C
chieclabuon_35
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!! ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
chào những người yêu văn. Hôm nay mình lập ra chủ đề này với mong muốn là nâng cao trình độ văn của mỗi người thông qua việc tăng cường khả năng làm văn.
Viết văn nhiều cũng là một cách nâng cao khả năng làm văn của mỗi người.
Trong chủ đề này, mỗi người hãy viết và đưa ra những bài văn của mình để mọi người cùng tham gia góp ý và sửa chữa, như vậy việc học văn sẽ có tiến bộ rất nhanh.
Tuy nhiên, chủ đề này với mục đích nâng cao khả năng chính bản thân vì vậy nghiêm cấm hành vi sao chép bài văn nhằm mục đích không tốt.
****************
đầu tiên mình sẽ đăng một bài văn của mình. ( Xin lỗi trước vì mình viết văn không hay lắm)
PHÂN TÍCH HAI KHỔ THƠ GIỮA BÀI THƠ TRÀNG GIANG CỦA HUY CẬN
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong Thơ mới. trước cách mạng, ông được biết đến với một hồn thơ ảo não, chất chứa nỗi sầu. Tràng Giang trong mạch cảm xúc ấy. nhắc đến Tràng Giang, có thể nói hay nhất, đặc sắc nhất là hai khổ thơ giữa của bài thơ
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Song dài trời rộng bến cô lieu
Bèo dạt về đâu hang nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Tràng Giang được sáng tác vào mùa thu năm 1938 như chính Huy Cận đã từng tâm sự, khi ấy ông còn là sinh viên trường CĐ Canh nông. Cứ chiều chiều, Huy cận lại đạp xe ra bờ nam bến chem. Nhìn song nước mà nghĩ về kiếp người nhỏ bé. Vì vậy, trang giang là một bài thơ tình gặp cảnh. Cảnh trong thơ cũng chính là tâm trạng của thi nhân. Đó là nỗi buồn sầu, cô đơn trước trước thiên nhiên rộng lớn và quê hương đất nước thầm kín của huy cận. hai khổ thơ giữa của bài, 2 khổ thơ là bức tranh thiên nhiên buồn, vắng qua đó thể hiện nỗi sầu và cô đơn trong lòng nhà thơ
Khổ thơ được mở đầu bằng hình ảnh cồn cát:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu.
Câu thơ được dồn nén trong cặp từ láy“lơ thơ” và “đìu hiu”. Từ “lơ thơ” vốn đã gợi nên sự thưa thớt nay lại kết hợp với hình ảnh cồn nhỏ lại càng gợi lên sự vắng vẻ, hiu quạnh. ấn tượng về sự hiu quanh được nhấn mạnh trong từ “đìu hiu” Hình ảnh thơ “gió đìu hiu” chịu ảnh hưởng từ bài Chinh phụ ngâm( bản dịch của Đoàn Thị Điểm)
Non Kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
. Từ“đìu hiu” gợi lên không khí buồn bã thê lương. Câu thơ đầu tiên mở đầu bằng từ láy gợi sự buốn vắng, kết thúc cũng bằng một từ láy gợi buồn đã gợi lê một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng, hiu quạnh
Và trong khung cảnh ấy, như một lẽ thường tình, con người sẽ đi tìm đến dấu vết của sự sống, và nhà thơ Huy Cận cũng không phải ngoại lệ, nhà thơ tìm đến tín hiệu của âm thanh cuộc sống :
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Không có gì vui bằng cảnh họp chơ buổi sớm nhưng cũng không gì buồn hơn cảnh chợ chiều. nhất là ở đây, chợ lại đang “vãn”dù sao đó cũng là tín hiệu của sự sống con người. nhưng âm thành dù là buồn bã ấy lại được phủ định hoàn toàn bằng từ “không”. Dung từ phủ định “không” để khẳng định sự im lặng tuyệt đối của không gian. Câu thơ gợi lên một âm điệu thảng thốt, niềm hi vọng về sự sống dù là nhỏ bé cũng không thể trở thành hiện thực
