Tên: Thái Minh Quân; nick:
@Thái Minh Quân
Câu 1: Trên đất nước ta, các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu tích của người tối cổ có niên đại cách ngày nay 30 – 40 vạn năm. Bạn hãy cho biết, những dấu tích của người tối cổ được tìm thấy ở đâu trên đât nước ta?
Dấu tích: Hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn), núi Đọ (Thanh Hóa), Xuân Lộc (Đồng Nai), Bình Phước
Câu 2:
a. Trình bày những thành tựu tiêu biểu của văn hóa cổ đại Hi Lạp- Rô ma?
b. Trong những thành tựu đó, thành tựu nào có ý nghĩa lớn nhất đối với văn minh loài người nói chung và văn minh Việt Nam nói riêng?
a. Những thành tựu của văn hóa cổ đại Hy Lạp – Roma
+ Lịch pháp: nhờ biết Trái Đất hình cầu, người phương Tây tính ra một năm có 365 ngày 1/4 và tính được một tháng có 30 hoặc 31 ngày, riêng tháng hai là 28 ngày; có năm nhuận
+ Chữ viết: do trình độ phát triển cao của kinh tế và ảnh hưởng từ hệ chữ của cư dân phương Đông cổ đại, cư dân sáng tạo ra chữ cái bằng cách ghép chữ rất linh hoạt thành từ, hình thành hệ chữ cái a, b, c… ban đầu 20 chữ, sau tăng lên đến 26 chữ hoàn chỉnh như ngày nay. Họ cũng sáng tạo ra hệ chữ số La Mã là các số: “I, II, III, V…” còn sử dụng đến ngày nay.
+ Toán học: nhiều thành tựu đã vượt lên trên các ghi chép và giải các bài toán riêng biệt với các định lý Thales, định lý về tam giác vuông và các số nguyên của Pythagore, tiên đề đường thẳng song song của Euclid….
+ Vật lý học: nổi tiếng nhất là nhà bác học Archimedes (thế kỷ III TCN) ở Hy Lạp cổ, quê ở thành Syracuse. Ông nổi tiếng với các phát minh ra thấu kính hội tụ để phản chiếu ánh nắng Mặt Trời đốt cháy thuyền của quân xâm lược La Mã; đồng thời là người tìm ra “lực đẩy Archmedes” để đo lượng vàng trong vương miệng của nhà vua
+ Sử học: với tác phẩm
Historiai (Sử học) của Herodotus (đã dịch sang tiếng Việt),
Lịch sử cuộc chiến tranh Peloponese của Thucyditus (cũng đã dịch ra tiếng Việt),
Những cuộc chinh phạt của Alexandre Đại đế của Arrian (cũng đã dịch ra tiếng Việt)…
+ Địa lý có sách “Địa lý” của Strabon, nhưng phương pháp viết không hay bằng các tiền bối
+ Triết học: có Thales, Pythagore, Socrates và nổi bật nhất là Platon và Aristotle. Socrates và học trò Platon theo thuyết duy tâm (ý thức có trước vật chất); Platon có sách “Nền Cộng hòa” đã chứng mình rõ thuyết này; Aristotle theo thuyết “nhị nguyên luận”, trong khi Thales theo duy vật (vật chất có trước ý thức) và cho rằng Trái Đất có hình chiếc đĩa dẹt
+ Văn học: Sau các các bản thần thoai, văn học Hi Lạp phát triển mạnh văn học, thơ ca và nhất là kịch (phổ biến nhất). Người Roma thừa kế và phát triển với các tác giả như Virgilius, Lucrece…
+ Nghệ thuật: Người Hi Lạp cổ đại để lại nhiều tượng và đền đài, những công trình này toát ra sự nhẹ nhàng, tinh tế và gần gũi với cuộc sống con người. Người Roma cũng tiếp tục xây dựng nhiều đền đài, cầu máng dẫn nước, trường đấu… nhưng không tinh tế, gần gũi bằng người Hi Lạp.
b. Thành tựu chữ viết có ý nghĩa lớn nhất đối với văn minh loài người nói chung và văn minh Việt Nam nói riêng; vì chữ viết giúp con người biết giao tiếp và trao đổi, buôn bán và đồng thời giúp truyền bá đạo Thiên Chúa. Thế kỷ XVI, các giáo sĩ Thiên Chúa đã học tiếng Việt, rồi dùng chữ cái La-tinh ghi âm tiếng Việt nhằm truyền bá đạo Thiên Chúa
Câu 3: Hãy lập bảng so sánh Phong trào Cần Vương và khởi nghĩa của nhân dân Yên Thế với các nội dung sau: Mục đích, thời gian, lãnh đạo, Địa bàn, Lực lượng tham gia, hình thức đấu tranh, tính chất.
