp, có tài liệu để xây dựng topic riêng về Hồ Chí Minh hãy nhiệt tình tham gia nhé?
Chúng ta cũng sẽ có các box tương tự về tác giả, tác phẩm mà trong chương trình THPT đề cập đến (Văn học Việt Nam thui)
 
C

conu

Khi học Văn thơ Hồ Chí Minh, ta chú ý đến 3 mảng trong sự nghiệp Văn thơ của người:
Thơ
Văn chính luận
Văn nghệ thuật
Văn nghệ thuật hay văn chính luận gọi chung là Văn xuôi, văn xuôi của người có tính luận chiến rất cao, nhiều tác phẩm đạt đến mẫu mực của thế Văn chính luận.
Thơ Hồ Chí Minh gồm hai mảng nhỏ:
Thơ nghệ thuật
Thơ tuyên truyền Cách Mạng
Thơ tuyên truyền thì như những lời nói bình dị giữa đời thường, khơi dậy trong quần chúng nhân dân ngọn lửa nhiệt tình cách mạng.
thơ nghệ thuật quan tâm chủ yếu đến tập NKTT, có trong chương trình học. Thể thơ tứ tuyệt, ngắn gọn, hàm súc, giàu chất thép, kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại.
 
C

conu

Anh Phát đã có dạng bài phân tích của thi phẩm Mộ, mình sẽ bổ sung phần đề và bài bình giảng bài thơ này để các bạn tiện đối chiếu. (khi thi ĐH chắc chắn sẽ có 1 câu yêu cầu bình giảng đấy, mà nhiều bạn chưa nắm vững dạng làm Văn này):

Bình giảng bài thơ “Mộ ” (Chiều tối) trong “Nhật ký trong tù” của nhà thơ Hồ Chí Minh.

BÀI LÀM

“Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh được viết từ 29-8-1942 đến 10-9-1944, khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ, đầy đoạ khắp các nhà lao tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong số 133 bài thơ “Nhật ký trong tù” có một bài ghi lại những thời khắc đáng nhớ trong ngày: buổi sớm, Buổi trưa, Quá trưa, Chiều hôm, Chiều tối, Hoàng hôn, Nửa đêm… Mỗi bài là một nỗi niềm trong những tháng ngày “ác mộng”.

“Chiều tối” (Mộ) là bài thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong “Nhật ký trong tù”. Bài thơ số 32 là bài “Đêm ngủ ở Long Tuyền”. Vậy, bài “Chiều tối” ghi lại cảnh xóm núi lúc ngày tàn trên con đường từ Thiên Bảo đến Long Tuyền vào tháng 10-1942.

Đây là nguyên tác bài thơ:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc mà hoàn lô dĩ hông”.

Một cái nhìn man mác, một thoáng ước mơ thầm kín về một mái ấm, một chỗ dừng chân… của nhà thơ trên con đường lưu đày khổ ải muôn dặm, được hé lộ qua bài thơ, đọc qua tưởng như chỉ tả cảnh chiều tối nơi xóm núi xa lạ.

Hai câu đầu tả bầu trời lúc ngày tàn. Hai nét vẽ “động”: cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) bay về rừng xa, tìm cây trú ẩn, một áng mây cô đơn, lẻ loi (cô vân) đang lửng lơ trôi (mạn mạn). Cấu trúc 2 câu đăng đối, âm điệu nhf nhẹ, thoáng buồn. Người chiến sĩ bị lưu đày ngước mắt nhìn bầu trời, dõi theo cánh chim bay và áng mây trôi nhẹ mà lòng man mác. Rất tinh tế, nét vẽ ngoại cảnh này đã thoáng hiện tâm cảnh. Câu thơ dịhc của Nam Tran tuy chưa thực hiện được chữ “cô” trong “cô vân” nhưng khá hay:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không”.

Hai cau thơ 1, 2 mang vẻ đẹp cổ điển: tả ít mà gợi nhiều, chỉ 2 nét phác hoạ (chim bay, mây trôi) mà gợi lên cái hồn cảnh vật, ngày tan, màn đêm buông xuống dần, tạo vật như đang chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi, mệt mỏi. Nghệ thuật lấy điểm vẽ diện, lấy động tả tĩnh được vận dụng sáng tạo. Nhìn chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối ở xóm núi này còn mang tính ước lệ, nó mở rộng liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ trong tâm hồn mỗi chúng ta,… Nhớ về một cánh chim chiều trong “Truyện Kiều”: “Chim hôm thoi thót về rừng”; nhớ đến một cánh chim bay mỏi và hình ảnh người lữ thứ trong chiều sương lạnh nhớ nhà:

“Ngày mai gió cuốn, chim bay mỏi

Dặm liễu sướnga, khách bước dồn”. (Chiều hôm nhớ nhà)

Trở lại bài “Chiều tối”, áng mây cô đơn le loi đang lơ lửng, trôi nhẹ trên bầu trời là hình ảnh ẩn dụ về người lưu đày trên con đường khổ ải xa lắc? Ngôn ngữ thơ hàm súc, biểu cmr, vừa tả cảnh vừa tả tình, thoáng nhẹ mà đầy ấn tượng, dư ba.

Tiếp theo hai câu cuối 3,4 - từ cảnh bầu trời tác giả nói về cuộc sống con người nơi xóm núi. Thiếu nữ và lò than hồng là trung tâm của bức tranh này:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.

