Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích Thân bài: 1. Khái quát vài nét về tác giả, tác phẩm
- Nguyễn Du: Sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động xã hội dữ dội
- Sinh ra trong một gia đình đại quí tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống văn học. Năm ông 9 tuổi thì mồ côi cha, 12 tuổi mồ côi mẹ.
- Có năng khiếu văn học bẩm sinh, ham học, có hiểu biết sâu rộng và từng trải, có vốn sống phong phú, là con người giàu lòng yêu thương
- "Truyện Kiều'' Được viết vào đầu thế kỉ XIX, dựa trên cốt truyện của tác phẩm "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Lúc đầu, truyện mang tên "Đoạn trường tân thanh" nghĩa là: tiếng kêu đau thương mới xé lòng
- Vị trí đoạn trích: Nằm ở phần đầu của tác phẩm "Truyện Kiều": gặp gỡ và đính ước. Đoạn trích miêu tả buổi du xuân của chị em Kiều. 2. Cảm nhận đoạn trích
''Ngàyxuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bướcdần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang''
a. Cảnh thiên nhiên mùa xuân
- Hai câu thơ đầu:
+ Hai câu thơ tả thời gian và cảm nhận về bước đi của thời gian. Cảnh ngày xuân tươi đẹp bắt đầu từ hình ảnh chim én đưa thoi. Cụm từ "đưa thoi" miêu tả cánh chim đang chao lịa trên bầu thời giống như những con thoi đang dệt lên bức tranh mùa xuân, đồng thời cụm từ ấy cũng gợi ra ấn tượng về sự chảy trôi của thời gian: nhanh, thấm thoát đã trôi qua rất nhanh
+ "Thiều quang" nghĩa là ánh sáng đẹp, thứ ánh sáng mang tới hi vọng, tràn trề sự sống
+ "Chín chục" - "Sáu mươi": số đếm cụ thể, mùa xuân có 90 ngày, bây giờ đã qua 60 ngày rồi, tác giả sử dụng số đếm như muốn nhấn mạnh thêm sự trôi chảy của thời gian. Cùng với các từ "đã", "ngoài", tác giả đã khéo léo diễn tả sự bâng khuâng, nuối tiếc, giục giã con người sống nhanh lên kẻo mùa xuân đang ở độ chín nhất, căng tràn sức sống nhất
+ Chỉ bằng vài nét phác thảo, không gian đã hiện ra thật khoáng đạt với bầu trời cao rộng, quáng đãng, sáng sủa, điểm vào đó là vài cánh én tự do
- Hai câu sau: "Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
+ Cỏ "non xanh": màu xanh của sức sống mãnh liệt, căng tràn nhựa sống
+ Không chỉ là nhánh cỏ, bụi cỏ mà là cả một chân trời "cỏ": giãn nở không gian vô cùng vô tận
+ Bức tranh mùa xuân hiện lên đầu tiên với gam màu xanh tươi mát của thảm cỏ trải rộng đến chân trời. Toàn bộ không gian như nhuốm cả sự sống căng tràn, mãnh liệt ấy. Trên nền xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng.
-> Tất cả tạo nên một bức trang diễm lệ với màu sắc hài hoà, thanh nhã đẹp đến tuyệt diệu.
+ Đảo ngữ "trắng điểm" kết hợp với từ "điểm" như càng nhấn mạnh hơn sắc trắng trong trẻo của hoa lê. Điều đặc biệt là sự xuất hiện của hoa lê của loáng thoáng, không nở rộ, lộ liễu, cảnh vật dường như có hồn hơn, như một người con gái đẹp e ấp, ngại ngùng.
- Sự phối hợp giữa màu xanh và trắng (hai gam màu sáng) qua tay của Nguyễn Du đã gợi ra một bức tranh xuân nhẹ nhàng, thanh khiết.