Nội dung | Phong trào Cần Vương | Khởi nghĩa Yên Thế |
Mục đích | Đánh Pháp giành lại độc lập,
khôi phục lại chế độ phong kiến | Tự vệ để giành lại độc lập
cho làng xã |
Thời gian | 1885-1896 | 1884-1913 |
Lãnh đạo | văn thân, sĩ phu | nông dân |
Địa bàn | Bắc Trung Kì | Yên Thế và 1 số tỉnh ở
Bắc Trung Kì |
Lực lượng tham gia | Văn thân, sĩ phu, nông dân | nông dân |
Hình thức đấu tranh | Khởi nghĩa vũ trang | Khởi nghĩa vũ trang |
Tính chất | mang tính dân tộc sâu sắc | Mang tính tự phát |
[TBODY]
[/TBODY]
Câu 4: Bạn hãy trình bày sự phát triển kinh tế, văn hóa nước ta các thế kỷ XVII- XVIII. Hãy cho biết sự phát triển kinh tế, văn hóa trong thời kì này có điểm gì mới?
a. Kinh tế
- Nông nghiệp Đàng Ngoài không phát triển do các chúa Trịnh mải ăn chơi (nhất là Trịnh Giang và Trịnh Sâm), không chăm lo sản xuất. Đê điều hư hỏng, ruộng đất bỏ hoang khiến nạn mất mùa, nhiều người dân chết đói hoặc phải tha phương cầu thực. Mặc dù thế, người dân vẫn tăng gia sản xuất và chế tạo nhiều giống lúa mới phục vụ cho nhu cầu lương thực của người tiêu dùng và buôn bán; trồng thêm cây ăn quả để phục vụ cho đời sống. Theo thống kê của Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) thì ở Đàng Ngoài thường cấy lúa chiêm (8 giống), 27 giống lúa mùa
- Nông nghiệp Đàng Trong phát triển mạnh do các chúa Nguyễn tận dụng điều kiện tự nhiên trù phú của vùng đất phương Nam và chiêu tập người dân Việt ở miền Thuận – Quảng vào khai hoang, cung cấp nông cụ và lương thực để họ khai hoang và lập làng xã để định cư. Được sự chăm lo của chúa Nguyễn, người dân tăng gia sản xuất khiến diện tích ruộng đất tăng lên nhanh chóng. Họ tiến hành đào kênh mương, đắp đập và tiến hành trồng nhiều loại cây lương thực và cây ăn quả cho năng suất cao – đặt biệt là cây lúa, loại cây cho năng suất cao và sản lượng nhiều, phục vụ tốt cho nhu cầu thị trường bên ngoài. Năm 1789, khi nạn đói xảy ra ở Xiêm, Nguyễn Ánh đã cho phép bán ra 8.800 phương gạo (264.000 lít).
- Tuy nhiên đến nửa sau thế kỷ XVIII, tình hình tập trung ruộng đất vào tay địa chủ ngày càng phổ biến. Ở Đàng Ngoài có địa chủ chiếm tới hàng trăm, thậm chí là hàng nghìn mẫu ruộng khiến nông dân không còn ruộng đất. Vả lại bị nhà nước đặt thêm nhiều thứ thuế nặng nề nên đời sống điêu đứng, nhiều người bỏ làng đi tha phương, đói kém diễn ra trầm trọng. Tương tự như thế ở Đàng Trong, tình trạng tư hữu của địa chủ diễn ra mạnh. Theo thống kê của Lê Quý Đôn, khu nhà giàu có từ 20 đến 60 nhà, mỗi nhà thì điền nô có đến 50 - 60 người, có đến 300 - 400 trâu bò.
+ Thủ công nghiệp:
- Thủ công nghiệp nhà nước: ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh lập nhiều xưởng lớn chuyên đúc súng, đúc tiền, làm đồ trang sức, làm vũ khí cho quân đội. Từ 1760, chúa cho phép các trấn được mở xưởng đúc tiền. Trong khi đó, các xưởng thủ công ở Đàng Trong hoạt động mạnh, nhất là đúc súng và đóng thuyền. Lực lượng lao động trong các xưởng là thợ thủ công giỏi được lấy từ các làng vào. Nhìn chung, thủ công nghiệp nhà nước tuy có mở rộng quy mô sản xuất và trình độ kỹ thuật, nhưng bị ràng buộc trong tổ chức và quan hệ cưỡng bức nô dịch, nên ít tác động đến sự phát triển của kinh tế hàng hóa.
