Các thành ngữ, tục ngữ, điển tích, điển cố Đông Tây nói về ngựa
- Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn: Cần phải có bạn bè, có bạn, sống cùng tập thể.
- Ngựa hay lắm tật: Ám chỉ người có khả năng trí tuệ đặc biệt xuất sắc, thường có khuyết tật hay thói xấu. Không có gì hoàn hảo được.
- Ngựa Hồ chim Việt:
Cổ thi có câu:
Hồ Mã tê Bắc phong (Ngựa Hồ hí gió bấc)
Việt điểu sào Nam chi (Chim Việt đậu cành Nam)
Đất Hồ ở phương Bắc có lắm ngựa quý, nước Việt ở phương Nam có nhiều chim lạ. Ngựa Hồ chim Việt khi đưa vào Trung Quốc vẫn nhớ nước cũ. Thơ văn của ông cha ta hay nhắc đến điển tích này, ví như Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện có câu:
Người nhìn kẻ lại trông theo,
Ngựa Hồ chim Việt nhiều điều nhớ nhau
- Ngựa hươu thay đổi: Đổi trắng thay đen để dò lòng người.
Ngựa hươu thay đổi như chơi
Giấu gươm đầu lưỡi thọc dùi trong tay. (Cao Bá Nhạ)
- Ngựa le te cũng đến bến Giang-
Voi đủng đỉnh cũng sang qua đò: Không nên vội vàng hấp tấp, rồi đâu sẽ vào đấy
- Ngựa lồng cóc cũng lồng: Chỉ sự đua đòi bắt chước một cách lố bịch kệch cỡm.
- Ngựa nào gác được hai yên: Cái gì cũng có giới hạn và mức độ của nó.
- Ngựa non háu đá: Chỉ kẻ trẻ tuổi non nớt nhưng hung hăng, ham đối chọi, hay khiêu khích.
- Bóng ngựa qua cửa sổ: Bóng ngựa hay bóng câu (Bạch câu có nghĩa là con ngựa non sắc trắng) lướt qua khe cửa là nhằm để chỉ sự trôi nhanh của thời gian. Do câu nói của Trang Tử: "Nhân sinh thiên địa chi gian, nhược bạch câu chi quá khích, hốt nhiên chi dĩ" (nghĩa là: Người ta sống trong khoảng trời đất, cũng giống như bóng ngựa trong lướt qua khe cửa, trong chốc lát mà thôi).
Sách Hán thư cũng chú thích rằng Bạch câu là con ngựa non, dùng dể ví với sự lướt nhanh của bóng mặt trời, bóng nắng của thời gian.
- Ngựa quen đường cũ: Ngoan cố, chứng nào tật ấy, không chịu sửa chữa khuyết điểm.
- Ngựa chẳng cưỡi, cưỡi bò
Đường ngay không chạy, chạy dò đường quanh: Chê người làm khác đời, để tự gây cho mình những khó khăn.
- Cầu xe ngựa: Tư Mã Tương Như người đời Hán (Trung Quốc) khi còn hàn vi đi qua cái cầu ở phía Tây Trường An, ghi một hàng chữ vào cột câu: "Nếu ta không ngồi xe cưỡi ngựa thì không trở lại cầu này". Sau cầu xe ngựa chỉ quyết tâm mưu cầu sự vinh hiển.
- Con ngựa thành Troa: Theo thần thoại Hy Lạp, quân Hy Lạp muốn chiếm thành đã dùng một con ngựa gỗ, trong bụng có chứa rất nhiều quân mai phục, rồi đánh lừa quân thành Troa đưa vào thành. Đêm đến, quân Hy Lạp từ trong bụng ngựa chui ra mở cửa thành, đốt lửa làm ám hiệu cho đại quân mở cửa vào thành. Thành Troa bị hạ. Sau này trong văn học, điển tích: "Con ngựa thành Troa" chỉ một việc làm có nội ứng, hay một bề ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong chứa đầy âm mưu.
- "Cưỡi lên Pêgaxơ" hoặc "Thắng yên cương vào Pêgaxơ": Theo thần thoại Hy Lạp, Pêgaxơ là con ngựa có cánh do ác quỷ Mêđuxa sinh ra. Pêgaxơ thường xuống ngọn núi Hêlicôn, ngọn núi của các nàng Muxa (các nữ thần nghệ thuật) và uống nước ở suối Híppôcren. Con suối mà theo người xưa kể: Các nhà thơ thường đến du ngoạn. Cưỡi lên ngựa Pêgaxơ hoặc Thắng yên cương vào Pêgaxơ là để chỉ cảm hứng sáng tác thơ ca nghệ thuật. Con ngựa Pêgaxơ bất kham: để chỉ một nhà thơ tồi.
- Ngựa tái ông: Xưa có một ông già mất một con ngựa. Người ta đến chia buồn, ông bảo: Chưa chắc đã là điều không hay. Ít lâu sau con ngựa trở về lại dắt theo một con ngựa khác. Người ta đến mừng, ông bảo: Chưa chắc đã là điều hay. Quả nhiên, con trai ông tập phi ngựa bị ngã què chân. Người ta lại đến hỏi thăm, ông bảo: chưa chắc đã là điều bất hạnh. Một thời gian sau có chiến tranh, thanh niên trai tráng phải ra trận, riêng con ông được ở nhà vì què chân. Từ đấy điển tích "Con ngựa tái ông" chỉ họa phúc khôn lường, được không nên mừng, mất không nên lo.
Ngựa tái ông họa phúc biết về đâu.