- Liên hệ với hai câu thơ cổ cũng viết về mùa xuân "Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa":
+ Hai ý thơ đều gợi tả, miêu tả được nét đẹp trong trẻo của mùa xuân, ở đó có cỏ, có hoa lê và trời xanh
+ Ở câu thơ của Nguyễn Du, ta lại thấy thêm nét đặc sắc hơn: bức tranh xuân trải tới chân trời với một sức sống mãnh liệt, tất cả cảnh vật sinh động như có hồn chứ không tĩnh tại như hai câu thơ cổ b. Cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh
- Hai câu đầu:
+ Hai câu thơ đầu sử dụng tiểu đối "lễ là..." - "hội là...." cùng với nghệ thuật tách từ "lễ hội", "lễ tảo mộ" là lòng biết ơn, sự tri ân đối với quá khứ, tổ tiên, "hội đạp thanh" là ngày vui của mùa xuân. Qua đó, tác giả đã miêu tả hai hoạt động cùng xảy ra trong ngày xuân, đồng thời việc tách từ cũng khiến câu thơ trở nên mềm mại, mượt mà hơn
- Sáu câu tiếp:
+ Không khí tưng bừng, tấp nập của ngày lễ hội được miêu tả một cách chi tiết, làm rộn lên không khí náo nức bằng sự kết hợp tàu tình các từ ghép (chị em, gần xa, yến anh) và từ láy (nô nức, sắm sửa, dập dìu) -> Qua đó mà ta thấy được tâm trạng náo nức tươi vui trong lòng người đi du xuân
+ Nghệ thuật ẩn dụ "nô nức yến anh" gợi hình ảnh từng đoàn người đu chơi xuân đông đúc, dập dìu như chim yến chim oanh mà trong đó chủ yếu là nam thanh nữ tú, cũng như thế mà gợi ra những cuộc trò chuyện xôn xao náo nức tình tứ của những đôi uyên ương
+ Biện pháp so sánh "Ngựa xe như nước, áo quần như nêm" gợi sự đông đúc của từng đoàn người chen nhau đi chơi xuân
+ Hai câu thơ còn lại như trái ngược với bốn câu thơ ở trên, nó là khoảng lặng trong ngày xuân. Không còn là không khí náo nhiệt, vui cười như trước đó mà ở đây là sự tri ân, nhớ về người thân đã khuất, cúng bái ông bà tổ tiên, đốt vàng vó, tiền giấy cho người đã mất -> Gợi truyền thống đẹp của nhân dân ta: uống nước nhớ nguồn c. Cảnh buổi chiều ngày xuân
- Cảnh hoàng hôn hiện ra với hình ảnh mặt trời từ từ lăn ánh nắng cuối ngày đang tắt, không gian trở nên ảm đạm, mờ tối dần. Cảnh vẫn đẹp, vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, dịp cầu nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển động nhẹ nhàng như chậm lại, cảnh vật thay đổi, thời gian, không gian cũng thay đổi: mặt trời từ từ ngả về Tây, bước chân người thơ thẩn,..
- Cả một không gian êm đềm, vắng lặng, cái không khí rộn ràng tưng bừng của lễ hội không còn nữa. Hội tan sao chẳng buồn? Ngày tàn sao chẳng chán? Nhịp thơ như chậm lại, lắng đọng lại, nhịp sống cũng như ngừng trôi
- Hình ảnh "tiểu khê", nhịp cầu "nho nhỏ": không gian dường như nhỏ bé, thu hẹp lại, lắng vào chiều sâu
- Một loạt hệ thống từ láy được sử dụng "tà tà", "thơ thẩn", "thanh thanh", "nao nao", "nho nhỏ" diễn tả cảnh vật có tâm hồn đồng điệu với con người tao nhã nhưng chứa đựng cái buồn không nói hết. Có thể thấy ở đây, cảnh được cảm nhận bằng tâm trạng nhân vật -> bút pháp tả cảnh ngụ tình
- Qua cảnh vật, tâm trạng con người cũng được diễn tả rõ hơn, đậm nét hơn: lưu luyến, tiếc nuối, bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui sắp tàn. Cảnh được cảm nhận qua tâm trạng nhân vật nên mang cái lưu luyến, cái xuyến xao của con người. Ngày vui đã trôi qua sao mà nhanh quá. Và cũng từ cảm xúc đó mà đoạn thơ này như dự cảm báo trước cho cuộc sống đầy bất trắc sau này, mở ra quãng thời gian lưu lạc 15 năm của Kiều. Kết bài: Tổng kết nội dung, nghệ thuật