- Thủ công nghiệp dân gian: một bộ phận thợ thủ công chuyên nghiệp ở các đô thị và nông thôn trở thành lực lượng sản xuất chính, từ đó hình thành các làng nghề chuyên nghiệp. Bên cạnh các làng nghề thủ công cổ truyền như gốm sứ, dệt vải, rèn sắt, đúc đồng… đang phát triển tới trình độ cao, đã xuất hiện một số làng nghề thủ công mới như nghề khắc in bản gỗ, làm đường trắng, làm đồng hồ và sơn mài. Mặc dù nghề chính là làm ruộng, nhưng các làng nghề vẫn hoạt động mạnh mẽ và một số thợ giỏi đã họp nhau rời làng ra các đô thị để lập phường sản xuất. Khai mỏ phát triển mạnh ở cả hai miền với nhiều khu mỏ và chủ thầu Việt - Hoa. Ở Đàng Trong, nghề làm đường mía ở Nam - Ngãi (Quảng Nam, Quảng Ngãi) phát triển đến trình độ kỹ thuât cao.
+ Thương nghiệp:
- Chợ làng mọc khắp các làng, xã, huyện và thường họp theo phiên. Ở một số vùng, các chợ làng (khoảng 5 - 6 chợ lớn) họp thành một khu chợ lớn với diện tích 10 - 15 km2. Tại các chợ, người dân buôn bán nhiều mặt hàng, trong đó hàng nông phẩm và hàng thủ công do người dân tự sản xuất và mua bán là chủ yếu. Số người buôn bán ở chợ phần đông là phụ nữ và người nghèo. Người buôn bán lớn có các cửa hàng, cửa hiệu không nhiều. Ở nhiều nơi trong nước đã xuất hiện một số làng buôn và trung tâm buôn bán của vùng. Người dân đem các sản phẩm địa phương của làng đến mua bán ở các làng buôn, rồi từ làng buôn họ lại đem hàng hóa ra buôn bán ở các phố thị và ngược lại. Ở Thăng Long, Phố Hiến, người dân làng đem hàng hóa đổ xô vào đây để lập các chợ mới và buôn bán; đồng thời lập thêm các phố hàng. Để kiểm soát việc buôn bán ở các chợ làng và làng buôn, nhà nước lập các trạm ở ngã ba sông để thu thuế. Ở Đàng Trong, nhiều thương nhân người Việt và Hoa đem gạo từ Gia Định ra miền Trung buôn bán; ở Đàng Ngoài, thuyền buôn của Bồ Đào Nha, Gia-va, Xiêm, Hà Lan, Anh…. đem vũ khí, thuốc súng, len dạ, đồ sứ để đổi lấy tơ lụa, đường, gốm, nông sản…. Nhiều thương nhân người Nhật Bản, Trung Hoa, Anh, Hà Lan và Pháp đã xin lập phố xá để buôn bán lâu dài.
- Các đô thị dần xuất hiện. Theo đà phát triển của kinh tế hàng hóa, người dân làng đi lại ngược xuôi để buôn bán và trao đổi nhiều mặt hàng hóa, bất chấp sự ngăn cản của triều đình, dẫn tời sự hình thành các đô thị lớn như Thăng Long (Hà Nội), Phố Hiến (Hưng Yên), Thanh Hà (Huế), Hội An (Quảng Nam), Nước Mặn (Bình Định) và Gia Định; nhưng tiêu biểu hơn cả là Thăng Long và Hội An. Tại các đô thị này, người dân xây nhà ở, lập phố xá buôn bán tấp nập. Nhân dân có câu “Thứ nhất Kinh Kì, thứ nhì Phố Hiến” là muốn nói đến sự phồn thịnh của các đô thị. Theo ghi nhận của người đương thời, Thăng Long có tới 62 phố toàn là thợ thủ công và thương nhân đang buôn bán (ghi chép của giáo sĩ Marini, 1666), Phố Hiến có 20 phường với 2.000 nóc nhà. Ở Đàng Trong có đến 4 đô thị, nổi bật nhất là Hội An. Theo ghi chép của giáo sĩ phương Tây C. Borri (1618) thì Hội An “là hải cảng đẹp nhất và thương nhân ngoại quốc tới buôn bán nhiều nhất”. Nằm trên con đường thương mại Biển Đông rộng lớn, thương nhân từ Hội An có thể buôn bán từ Đông sang Tây, Nam ra Bắc. Đến đầu thế kỷ XVIII, Hội An trở thành thành phố cảng lớn với nhiều thương nhân khắp mọi nơi đến buôn bán; có các khu cư trú riêng của người Nhật và người Hoa. Theo ghi nhận của Lê Quý Đôn, “phàm hóa sản vật sản xuất ở các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn theo đường thủy, đường bộ, đi ngựa đều hội tập tại Hội An. Vì thế, người khách phương Bắc đều tụ tập về đây để mua về nước. Trước đây hàng hóa nhiều lắm, dù trăm chiếc tàu to chở cùng một lúc cũng không hết được”. Ở Huế, đô thị Thanh Hà do người Hoa thành lập cũng buôn bán khá sầm uất, được gọi là “Đại Minh khách phố”.