Một nét vẽ trẻ trung, bình dị, đáng yêu: Thiếu nữ xóm núi đang xay ngô. Ba chữ “ma bao túc” ở cuối câu 3 được láy lại “bao túc ma hoàn…” ở đầu câu 4, vừa tả động tác nhịp nhàng xay ngô, vừa diễn tả sự chuyển động vòng tròn của cái cối đá xay ngò thủ công. Đức tính cần mẫn của thiếu nữ xóm núi được cảm nhận và trân trọng. Nghệ thuật diệp ngữ đa làm cho thơ liền mạch và giàu có về nạhc điệu. Câu thơ dịch: “Cô em xóm núi xay ngô tối”, với 2 chữ “cô em” đã làm lạc phong cách Hồ Chí Minh; chữ “tối” thêm vào đã làm cho ý thơ bị lộ; còn đâu nữa ý tại ngôn ngoại trong bài thơ chữ Hán này?J

Sự vật như nối tiếp theo dòng chảy thời gian mà xuất hiện: Khi ngô xay xong thì lò than đã rực hồng, sáng bừng lên, vô cùng ấm áp. Khi màn đêm đã bao phủ mịt mùng, lò than đỏ rực lên, cảnh vật ấy thu hút tâm trí người tù đang bị giải đi. Buồn biết bao cảnh bếp lạnh tro tàn? Ấm áp biết bao một ngọ đèn, một bếp hồng trong đêm lạnh. Hình ảnh thiếu nữ xóm núi xay ngô và lò than rực hồng tượng trưng cho một mái ấm đoàn tụ gia đình, nó đã làm vợi đi bao nỗi cô đơn, tĩnh mịch. Hướng về một cảnh sinh hoạt dân dã bình dị: thiếu nữ xay ngô, dõi nhìn bếp lửa, lò than rực hồng, khi chân tay mang nặng xích xiềng, bị giải đi trong chiều tối, Bác đã tìm thấy nơi nương tựa tâm hồn mình. Hình như nỗi cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo bị xua tan. Một thoáng ước mơ thầm kín về một mái ấm gia đình đã đến với nhà thơ trên con đường đi đày xa xứ khi màn đêm buông xuống. Hai nét vẽ về thiếu nữ xay ngô và lò than rực hồng là hai nét vẽ bình dị, ấm áp, khoẻ và trẻ trung, làm cho thơ Bác có sự hoà hợp giữa màu sắc cổ điển và chất hiện đại, trẻ trung bình dị.

Nhiều bài thơ khác cho thấy trên con đường khổ ải, lưu đày, người chiến sĩ cách mạng trong “Nhật ký trong tù” hầu như ít cảm thấy cô đơn, tâm hồn luôn luôn gắn bó với nhịp sống, làm chủ hoàn cảnh và lạc quan yêu đời. Trong cảnh “Hoàng hôn” gió rét căm căm, vượt lên gian khó. Người xúc động hướng tới một tiếng chuông chùa, một tiếng sáo mục đồng mà mạnh bước:

“Gió sắc tựa gươm mài đá núi,

Rét như dùi nhọn chích cành cây;

Chùa xa chuông giục người nhanh bước,

Trẻ dẫn trâu về tiếng sao bay”.

Có lúc trong cảnh bị cùm trói “Thừa cơ rét rệp xông vào đánh” mà Người vẫn “thoát ngục” tìm được một chút niềm vui nâng đỡ tâm hồn mình: “Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần” (Đêm ngủ ở Long Tuyền). Điều đó cho thấy, sự sống và tự do là khát vọng của Người. Thiên nhiên và con người hiện diện trong thơ Bác bằng những nét vẽ đẹp bình dị, đáng yêu, đó là sự sống mà Bác gắn bó, mến yêu suốt đời.

“Chiều tối” - một bài thơ đáng yêu: màu sắc cổ điển hàm súc kết hợp với tính chất trẻ trung, hiện đại, bình dị. Tứ thơ vận động từ cảnh đến tình, từ trong bóng tối đến sự sống, đến ánh sáng và tương lai. Nét vẽ tinh tế, thể hiện một hồn thơ “bát ngát tình”. Bài thơ thấm đượm một tình yêu mênh mông đối với tạo vật và con người. Trong đoạ đầy gian khổ, tâm hồn Bác vẫn dào dạt sự sống.
 
S

sweetnightmare

Cô giáo tôi nói phân tích thơ văn Hồ Chí Minh chỉ cần bám sát các yếu tố : "Đấy là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố" :
-"cổ điển - hiện đại"
-"chất thơ - chất thép"(sgk)
-"bản chất chiến sĩ - tâm hồn nghệ sĩ"
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nói một câu mà tôi nhớ không chính xác nhưng đại ý là : Đã có rất nhiều tác phẩm bình giảng thơ văn của ct Hồ Chí Minh, của nhiều tác giả, học hành cũng lắm; nhưng cũng có không ít những bài "lệch hướng" làm cho thế hệ sau hiểu sai vấn đề....
Nên nói tóm lại, khi phân tích tác phẩm của Người, ta cần cân nhắc thận trọng, và việc bám sát những yếu tố trên theo tôi là cần thiết.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Top Bottom