Quay trở về thực tại, nhà thơ lại đối mặt với cảnh thiên nhiên rộng lớn
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô lieu
Hình ảnh thiên nhiên được xây dựng bằng tài năng sử dụng ngôn từ độc đáo. Chót vót vốn là tính từ dung để miêu tả độ cao, nay lại được kết hợp với từ “sâu”, tạo nên một hình ảnh rất độc đáo: sâu chót vót. Hình ảnh thơ ấy kết hợp với cụm “nắng xuống trời lên” khiến cho không gian được mở rộng ra 2 chiều : chiều cao và chiều sâu. Chiều nào cũng hun hút, thăm thẳm. Không gian tiếp tục được mở rộng ra bằng hình ảnh “sông dài” và “trời rộng” trở nên mênh mông hơn. Hai câu thơ đã gợi ra một khung cảnh thiên nhiên 3 chiều, vừa có chiều dài, vừa có chiều rộng lại vừa có chiều sâu. Tuy nhiên trong không gian rộng lớn ấy, ta lại chỉ thấy co một điểm rất nhỏ bé, đó là bến cô lieu rất trơ trọi. ở đây ta thấy được thủ pháp đối của nhà thơ huy cận, đó là sự đối lập giữa không gian rộng lơn với bến cô liêu. Đây cũng chính là sự đối lập giữa cái tôi bé nhỏ với thiên nhiên, cuộc sống vô tận, rộng lớn.
Nếu như khổ thư thứ hai miêu tả không gian mênh mông thì đến khổ thơ thứ 3 tác giả hướng cái nhìn về dòng tràng giang. Khổ thơ bắt đầu bằng hình ảnh những cánh bèo:
Bèo dạt về đâu hang nối hang
Trước đó, ở khổ thơ đầu của bài thơ, nỗi buồn, nỗi sầu chỉ xuất hiện ở trong những hình ảnh mang tính cá thể: con thuyền, củi khô. Đến đây, cảm xúc đã bao trùm lên hình ảnh mang tính tập thể: đó là những hàng bèo. Cánh bèo trong thơ ca vốn là biểu tượng cho kiếp đời mỏng manh, nhỏ nhoi, trôi nổi. Ơ đây không phải là một cánh bèo mà là từng hàng. Nhưng nó không hề gợi lên sự đông vui nhon nhip. Ngược lại cấu trúc “hàng nối hàng” lại thể hiện sự lặng lẽ, tẻ nhạt. Câu hỏi tu từ “về đâu” nói lên sự vô định, không bờ bến của những cánh bèo kia. Phải chăng đó chính là sự vô định của cả một lớp thế hệ trí thức như Huy Cận giai đoạn 1930-1945: như Xuân Diệu với hình ảnh thơ “mây biếc về đâu bay gấp gấp. Con cò trên ruộng cánh phân phân”, và cả Tố Hữu trước khi được giác ngộ cách mạng cũng mang trong mình tâm trạng như vậy “bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước. Chọn một dòng hay để nước trôi”,...
Và trong sự lãng lẽ, tẻ nhạt ấy, Huy Cận tìm đến một hình ảnh gợi sự kết nối:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Đò và cầu vốn là phưng tiện để nối hai bờ sông. ở đây nó lại mang nghĩa ẩn dụ là phương tiện để tạo nên mối giao hòa thân tình giữa người với người. Sự xuất hiện của hai từ phủ định “không” lien tiếp đã xác nhận trạng thái đơn độc, hoang vắng đến tuyệt đối, không hề có chiếc cầu cũng không một chuyến đò, bóng dáng của sự sống đã hoàn toàn bị phủ định. Câu thơ cuối của khổ như một tiếng thơ dài buồn bã:
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Không gian một lần nữa lại được tô đậm vẻ buồn vắng tẻ nhặt qua từ lặng lẽ và hình ảnh “bờ xanh” , “bãi vàng”. Màu xanh nối tiếp với màu vàng của bãi khiến cho bức tranh thiên nhiên trở nên hoang tàn, nhạt nhòa dần. Bức tranh ấy cũng chính là phản chiếu của tâm hồn thi nhân, một tâm hồn cô đơn, trống trải và buồn tẻ.
mọi người cứ sửa chữa phê bình thoải mái nha
Viết văn nhiều cũng là một cách nâng cao khả năng làm văn của mỗi người.