Đến cuối thế kỷ XVIII, các đô thị suy tàn dần.
b. Văn hóa
+ Tư tưởng
- Cùng với sự sụp đổ của nhà nước phong kiến tập quyền Lê sơ và sự phát triển của kinh tế hàng hóa,
Nho giáo từng bước bị suy thoái và tôn ti trật tự phong kiến không còn được tôn trọng như trước mặc dù các chính quyền phong kiến đương thời tìm mọi cách củng cố.
Đạo giáo và
Phật giáo được củng cố với hàng loạt chùa chiền được nhà chúa xây dựng, nhân dân góp phần tiền của giúp chính quyền xây dựng chùa chiền, đúc chuông và tô tượng.
- Từ thế kỷ XVI, nhiều giáo sĩ phương Tây theo các thuyền buôn nước ngoài vào Việt Nam truyền bá đạo
Công giáo (còn gọi là Thiên chúa). Tôn giáo này nhanh chóng truyền bá ở khắp nơi, nhiều nhà thờ mọc lên. Cùng với việc du nhập đạo Công giáo, giáo sĩ phương Tây (đầu tiên là người Bồ Đào Nha) vào đầu thế kỷ XVI đã sáng tạo ra
chữ Quốc ngữ dựa trên mẫu tự Latinh. Lúc đầu, chữ Quốc ngữ được sử dụng trong truyền giáo, nhưng không phổ biến trong nhân dân. Cùng với sự cấm đoán Công giáo của chính quyền vì nhiều điểm khác biệt, chữ Quốc ngữ lụi tàn (mãi đến nửa cuối thế kỷ XIX mới tái sử dụng lại)
- Tiếp nhận ảnh hưởng của các tư tưởng và tôn giáo, người dân Việt Nam tạo ra nếp sống văn hóa riêng trên cơ sở hòa nhập với nền văn hóa cổ truyền của dân tộc thể hiện trong quan hệ gia đình với tôn ti trật tự, thứ bậc của gia đình, nhận thức đúng - sai, khoan dung trong cuộc sống. Người dân cũng duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và những người có công với làng, với nước. Bên cạnh chùa chiền và các nhà thờ đạo, những đền thờ, lăng miếu được xây dựng ở nhiều nơi.
+ Giáo dục và khoa cử
- Ở Đàng Ngoài, nhà Mạc sau khi thành lập đã tổ chức đều đặn các khoa thi (cứ 3 năm tổ chức một lần) và chính quyền Mạc lấy đỗ tổng cộng 385 tiến sĩ, trong đó có trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm và nữ tiến sĩ đầu tiên Nguyễn Thị Duệ. Khi đất nước bị chia cắt, triều Lê - Trịnh tiếp nối truyền thống khoa cử thời Lê sơ và cũng lấy đỗ tổng cộng 851 tiến sĩ. Trong số những người đỗ đạt cao, có những người tài giỏi và có cống hiến lớn cho đất nước. Tuy vậy, nội dung thi cử nặng về sách vở Nho học và tổ chức thi cử cứng nhắc, gian lận công khai nên chất lượng giáo dục ngày một suy giảm/
- Ở Đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Lan (1635 - 1648) vào năm 1646 đã quyết định mở khoa thi đầu tiên theo cách riêng. Nội dung Nho học rất sơ lược nhưng nặng về kinh sách và sử, khoa học tự nhiên không được chú ý, Điểm tiến bộ hơn khoa cử thời Lê - Trịnh là chúa Nguyễn quan tâm hơn điều kiện thực tế so với lý thuyết cứng nhắc của Lê - Trịnh.
+ Văn học
- Văn học chữ Hán mất dần vị thế vốn có của nó trong thời Lê sơ do sự suy thoái của Nho giáo. Tuy vậy vẫn xuất hiện một số nhà thơ và nhà văn, nhà nghiên cứu của văn học chữ Hán như Nguyễn Dữ, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Đào Duy Từ… làm cho văn học thêm phong phú. Chữ Nôm xuất hiện từ thế kỷ XI trở đi và phát triển mạnh vào các thế kỷ XVII - XVIII với một số nhà thơ lớn như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Đào Duy Từ… và các truyện Nôm khuyết danh như Trê cóc, Trinh thử, Phạm Công - Cúc Hoa, Thạch Sanh…..; áng thơ Nôm Chinh phục ngâm, Cung oán ngâm khúc….