(Huỳnh Thúc Kháng)
- Da ngựa bọc thây: Theo Hậu Hán thư Mã Viện đã trả lời Hán Quang Vũ: "Đại trượng phu nên chết ở nơi biên giới, chốn chiến trường, lấy da ngựa bọc thây mà chôn, chứ sao lại có thể nằm trên giường, trong tay bọn đàn bà, trẻ con mà được ư?" ý nói về chí khí của kẻ làm trai, như Chinh Phu ngâm có câu:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao
- Ngựa Xích thố: Ngựa Xích thố là ngựa có sắc lông đỏ, tượng trưng cho ngựa qúy. Trong truyện "Tam quốc diễn nghĩa", có con ngựa xích thố nổi tiếng của Quan Công do Tào Tháo tặng, đã đưa Quan Công vượt qua năm cửa ải, chém sáu tướng. Ngựa Xích thố giỏi chiến trận và trung thành với chủ, chỉ có Quan Công và trước Quan Công là Lã Bố là dùng được nó thôi, khi Quan Công chết, Xích thố cũng buồn bã mà chết theo. Nó nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, đến nỗi hàng ngàn năm sau khi nó chết, cứ có con ngựa lông đỏ nào hay, người ta lại cho đó là con Xích thố.
- Ngựa trắng có cánh: Trong thần thoại Hy Lạp, hình ảnh con ngựa trắng có cánh và biết bay, tượng trưng cho cảm hứng trong sáng tạo và thi ca.
- Thẳng ruột ngựa: Khi nói về tính tình của một con người bộc trực, thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, không giấu giếm... người ta hay ví với câu "thẳng như ruột ngựa". Đó là do sự quan sát trực quan về cơ sở giải phẫu cơ quan tiêu hóa của ngựa mà người ta đã đi tới sự so sánh ví von đó. Ngựa là con vật hay ăn cỏ như trâu bò, nhưng dạ dày ngựa thuộc loại dạ dày đơn không có nhiều ngăn. Ruột ngựa rất dài, đặc biệt là đoạn nối ruột non với dạ dày còn gọi là manh tràng đoạn này dài tới một mét, thẳng và to. Ruột ngựa thẳng đã được xem là một đặc điểm đối chứng với tính chất cong mang ý nghĩa biểu thị tính tình của con người. Người thẳng ruột ngựa được xem là người tốt, mộc mạc, không lất léo, không có ác tâm.
- Kiếp ngựa trâu: Trong ý thức dân gian, ngựa và trâu thường được coi là biểu tượng của những thân phận thấp hèn, gắn liền với sự lao động cực nhọc (cho nên còn có cách nói khác: thân trâu ngựa). Vì vậy, kiếp ngựa trâu thường được dùng trong dân gian để chỉ thân phận nô lệ, bị áp bức.
- Lên xe xuống ngựa: Xe và ngựa là những phương tiện giao thông tân tiến của con người, thay thế cho sức đi bộ. Thành ngữ: lên xe xuống ngựa biểu tượng cho sự thay thế tân tiến đó và dần dần nó còn là biểu tượng cho sự xung mãn của từng tầng lớp trên khá giả, thường là tầng lớp thống trị chuyên "ăn trắng mặc trơn, lên xe xuống ngựa"
- Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ: Câu này còn có thể nói: Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ. "Tàu" ở đây là từ chỉ chuồng để nuôi ngựa.
Dân gian đã mượn vật nuôi là con ngựa - một con vật vốn thân thiết với người để nói lên một cách sâu sắc một vấn đề về đạo lý con người. "Một con ngựa đau" - Hàm ý chỉ sự hoạn nạn cửa một cá thể. "Cả tàu không ăn cỏ" biểu thị sự sẻ chia của đồng loại. Câu thành ngữ đã nêu truyền thống tương thân tương ái, chia sẻ hoạn nạn của cộng đồng con người một cách cụ thể và hết sức có hình ảnh.
- Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã: Câu tục ngữ có nguồn gốc Hán - Việt: ngưu = trâu, mã = ngựa, tầm = tìm. Nghĩa của nó là: trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa. Nhằm đúc kết một kinh nghiệm trong cuộc sống có giá trị như là một chân lý về quan hệ giữa người với người: người tốt sẽ tìm đến người tốt để làm bạn thân. Cũng như vậy kẻ xấu sẽ tìm gặp kẻ xấu để kết bè kéo cánh, cùng hội cùng thuyền với nhau.
- Vành móng ngựa: Vành móng ngựa là biểu tượng cho tòa án nói riêng và cho pháp luật nói chung. Do đó, khi nói trước vành móng ngựa cũng có nghĩa là trước tòa án, trước pháp luật.
Vậy vành móng ngựa có liên quan gì với tòa án, pháp luật? Số là, trước đây ở La Mã, nhà nước xử tội, trừng trị phạm nhân thường dùng ngựa để xé xác hoặc giày xéo lên thân thể của họ. Cách xử tội bằng voi giày ngựa xéo này thể hiện sự nghiêm minh và hà khắc của pháp luật. Về sau, người ta mới lấy vành móng ngựa để làm biểu tượng cho sự uy lực và nghiêm khắc của tòa án. Thành ra, trong các phiên tòa các bị cáo đều phải đứng vào vành móng ngựa dành riêng cho họ. Vành này được tạo dáng giống hình cái móng ngựa, do đó mới được gọi là vành móng ngựa. Thành ngữ trước vành móng ngựa, vì vậy dược hiểu là trước tòa án, trước pháp luật và chịu sự phán xử và trừng phạt của pháp luật.