[Địa lí 8] đặc điểm lãnh thổ việt nam

L

lolem_theki_xxi

Nói tóm tắt là như thế này:​
Nước ta nằm ở rìa phía đông bán đảo đông dương gần trung tâm đông nam á
-toạ độ địa lí: +trên đất liên: phia bắc,nam.tây,dông)
+trên biển:kéo dài tới khoảng vĩ độ 6độ 50p bắc và kinh độ...(mình wên ùi)
nước ta vừa gắn liền với lục địa á-âu vừa tiếp giáp với biển đông thông wa TBD rộng lớn
nằm trên các con đường gt hàng hai,hàng không,đường bộ wan trọng
nằm trong khu vục có nền kinh tế phát triển năng đông trên tg
nc ta nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới Bắc Bán cầu.thường xuyên chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa Châu Á,gió mậu dịch,nằm trên đường di cu của nhìu loài đọng vật phương bắc và phương nam.nằm trên vánh đai sinh khoáng TBD địa trung hải
Nằn hoàn toàn trong mũi giờ số 7 thuận lợi cho việc thống nhất quản lí đất nước về thời gian sinh hoạt và các hoạt đông #...................
S đất liền và hải đảo:331212 km2
đường biên giới đất liền:4600 km
đường bờ biển khá dài:3260 kmchạy từ móng cái đến hà tien
có hơn 4000 quần đảo lớn nhỏ,có 2 đảo lớn:hs va ts
biển tiếp giáp vs 8 nuóc................

Còn chi tiết thì đây bạn nhé

Việt Nam có địa hình tương đối đa dạng, lắm núi, nhiều sông, có cao nguyên lại có cả đồng bằng, bờ biển trải dài và uốn lượn, lúc nhô ra thì tạo thành bán đảo nhỏ, khi vòng lại hình thành vùng vịnh và cảng lớn. Chính vì vậy, từ ngàn xưa, người Việt Nam đã mô phỏng và di huấn lại lãnh thổ toàn vẹn và cũng chính là địa hình đất nước mình theo cấu trúc của hệ bát phân “Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền”. Tuy nhiên, các quan hệ tỷ lệ giữa núi và đồng bằng trong diện tích phần đất liền không giống nhau giữa các vùng.

Địa hình Bắc Bộ giống như chiếc rẻ quạt. Ba phía tây, bắc và đông đều là đồi núi, phía nam là bờ biển và ở giữa là đồng bằng, chủ yếu là do sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp qua hàng triệu năm tạo nên. Trong khi đó, Trung Bộ lại chạy dài và hẹp, giống như chiếc đòn gánh hai đầu đất nước. Đồi núi, đồng bằng và bờ biển xâm nhập lẫn nhau. Địa hình Trung Bộ luôn bị chia cắt thành nhiều khoang bởi các con sông bắt nguồn từ dãy núi phía tây đổ ra biển đông hoặc những nhánh núi đôi khi nhô ra tận biển. Dọc theo bờ biển là các đồng bằng nhỏ. Xen kẽ giữa các sườn núi dốc là các thung lũng sâu và hẹp. Tây nam Trung Bộ có một quần thể các cao nguyên đá hoa cương và bazan, được gọi là tây Nguyên. Do nằm ở độ cao trung bình khoảng 900 mét so với mặt nước biển nên Tây Nguyên được ví như “mái nhà” của Đông Dương.
So với Bắc Bộ và Trung Bộ thì địa hình Nam Bộ ít phức tạp hơn. Chỉ có một số núi thấp ở vùng tiếp giáp với Tây Nguyên và miền tây tỉnh Kiên Giang giáp Campuchia, còn lại là bằng phẳng, trong đó có đồng bằng sông Cửu Long. Cho đến nay, đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn là một vùng đất thấp, độ cao trung bình so với mặt biển chỉ vào khoảng 5 mét. Một số vùng thuộc đồng bằng sông Cửu Long như tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười và tây sông Hậu vẫn còn thấp hơn mặt biển nên hàng năm có khoảng 1 triệu ha bị ngâp nước trong khoảng thowuf gian 2 – 4 tháng. Người ta cho ràng, cách đây hàng triệu năm, vùng này vốn là một vịnh lớn và được bồi đăp dần lên bởi phù sa sông Cửu Long.
¾ địa hình Việt Nam là đồi núi núi, nhưng chủ yếu là đồi núi thấp, không có ngọn núi nào được coi là thuộc loại cao của thế giới. Tuy nhiên, có nhiều đỉnh vượt quá độ cao 2.500m như: Phanxipang (Lào Cai) cao 3.143m, Putaleng (Lai Châu) cao 3.096m, Puluông (Yên Bái) cao 2.985m, Lacung (Nghệ An) cao 2.913m, Saphin (Yên Bái) cao 2.874m, Pukhaoluông (Lào Cai) cao 2.810m, Puxailaileng (Nghệ An) cao 2.711m, Ngọc Lĩnh (Kon Tum) cao 2.598m, Pu Nậm Nhé (Lai Châu) cao 2.534m. Đây là các ngọn núi già, trải qua quá trình lịch sử kiến tạo và phát triển lâu dài đã được nâng lên vào cuối kỷ đệ tam.
4 vùng núi chính của Việt Nam là: vùng núi Đông Bắc, vùng núi Tây Bắc, vùng núi Trường Sơn Nam và vùng núi Trường Sơn Bắc.