- Trong lúc văn học chính thống dần suy thoái thì văn học dân gian phát triển khá rầm rộ. Với tài năng của mình, nhân dân đã sáng tác hàng loạt ca dao, tục ngữ, truyện cười, truyện dân gian… nhằm phê phán nghiêm khắc những lễ giáo của nhà nước phong kiến để nói những tâm tư nguyện vọng của mình, ca ngợi quê hương đất nước cùng các phong tục tập quán của quê hương mình. Văn học dân gian cũng phát triển mạnh ở các dân tộc ít người làm cho kho tàng văn học thêm phong phú.
+ Nghệ thuật
- Nghệ thuật kiến trúc phát triển với nhiều công trình có giá trị như chùa Thiên Mụ (Huế), tượng Phật bà Quan âm nghìn mặt nghìn tay ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), tượng La hán ở chùa Tây Phương (Hà Nội), tượng vua chúa, tranh vẽ chân dung
- Điêu khắc rất phát triển với các cảnh sinh hoạt của người dân như đi cày bừa, đấu vật, hát xướng, đánh cờ, chọi gà…. được khắc trên các vì kèo ở đình làng. Trình độ nghệ thuật tuy đơn giản nhưng phản ánh được cuộc sống của những người dân thường
- Nghệ thuật sân khấu như chèo, tuồng, hát quan họ, hát trống quân… hết sức phong phú và đa dạng, phản ánh sinh động đời sông và ước vọng của nhân dân
+ Khoa học kỹ thuật
- Sử học: bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên đã được các sử thần triều Lê - Trịnh sau này bổ sung và hoàn thành vào năm 1697. bên cạnh đó xuất hiện nhiều bộ sách sử của tư nhân như Ô Châu cận lục của Dương Văn An; Phủ biên tạp lục, Lê triều công nghiệp thực lục và Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn; bộ sử thi Thiên Nam ngữ lục (khuyết danh, dài 8.000 câu), Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ (thế kỷ XVIII), Công nghiệp dư chí của Vũ Phương Đề….
- Địa lý: bộ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá (thế kỷ XVII), Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn….
- Khoa học quân sự: sách Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ và lần đầu tiên quân dân Đàng Trong xây dựng các lũy đất là lũy Thầy (1630, dài 10 dặm và cao 12 thước ) và lũy Bán Bích (1772, dài 15 dặm ). Ở giai đoạn này, kỹ thuật đúc súng và đóng thuyền chiến có đại bác ở Đàng Trong được nâng cao do sự học hỏi từ kỹ thuật phương Tây
- Triết học: có các tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn
• Điểm mới của sự phát triển kinh tế, văn hóa trong thời kì này:
- Kinh tế:
+ Nông nghiệp: trong thời kỳ này nông nghiệp ở hai Đàng Ngoài, Đàng Trong có nhiều điểm mới. Thứ nhất, nhân dân hai miền lúc này sáng tạo ra nhiều giống lúa mới, có năng suất cao và chất lượng tốt theo kinh nghiệm làm nông lâu đời “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”; đủ dùng trong nước và xuất khẩu ra bên ngoài. Đặc biệt ở Đàng Trong, Gia Định là vựa lúa lớn nhất của cả vùng này. Lúa ở Gia Định có hai vụ lúa, sản lượng tăng liên tục và giá cả rất rẻ so với các vùng khác. Thứ hai, người dân hai miền trồng nhiều loại cây ăn quả và tìm ra các phương pháp chăm sóc cây trồng hiệu quả
+ Thủ công nghiệp: điểm mới là các làng nghề và phường nghề ở các đô thị đã phát triển nhanh và mở rộng quy mô ra nhiều nơi trên cả nước. Khác với các thời trước, nghề khai mỏ được đẩy mạnh và phát triển ở cả hai miền; mạnh nhất là ở Đàng Ngoài
+ Thương nghiệp: khác với các thời trước; các chợ làng ngày càng mở rộng về quy mô và cách thức hoạt động. Các đô thị được mở ngày càng nhiều với 6 đô thị lớn như Thăng Long (Hà Nội), Phố Hiến (Hưng Yên), Thanh Hà (Huế), Hội An (Quảng Nam), Nước Mặn (Bình Định) và Gia Định; nhưng tiêu biểu hơn cả là Thăng Long và Hội An.
