giải thích câu nói của Bác. cần gấp mai nộp rùi

V

vuiva

Cốt lõi của Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trước hết là đoàn kết vì đại nghĩa, đoàn kết trong Đảng để đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế. Trên cơ sở đó Người kêu gọi mọi người càng đoàn kết nhau lại thành một khối để chống lại kẻ thù chung. Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: ''...đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm, hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi''.
Đấu tranh nhằm xóa bỏ nỗi nhục mất nước cũng như nỗi nhục nghèo nàn và lạc hậu ở một nước như Việt Nam, Hồ Chí Minh hiểu cần phải thức tỉnh lương tri của tất cả mọi người, tất cả các tôn giáo trên cơ sở đại đoàn kết, tập hợp họ thành một khối thống nhất để dựng nước và giữ nước. Người mong muốn nhân dân của Người dù có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng, dù thuộc các tôn giáo khác nhau, đều trước hết thấy mình là con Rồng, cháu Lạc, phải có trách nhiệm với cộng đồng, với những người đã khuất, với tổ tiên.
Vì thế, ngay từ năm 1924, Người đã nói: ''Chủ nghĩa dân tộc là một động lực to lớn của đất nước''. Trong tư tưởng Người, dân tộc được xác định trên lập trường của giai cấp công nhân, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đó là ''Chủ nghĩa dân tộc hướng tới chủ nghĩa Cộng sản”. Ngoài ra, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết còn có nguồn gốc sâu xa từ truyền thống, từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó là truyền thống “Nhiễu điều phủ lấy giá gương; người trong một nước phải thương nhau cùng”. Vì thế, năm 1942, ngay sau khi về nước lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã viết: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi dưới ngọn cờ Việt Minh để đánh đuổi Tây - Nhật, khôi phục lại độc lập tự do”.
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Đó là cái bảo đảm chắc chắn nhất cho cách mạng thắng lợi. Người cho rằng: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lục lượng đoàn kết của nhân dân”. Và “Đại đoàn kết là một lực luợng tất thắng. Nhờ đại đoàn kết mà cách mạng đã thắng lọi, kháng chiến đã thành công. Nay chúng ta đại đoàn kết thì cuộc đấu tranh chính trị của chúng ta nhất đánh thắng lợi, nước nhà nhất định thống nhất”. Chính vì thế, ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (VNDCCH) ra đời, dù bận “trăm công, nghìn việc”, vừa phải lo chống giặc đói, giặc ***, lại phải lo thắng giặc ngoại xâm, Người rất quan tâm tới các tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ chức tôn giáo. Ngày 3/9/1945, tức chỉ một ngày sau khi tuyên bố độc lập, Người đã có chương trình kế hoạch tiếp các tổ chức đoàn thể (như các báo Việt, Trưng, văn hóa giơi, công giới, thương giới, Công giáo, Phật giáo, nông hội, nhi đồng, thanh niên...). Cũng trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lân thời (bàn về những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước VNDCCH), Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách phải làm, trong đó Người nhấn mạnh vấn đề thứ 6 là: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo (Thiên chúa giáo) và đồng bào Lương (Phật giáo), để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”.
Suốt cuộc đời mình, không lúc nào Hồ Chí Minh không chú ý đến những hành vi tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào. Người đã chú ý đến phong tục tập,quán của người dân khi trở về Pắc Bó, thậm chí tự tay vẽ hình ảnh Đức Phật và dựng ngôi chùa để đồng bào không phải đi xa làm lễ. Người cũng gửi nhiều thư và điện đến các vị giám mục, linh mục để vận động tinh thần yêu nước của đồng bào Công giáo. Người cũng còn gửi thư đến các ông lang, ông đại, biểu dương công trạng và tinh thần tham gia kháng chiến của đồng bào miền núi Hòa Bình.
Không chỉ với các đồng bào có đạo và không có đạo, với các đoàn thể, các Đảng dân chủ và xã hội, cũng được Người quan tâm để phát huy tốt vai trò của các tổ chức này trong việc động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến và thực hiện đại đoàn kết toàn dân. Có thể nói rằng, “Hồ Chí Minh đã nhận rõ cơ sở khách quan của khối đại đoàn kết dân tộc và tin tưởng vào đồng bào dù có tôn giáo hay không có tôn giáo. Người kêu gọi phải đoàn kết, không phân biệt tôn giáo, Đảng phái, già ,trẻ, gái trai... “Đoàn kết là chiến lược lâu dài chứ không phải là sách lược tạm thời”. Người là hiện thân, là ngọn cờ của khối đại đoàn kết dân tộc. Người đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự củng cố khối đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công-nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo, nhằm tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp, mọi Đảng phái, mọi tôn giáo, dân tộc để bao vây, cô lập kẻ thù, phá tan chính sách của chúng, để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Người luôn nhắc nhở: “... đối với các đoàn thể khác cùng dân chúng, chỉ có một chính sách là đại đoàn kết”. Thậm chí, trước lúc đi xa, trong di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Rõ ràng là, tư tưởng về đoàn kết của Hồ Chí Minh một khi trở thành chiến lược của cách mạng Việt Nam đã tạo nên một sức mạnh vô địch để dân tộc ta “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vuợt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Đó là sức mạnh của đoàn kết toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại để đưa dân tộc tiến tới “độc lập, tự do, hạnh phúc”. Vì thế, có thể khẳng định rằng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi là một thành công lớn của Hồ Chí Minh. Người đã tập hợp được những tổ chức cách mạng chân chính về một mối, quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc, tranh thủ được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng được tình đoàn kết quốc tế. Đó là kết quả của nhà tổ chức vĩ đại Hồ Chí Minh, biến khẩu hiệu nổi tiếng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công” thành hiện thực, thành sức mạnh tinh thần, trí tuệ, thành sức mạnh vật chất cực kỳ to lớn đánh thắng những thế lực thù địch hung bạo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn kết mãi là một lực lượng to lớn của dân tộc Việt Nam. Đoàn kết là một lực lượng vô địch. (st)
 