Trong chủ đề này, mỗi người hãy viết và đưa ra những bài văn của mình để mọi người cùng tham gia góp ý và sửa chữa, như vậy việc học văn sẽ có tiến bộ rất nhanh.
Tuy nhiên, chủ đề này với mục đích nâng cao khả năng chính bản thân vì vậy nghiêm cấm hành vi sao chép bài văn nhằm mục đích không tốt.
****************
đầu tiên mình sẽ đăng một bài văn của mình. ( Xin lỗi trước vì mình viết văn không hay lắm)
PHÂN TÍCH HAI KHỔ THƠ GIỮA BÀI THƠ TRÀNG GIANG CỦA HUY CẬN
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong Thơ mới. trước cách mạng, ông được biết đến với một hồn thơ ảo não, chất chứa nỗi sầu. Tràng Giang trong mạch cảm xúc ấy. nhắc đến Tràng Giang, có thể nói hay nhất, đặc sắc nhất là hai khổ thơ giữa của bài thơ
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Song dài trời rộng bến cô lieu
Bèo dạt về đâu hang nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Tràng Giang được sáng tác vào mùa thu năm 1938 như chính Huy Cận đã từng tâm sự, khi ấy ông còn là sinh viên trường CĐ Canh nông. Cứ chiều chiều, Huy cận lại đạp xe ra bờ nam bến chem. Nhìn song nước mà nghĩ về kiếp người nhỏ bé. Vì vậy, trang giang là một bài thơ tình gặp cảnh. Cảnh trong thơ cũng chính là tâm trạng của thi nhân. Đó là nỗi buồn sầu, cô đơn trước trước thiên nhiên rộng lớn và quê hương đất nước thầm kín của huy cận. hai khổ thơ giữa của bài, 2 khổ thơ là bức tranh thiên nhiên buồn, vắng qua đó thể hiện nỗi sầu và cô đơn trong lòng nhà thơ
Khổ thơ được mở đầu bằng hình ảnh cồn cát:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu.
Câu thơ được dồn nén trong cặp từ láy“lơ thơ” và “đìu hiu”. Từ “lơ thơ” vốn đã gợi nên sự thưa thớt nay lại kết hợp với hình ảnh cồn nhỏ lại càng gợi lên sự vắng vẻ, hiu quạnh. ấn tượng về sự hiu quanh được nhấn mạnh trong từ “đìu hiu” Hình ảnh thơ “gió đìu hiu” chịu ảnh hưởng từ bài Chinh phụ ngâm( bản dịch của Đoàn Thị Điểm)
Non Kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
. Từ“đìu hiu” gợi lên không khí buồn bã thê lương. Câu thơ đầu tiên mở đầu bằng từ láy gợi sự buốn vắng, kết thúc cũng bằng một từ láy gợi buồn đã gợi lê một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng, hiu quạnh
Và trong khung cảnh ấy, như một lẽ thường tình, con người sẽ đi tìm đến dấu vết của sự sống, và nhà thơ Huy Cận cũng không phải ngoại lệ, nhà thơ tìm đến tín hiệu của âm thanh cuộc sống :
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Không có gì vui bằng cảnh họp chơ buổi sớm nhưng cũng không gì buồn hơn cảnh chợ chiều. nhất là ở đây, chợ lại đang “vãn”dù sao đó cũng là tín hiệu của sự sống con người. nhưng âm thành dù là buồn bã ấy lại được phủ định hoàn toàn bằng từ “không”. Dung từ phủ định “không” để khẳng định sự im lặng tuyệt đối của không gian. Câu thơ gợi lên một âm điệu thảng thốt, niềm hi vọng về sự sống dù là nhỏ bé cũng không thể trở thành hiện thực
Quay trở về thực tại, nhà thơ lại đối mặt với cảnh thiên nhiên rộng lớn
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô lieu