- Văn hóa:
+ Tôn giáo: điểm mới là các tôn giáo không còn phát triển hưng thịnh như thời Lê sơ mà lại phát triển ở mức trung bình, gần như hòa nhập vào dân gian. Điểm mới tiếp theo là sự xuất hiện của Thiên Chúa giáo - tôn giáo mới của các giáo sĩ phương Tây, đã được truyền bá vào nước ta; Thiên Chúa giáo cũng trực tiếp cải tiến chữ viết của người Việt thành chữ Quốc ngữ
+ Văn học: phát triển mạnh với nhiều thể loại khác nhau, phát triển mạnh nhất là văn học dân gian. Chữ Nôm được sử dụng phổ biến, chính thức trở thành quốc tự vào thời Quang Trung hoàng đế
Câu 5:
a. Nêu ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945.
b. Nêu những bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam. Suy nghĩ của em về việc vận dụng những bài học kinh nghiệm đó trong công cuộc bảo vệ tổ quốc và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam hiện nay.
a. Ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945:
1. Nguyên nhân thắng lợi :
* Nguyên nhân khách quan: Cách mạnh tháng 8 nổ ra trong hoàn cảnh quốc tế vô cùng thuận lợi. Phe phát xít sau nhiều đợt tấn công dữ dội của quân Đồng minh đã buộc phải đầu hàng vô điều kiện. Ở Viễn Đông, phát xít Nhật đã phải đầu hàng đồng minh sau những đòn tấn công liên tiếp của Liên Xô và phải hứng chịu hai quả bom nguyên tử của Mĩ. Nghe tin chính phủ Nhật đầu hàng, quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu và chính phủ tay sai thân Nhật của Trần Trọng Kim hoang mang, rệu rã.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Đó là kết quả của 15 năm đấu tranh gian khổ, đầy hy sinh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, là kết quả tổng hợp của 3 cao trào cách mạng. Trong ba cao trào cách mạng, nhân dân được tập dượt về phương pháp và hình thức làm cách mạng cho phù hợp với tình hình mới. Và cũng qua các lần thất bại trong các cao trào cách mạng, nhân dân rút ra nhiều kinh nghiệm thực tiễn cho cách mạng và củng cố tình đoàn kết giữa các giai tầng trong xã hội Việt Nam. Tình đoàn kết là một đặc trưng nổi bật của lòng yêu nước trong tâm khảm người dân Việt Nam, được hình thành trong thời dựng nước và được phát huy trong việc xây dựng đất nước qua việc chiến thắng các tên đế quốc hùng mạnh, bảo vệ toàn vẹn bờ cõi Tổ quốc
- Đó là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng Cộng sản ngay từ khi ra đời đã nhanh chóng nắm vững ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trải qua 3 cao trào cách mạng, Đảng đút rút nhiều kinh nghiệm trong việc điều chỉnh đường lối cách mạng phù hợp với thực tiễn cách mạng trong nước; xác định được kẻ thù chính và định ra các phương pháp, hình thức cách mạng phù hợp để nhanh chóng tập hợp các giai tầng trong xã hội Việt Nam, họp thành trong một Mặt trận Dân tộc thống nhất gọi là Mặt trận Việt Minh (5/1941). Đảng cũng rất khôn khéo khi chỉ chọn hình thức đấu tranh chính trị là chủ yếu, đặt cao hơn đấu tranh vũ trang với lý do: lực lượng quân đội chưa có, mong muốn tập hợp lực lượng mạnh hơn vì mục đích chung. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện cơ bản, quyết định thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945.
2. Ý nghĩa lịch sử:
* Đối với dân tộc:
- Cuộc cách mạng này nhanh chóng lật đổ ách thống trị của kẻ thù chính là Nhật, xóa bỏ chế độ quân chủ Việt Nam tồn tại gần 1.000 năm (sự kiện Bảo Đại đế thoái vị) để lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việc lập một chính thể nhà nước như thế giúp chính phủ ta có nhiều thời gian để xây dựng lại đất nước, củng cố niềm tin của nhân dân vào chính quyền mới và tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến trường kỳ sẽ diễn ra sắp tới
- Cách mạng Tháng Tám đã đưa nước ta từ thân phận là nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập và có chủ quyền; đưa Đảng ta trở thành một Đảng cầm quyền (Đảng chính thức hoạt động công khai từ năm 1951 với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam); đưa dân tộc ta lên hàng các dân tộc tiên phong trên thế giới, được “sánh vai với các cường quốc năm châu” (theo Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ tịch)
- Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới cho cách mạng nước ta- kỷ nguyên của độc lập tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng tháng Tám là minh chứng hùng hồn cho vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản. Đây là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác- Lênin ở một nước thuộc địa.
* Đối với quốc tế:
- Cách mạng Tháng Tám đã nâng cao vị thế quốc tế của dân tộc Việt Nam. Lần đầu tiên một dân tộc nhược tiểu đã tự giải phóng khỏi ách thống trị của đế quốc thực dân Pháp và phát xít Nhật, lập nên nhà nước của dân – do dân – vì dân.