Vùng núi Đông Bắc (còn gọi là Việt Bắc): kéo dài từ thung lũng sông Hồng đến vịnh Bắc Bộ. Tại đây có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: động Tam Thanh, động Nhị Thanh (Lạng Sơn), hang Pắc Bó, thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), núi Yên Tử, vịnh Hạ Long – di sản thế giới (Quảng Ninh). Đỉnh núi Tay Côn Lĩnh (Hà Giang) cao nhất vùng Đông Bắc: 2.431m.
Vùng núi Tây Bắc kéo dài từ biên giới phía bắc (giáp Trung Quốc) tới phía tây tỉnh Thanh Hóa. Đây là vùng núi cao hùng vỹ có Sa Pa (Lào Cai) ở độ cao 1.500m so với mặt biển – nơi nghỉ mát lý tưởng, tập trung các tộc người H’Mông, Dao, Kinh, Tày, Giáy, Hoa, Xán Phó… Vùng núi Tây Bắc còn có di tích chiến trường lừng danh Điện Biên Phủ và đỉnh núi Phanxipang cao 3.143m, cao nhất Đông Dương.

Vùng núi Trường Sơn Bắc kéo dài từ phái tây tỉnh Thanh Hóa đến vùng núi Quảng nam – Đà Nẵng, có vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng – di sản thế giới (Quảng Bình) và những đường đèo nổi tiếng như đèo Ngang, đèo Hải Vân… Đặc biệt, có đường mòn Hồ Chí Minh được thế giới biết đến nhiều bởi những kỳ tích của người Việt Nam trong cuộc kháng chiến vỹ đại lần thứ hai.
Vùng núi Trường Sơn Nam nằm ở các tỉnh Nam Trung Bộ. Sau những khối núi đồ sộ là một vùng đất rộng lớn được gọi là Tây Nguyên (cao nguyên phía tây). Vùng đất đầy huyền thoại này còn chứa đụng những điều bí ản về động vật, thực vật, nhất là nền văn hóa đặc sắc của các bộ tộc ít người.
Trên lãnh thổ Việt Nam có tới 2860 sông ngòi lớn nhỏ với tổng lượng dòng chảy khoảng 867 tỷ m3/năm. Sông ngòi Việt Nam nhìn chung chảy xiết và do vậy thường làm xói mòn địa hình, cuốn đi một lượng bùn cát khá lớn, ước tính khoảng 300 triệu tấn/năm. Tuy dọc theo bờ biển có tới 112 cửa sông lớn, nhưng không phải tất cả bùn cát các dòng sông mang theo đều đổ ra biển mà một phần được giữ lại bồi đắp nên các đồng bằng rất trẻ.

Trong toàn bộ hệ thống sông ngòi thì sông Hồng và sông Mê Kông là hai con sông lớn và quan trọng hơn cả. Sông Hồng bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) dài 1140 km với lưu vực rộng 61.627 km2, trong đó đoạn chảy qua Việt Nam dài 500 km với lưu vực rộng 21.787 km2. Tổng lượng dòng chảy của sông Hồng khoảng 150 tỷ m3/năm. Nước sông quanh năm đỏ ngầu do mỗi năm mang theo 80 triệu m3 phù sa. Bởi vậy, dòng sông được gọi tên theo màu nước đỏ.
Sông Mê Kông là một trong 10 con sông lớn nhất thế giới, bắt nguồn từ Tây Tạng (Trung Quốc) chảy qua Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia rồi vào Việt Nam. Sông Mê Kông có tổng chiều dài 4.220 km với lưu vực 1 triệu km2, trong đó đoạn chảy qua Việt Nam dào 220 km với lưu vực 4.900km2. Sông Mê Kông có tổng lượng dòng chảy 500 tỷ m3/năm và mang theo 1 tỷ tấn phù sa mỗi năm. Từ Campuchia, sông Mê Kông chảy vào Việt Nam chia thành hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang. Dòng chảy tiếp nối với biển cả bằng 9 cửa sôn với lưu tốc trung bình khoảng 10 nghìn m3/giây, vào mùa lũ tháng 6 – tháng 7 có thể đạt tới 34 nghìn m3/giây. Người Việt Nam từ xưa đã có khái niệm dân gian rất sâu sắc về hình tượng con rồng nên đoạn sông Mê Kông chảy qua Việt Nam với 9 cửa sông thông ra biển có thêm một cái tên rất Việt: Cửu Long, tức là 9 con rồng.
Một đặc điểm khác biểu hiện tính đa dạng của địa hình Việt Nam là hệ thống các đảo và quần đảo. Tính chung, ven bờ biển và trên thềm lục địa cùng biển Việt Nam có khoảng 4 nghìn hòn đảo, trong đó riêng vịnh Bắc Bộ đã có tới 3 nghìn đảo lớn nhỏ. Vịnh Bắc Bộ chính là phần tiếp nối của các cánh cung núi đá vôi vùng Đông Bắc gục dần xuống biển nên mới nhiều đảo đến thế. Những đảo thuộc vịnh Bắc Bộ hình thành nên các hệ thống đảo ở vịnh Hạ Long, Bái Tử Long và các khu xung quanh đảo lớn Cát Hải, Cát Bà, Bạch Long Vỹ. Riêng vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long mỗi nơi có chừng 1 nghìn hòn đảo. Quần đảo Cát bà cũng có tời 366 đảo.

Gần bờ biển Trung Bộ cũng có hàng trăm đảo lớn, trong đó có đảo Hòn Mê, Hòn Mát, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Cù Lao Xanh, Hòn Tre, Hòn Một, Phú Quý. Xa hơn nữa là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Vùng biển phía nam cách Vũng Tàu 98 hải lý có 12 đảo lớn nhỏ lập nên huyện đảo Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu). Ngoài khơi biển Kiên Giang có đảo Phú Quốc rộng 573 km2. Cách Phú Quốc 115 km, cách mũi Cà mau 156 km và cách cửa sông Ông Đốc 146 km là quần đảo Thổ Chu, gồm 9 đảo, trong đó đảo Thổ Chu là lớn nhất với diện tích 10 km2.
 
Top Bottom