N

nice_vk

Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,

Thành công, thành công, đại thành công

Dân gian có câu chuyện rất hay về tinh thần đoàn kết: Câu chuyện bó đùa. Câu chuyện như một lời giải thích, một sự chứng minh cụ thề đầy sức thuyết phục về tinh thần đoàn kết; Đoàn kết là kết hợp các phần tử lẻ tẻ hoặc nhiều bộ phận lại thành một khối thống nhất . Từ sự đoàn kết, gắn bó trong gia đình, câu chuyện có ý nghĩa xã hội sâu Sắc. Bác Hồ, trong lời kêu gọi của mình, nhấn mạnh toàn dân phải doàn kết, đoàn kết rộng rãi, đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết thực sự. Tức là, toàn dân phải muôn người như một, đồng tâm, đồng sức, trong cuộc sống hàng ngày, trong xâu dựng và đấu tranh. Thành công là đạt được kết qua, đạt được ý muốn, đạt được cái mình đã đề ra. Trong cuộc sống, trong đâu tranh xây dựng và giữ gìn đất nước, nếu đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh và sẽ giành được thắng lợi to lớn, rực rỡ.

Sở dĩ đoàn kết sẽ dẫn đến thành công, thắng lợi to lớn vì đoàn kết thì sẽ tập hợp được đông đảo quần chủng, phát huy được sức mạnh, tiềm năng to lớn của quần chúng, tạo nên sức mạnh vĩ đại có thể dời non, lấp biển, có thể đập tan mọi lực lượng thù địch trong cuộc đấu tranh xã hội. Đoàn kết là đường lối chiến lược duy nhất đúng, phá tan được âm mưu chia rè của kẻ thù.

Trong lao động sản xuất, nhờ đoàn kết, chung sức người xưa mới có thể chống lại các thế lực tàn phá của thiên nhiên thời buổi hoang sơ giữa sóng gầm, bão tố, giũra mịt mùng, âm u của núi rừng. Càng phát triển, con người nhờ đoàn kết mới đú sức lao động, đủ khả năng để làm nhiều công trình to lớn, giải quyết nhiều vàn đề do thực tế sản xuất, nghiên cứu khoa học đề ra.

Lời dạy của Bác Hồ đã được thực tế chứng minh, khẳng định sự đúng đắn của chân lí cuộc sống: đoàn kết là sức mạnh. Lịch sừ chống ngoại xâm của dân tộc ta từ hàng ngàn năm nay còn ngời sáng tinh thần đoàn kết toàn dân của Hội nghị Diên Hồng đời Trần. Vua Trần anh minh nhân từ, Tiết chế quốc công Hưng Đạo Vương tài ba đã dựa vào tinh thần toàn dân đoàn kết nhất trí mà ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên, tạo nên hào khí Đông A của đất Việt mãi măi còn ngời sáng. Tiếng hô “Quyết đánh” của các bô lão, tiếng vang dậy đất “Sát Thát” của ba quân, “Lá cờ thêu sáu chữ vàng'’ của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản… chính là thể hiện đậm nét khối đoàn kết toàn dân đó.

Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, Hội nghị thống nhất Việt Minh – Liên Việt; khối đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của hai cuộc kháng chiến, đánh Pháp, đuổi Mĩ, giành lại toàn vẹn non sông.

Trong lao động sản xuất dựng đất nước, nhờ sự đoàn kết, hợp tác, nhân dân ta đã xây dựng được những công trình to lớn như cầu Thăng Long, Nhà máy thủy điện Sông Đà, Trị An, Xí nghiệp liên doanh dầu khí Vũng Tàu, Nông trường cao su Lộc Ninh.Cũng do đoàn kết mà nhân dân các địa phương trong cả nước đã xây dựng được những công trình kinh tế, văn hóa phục vụ cho đời sống của địa phương mình như việc kéo đường điện sáng về xã vùng cao Suối Giàng (Yên Bái), xây dựng thành công hồ chứa nước Kẻ Gỗ (Nghệ Tĩnh), trồng được hàng ngàn hecta dâu, cà phê ở vùng kinh tế mới Lâm Hà (Lâm Đồng), nạo vét được hàng trốm cây số kênh, mương ở Phụng Hiệp, Ô Mồn (Cần Thơ) đưa đùng nước phù sa sông Hậu về tưới mát cho hàng ngàn hecta lúa, mía xanh tốt…

Khẩu hiệu kêu gọi đoàn kết:

Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,

Thành công, thành công, đại thành công.

của Bác Hồ trong thời kì kháng chiến đã là tiếng kêu cỗ vũ cả dân tộc đoàn kết, chiến đấu; là luồng gió mát thổi vào lòng người niềm tin ở sức mạnh của mình, của đất nước mình. Toàn dân ta không phân biệt già trẻ, gái trai, nông dân, công nhân, tri thức, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, địa chủ kháng chiến… đoàn kết một lòng trong Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Tồ quốc Việt Nam, lập nên chiến công hiên hách chấn Động địa cầu, rạng rỡ Việt Nam.

Trong công cuộc xây dựng và đối mới đất nước hiện nay, khầu hiệu đoàn kết của Bác đã xoá bỏ được tư tưởng cục bộ, địa phương chủ nghĩa, đoàn kết nhân dân cả nước ta xây dựng một nước Việt Nàfn mới giàu đẹp, cố gắng nhanh chóng theo kịp bè bạn gần xa ở Đông Nam Á và thế giới.
 
Top Bottom