- Cách mạng Tháng Tám đã phá tan một mắt xích quan trọng của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Trước đó vào năm 1917, cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga do lãnh tụ Lenin lãnh đạo đã lật đổ ách thống trị của Sa hoàng và sau đó là chính quyền tư sản, thành lập nhà nước xã hội chủ nghĩa Nga đầu tiên do lãnh tụ Lenin lãnh đạo – mắt xích yếu nhất là đế quốc Nga bị phá đổ, tạo động lực cho các phong trào đấu tranh chống đế quốc - phong kiến ở các nước thuộc địa và phụ thuộc
- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc ở Á – Phi – Mỹ latinh
b. Nêu những bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam. Suy nghĩ của em về việc vận dụng những bài học kinh nghiệm đó trong công cuộc bảo vệ tổ quốc và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam hiện nay.
+ Những bài học kinh nghiệm:
Cách mạng tháng Tám thành công đã để lại cho Đảng ta và nhân dân Việt nam nhiều bài học quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc. Đó là những bài học chính sau đây:
- Một là: Gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Tuy 2 nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng chống đế quốc phải là nhiệm vụ hàng đầu, chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu thích hợp. Đường lối này đã được khẳng định trong đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và trở thành cương lĩnh của Đảng ta.
- Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh Công – Nông. Điều này được Đảng khẳng định từ các văn kiện đầu tiên sau khi thành lập ít lâu. Công – nông là nền tảng chính, nhưng cần biết đoàn kết với các giai tầng khác mới tạo thành sức mạnh tổng hợp chống kẻ thù chung
- Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Điều này thể hiện rõ trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám 1945. Khi quân Nhật chuẩn bị đảo chính Pháp vào tháng 3/1945, Đảng phân tích cụ thể tình hình và có những quyết định chính xác: Trong Chỉ thị Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định: “Hai con chó đế quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo bở như Đông Dương… Nhật phải hạ Pháp để trừ cái họa bị Pháp đánh sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ” – thể hiện một quyết định chính xác khi xác định kẻ thù chính trong khi có tới hai kẻ thù cùng nhảy vào Đông Dương. Khi xác định kẻ thù chính là phát xít Nhật, Đảng đã quyết định thay đổi khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”, tạm gác khẩu hiệu “tịch thu toàn bộ ruộng đất của địa chủ phong kiến”, chỉ tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn địa chủ làm tay sai cho đế quốc, phát-xít. Chủ trương này nhằm triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa đế quốc, phát xít với giai cấp địa chủ phong kiến, phân hóa nội bộ giai cấp địa chủ có lợi cho việc mở rộng Mặt trận đoàn kết dân tộc, tập trung chống kẻ thù chủ yếu (phát-xít Nhật), giành chính quyền về tay nhân dân.
- Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân. Đảng ta trước sau như một luôn dùng bạo lực cách mạng trong cách mạng Việt Nam, nhưng Đảng áp dụng rất linh hoạt chủ trương bạo lực cách mạng trong các tình hình cách mạng cụ thể và phù hợp với khả năng làm cách mạng của quảng đại quần chúng nhân dân
- Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chớp đúng thời cơ. Nghệ thuật chớp thời cơ diễn ra khi lực lượng quần chúng mạnh mẽ và được tập dượt kỹ càng về các phương pháp làm cách mạng; trong khi kẻ thù đang trên đà suy yếu và hoang mang cực độ. Thời cơ đến và qua đi rất nhanh, nên cần phải tận dụng cho phù hợp
Tóm lại: Thắng lợi của cách mạng tháng 8-1945 là kết quả tất yếu của 15 năm chuẩn bị chu đáo của Đảng ta, là kết quả của cuộc đấu tranh yêu nước rộng lớn của dân tộc, sự hy sinh anh dũng của đồng bào, đồng chí cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
+ Suy nghĩ của em về việc vận dụng những bài học kinh nghiệm đó trong công cuộc bảo vệ tổ quốc và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam hiện nay.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa với xu thế hội nhập đã đặt ra những thời cơ và thách thức mới với đất nước ta. Đất nước ta sau Đổi mới năm 1986 đến nay, đã xác định chính xác con đường đã chọn và đi đến đúng con đường đã chọn - đó là con đường xã hội chủ nghĩa. Dù trải qua bao nhiêu sóng gió trên con đường phát triển, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn tồn tại và đứng vững. Trong hoàn cảnh đó, những bài học của Cách mạng tháng Tám cần phải được giữ gìn, vận dụng và phát huy. Đó là:
- Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng – nhân tố quan trọng quyêt định đến thắng lợi của cach mạng VN, kiên trì đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo những nguyên lí của chủ nghĩa Mác – Lê nin trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, đặc biệt là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ.