Hình ảnh thiên nhiên được xây dựng bằng tài năng sử dụng ngôn từ độc đáo. Chót vót vốn là tính từ dung để miêu tả độ cao, nay lại được kết hợp với từ “sâu”, tạo nên một hình ảnh rất độc đáo: sâu chót vót. Hình ảnh thơ ấy kết hợp với cụm “nắng xuống trời lên” khiến cho không gian được mở rộng ra 2 chiều : chiều cao và chiều sâu. Chiều nào cũng hun hút, thăm thẳm. Không gian tiếp tục được mở rộng ra bằng hình ảnh “sông dài” và “trời rộng” trở nên mênh mông hơn. Hai câu thơ đã gợi ra một khung cảnh thiên nhiên 3 chiều, vừa có chiều dài, vừa có chiều rộng lại vừa có chiều sâu. Tuy nhiên trong không gian rộng lớn ấy, ta lại chỉ thấy co một điểm rất nhỏ bé, đó là bến cô lieu rất trơ trọi. ở đây ta thấy được thủ pháp đối của nhà thơ huy cận, đó là sự đối lập giữa không gian rộng lơn với bến cô liêu. Đây cũng chính là sự đối lập giữa cái tôi bé nhỏ với thiên nhiên, cuộc sống vô tận, rộng lớn.
Nếu như khổ thư thứ hai miêu tả không gian mênh mông thì đến khổ thơ thứ 3 tác giả hướng cái nhìn về dòng tràng giang. Khổ thơ bắt đầu bằng hình ảnh những cánh bèo:
Bèo dạt về đâu hang nối hang
Trước đó, ở khổ thơ đầu của bài thơ, nỗi buồn, nỗi sầu chỉ xuất hiện ở trong những hình ảnh mang tính cá thể: con thuyền, củi khô. Đến đây, cảm xúc đã bao trùm lên hình ảnh mang tính tập thể: đó là những hàng bèo. Cánh bèo trong thơ ca vốn là biểu tượng cho kiếp đời mỏng manh, nhỏ nhoi, trôi nổi. Ơ đây không phải là một cánh bèo mà là từng hàng. Nhưng nó không hề gợi lên sự đông vui nhon nhip. Ngược lại cấu trúc “hàng nối hàng” lại thể hiện sự lặng lẽ, tẻ nhạt. Câu hỏi tu từ “về đâu” nói lên sự vô định, không bờ bến của những cánh bèo kia. Phải chăng đó chính là sự vô định của cả một lớp thế hệ trí thức như Huy Cận giai đoạn 1930-1945: như Xuân Diệu với hình ảnh thơ “mây biếc về đâu bay gấp gấp. Con cò trên ruộng cánh phân phân”, và cả Tố Hữu trước khi được giác ngộ cách mạng cũng mang trong mình tâm trạng như vậy “bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước. Chọn một dòng hay để nước trôi”,...
Và trong sự lãng lẽ, tẻ nhạt ấy, Huy Cận tìm đến một hình ảnh gợi sự kết nối:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Đò và cầu vốn là phưng tiện để nối hai bờ sông. ở đây nó lại mang nghĩa ẩn dụ là phương tiện để tạo nên mối giao hòa thân tình giữa người với người. Sự xuất hiện của hai từ phủ định “không” lien tiếp đã xác nhận trạng thái đơn độc, hoang vắng đến tuyệt đối, không hề có chiếc cầu cũng không một chuyến đò, bóng dáng của sự sống đã hoàn toàn bị phủ định. Câu thơ cuối của khổ như một tiếng thơ dài buồn bã:
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Không gian một lần nữa lại được tô đậm vẻ buồn vắng tẻ nhặt qua từ lặng lẽ và hình ảnh “bờ xanh” , “bãi vàng”. Màu xanh nối tiếp với màu vàng của bãi khiến cho bức tranh thiên nhiên trở nên hoang tàn, nhạt nhòa dần. Bức tranh ấy cũng chính là phản chiếu của tâm hồn thi nhân, một tâm hồn cô đơn, trống trải và buồn tẻ.
mọi người cứ sửa chữa phê bình thoải mái nha
Last edited by a moderator: