Cổng làng, đối với người xưa, có sự gắn bó sâu sắc, thể hiện tình cảm thiêng liêng với quê hương xứ sở. Xưa, Lương Văn Can, người sáng lập ra phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907), quê ở làng Nhị Khê, Thường Tín, mỗi khi về quê, qua cổng làng là cổng Quốc, có đề bốn chữ “Như kiến đại tân” (Như được đón khách quý), nếu đi xe tay, đến cổng Quốc, ông đều xuống xe, đi bộ về nhà. Mặc dù theo lệ làng phải đến gần đền thờ Nguyễn Trãi, gọi là đền ông Khai Quốc, có tấm bia hạ mã, người đi xe mới phải xuống xe đi bộ qua đền, rồi qua đền lại được lên xe đi tiếp. Tình cảm sâu nặng với quê hương, trân trọng các bậc tiên liệt của người quê, mỗi khi qua cổng làng đáng quý, đáng trọng biết bao. Trải qua bao đời, những tình cảm ấy, gắn với cây đa, giếng nước, ao làng, gắn với những ngôi đình, ngôi chùa cổ, đã trở thành hồn quê, mang sức sống và bản lĩnh của làng, trở thành sức mạnh vật chất, chống lại kẻ thù, mỗi khi đất nước bị xâm lược. Nhờ vậy mà ở những thời kỳ dân tộc ta bị mất nước nhưng làng thì không bao giờ mất. Và lẽ sống của người làng được ghi tạc ở cổng làng, luôn sáng ngời những giá trị chân, thiện, mỹ. Đó chính là một diện mạo mang bản sắc độc đáo của văn hoá làng. Chúng tôi mong được các nhà nghiên cứu tiếp tục đi sâu, tìm hiểu một cách toàn diện, để có được những đánh giá đầy đủ, sâu sắc hơn về một loại hình văn hoá cổng làng, hiện nay đang có nguy cơ bị mai một trước xu thế đô thị hoá nông thôn. Chúng tôi trân trọng đề nghị khi làm quy hoạch làng xã phải đưa những cổng làng truyền thống vào quy hoạch bảo tồn, không được phá dỡ để xây những công trình mới. Những cổng làng đang bị xuống cấp phải kịp thời tu bổ tôn tạo. Đồng thời cũng phải tôn tạo cảnh quan, tạo nên không gian văn hoá có phong cảnh đẹp. Tất cả nhằm giữ lại cái hồn cốt của làng quê truyền thống Hà Tây, mang bản sắc độc đáo của văn hoá làng. (Báo Văn nghệ)
Hà Tây!!!---> Sắp nhập vào HNội---> Lưu giữ làm kỷ niệm hehe!