- Tập hợp và đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại, kiên trì đường lối hòa bình, phát huy sức mạnh toàn diện trên tất cả các mặt trận, từ kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục,…
- Đồng thời, bài học chớp thời cơ của Cách mạng tháng Tám cũng đòi hỏi chúng ta vận dụng, tận dụng được những điều kiện hội nhập, mở cửa để tăng cường sức mạnh của dân tộc, đoàn kết quốc tế, sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
Câu 6: nêu cảm nghĩ của bạn khi xem clip về Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” mang tính chất và ý nghĩa lịch sử như hịch đánh giặc ngoại xâm của dân tộc ta trong thế kỉ XX, trong thời đại Hồ Chí Minh.
Văn bản này được viết trong một bối cảnh lịch sử khá sôi động của lịch sử Việt Nam: thời kỳ nước ta vừa xây dựng và vừa bảo vệ đất nước. Chúng ta còn nhớ, nếu tính từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, ngày Hồ Chủ tịch đọc Bản Tuyên ngôn độc lập đến đêm 19 tháng 12 năm 1946 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà non trẻ của dân tộc ta mới chỉ có 15 tháng 12 ngày. Trong thời gian ngắn ngủi đó, chính phủ ta đã cùng chung sức với nhân dân xây dựng chính quyền mới, xây dựng lại nền kinh tế và ổn định xã hội, phát triển nền văn hóa cách mạng; đồng thời thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo để từng bước đẩy lui từng kẻ thù một để tập trung vào một kẻ thù chính là Pháp, một cường quốc hùng mạnh. Vận mệnh của Tổ quốc ta, của dân tộc lúc bấy giờ thật vô cùng hiểm nghèo và nghiêm trọng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong đoạn hồi tưởng về những giờ phút lịch sử nghiêm trọng ấy đã ghi nhận: “Từ đêm hôm trước, đêm 19 tháng Chạp lịch sử, chiến tranh đã lan rộng ra cả nước ta. Hơn một năm sau ngày Nam Bộ đứng lên kháng chiến, tiếp theo các cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở Sơn La, Lạng Sơn, ở thành phố cảng Hải Phòng, nay đến lượt quân và dân ta ở Hà Nội nổ súng đánh trả quân xâm lược. Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Huế, Đà Nẵng... cũng đã vùng dậy chiến đấu cứu nước diệt thù. Cuộc kháng chiến toàn quốc đã bùng nổ”.
Trước tình thế hiểm nghèo và quân giặc ngày càng lấn tới đến mức không còn có thể nhân nhượng thêm một phút nào nữa, Chính phủ ta đã phát động cả nước kháng chiến bằng văn bản “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Ngay trong lời mở đầu của văn bản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chắc nịch năm chữ “
Hỡi đồng bào toàn quốc!” cất lên làm chấn động lòng người. Năm chữ đó thốt lên từ tâm can của một người nặng lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, một con người đã phải từ bỏ hạnh phúc riêng tư của bản thân mình để dấn thân vào sự nghiệp chung của cả nước, thật là khâm phục biết bao cho con người vĩ đại này !
Ở hai câu tiếp theo, Người lập luận chắc chắn với mục đích khơi dậy lòng yêu nước từ ngàn đời của nhân dân ta, quyết chiến đấu hi sinh để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Tự do hay là chết!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”.
Sau hai câu này, Người có một động tác rất sáng tạo – đó là chủ động kêu gọi sự tham gia cuộc kháng chiến nhiệt tình của các giai tầng trong xã hội Việt Nam. Việt Nam mới dộc lập chưa bao lâu thì Pháp lại xâm lược trở lại, chà đạp thô bạo mọi quyền, dù là quyền cơ bản nhất của mọi công dân Việt Nam là tự do độc lập thì nhân dân không còn con đường nào khác là phải đứng lên cùng chống lại kẻ thù chính là thực dân Pháp. Bác Hồ cố ý nhắc lại tinh thần đoàn kết như một đặc trưng cơ bản của lòng yêu nước, một công cụ hiệu quả để kêu gọi mọi giai tầng cùng nắm chặt tay nhau – cùng nhau đoàn kết chống lại kẻ thù chung. Có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh tổng hợp, như hình ảnh ví von của câu tục ngữ:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Đọc “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, ôn lại trang sử oai hùng thời 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 – 1954), những thế hệ người dân Việt Nam ngày nay và mai sau vô cùng tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc, nghiêng mình kính cẩn trước bao liệt sĩ đã “hi sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”.
“Dân ta gan dạ anh hùng,
Trẻ làm đuốc sống, già xông lửa đồn".
Tố Hữu