Sử 6 $\color{BLUE}{\fbox{LỊCH SỬ}\bigstar\text{TỔNG HỢP THÔNG TIN LỊCH SỬ}\bigstar}$

  • Thread starter quynh2002ht
  • Ngày gửi
  • Replies 13
  • Views 2,104

Q

quynh2002ht

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Nước vạn xuân
544 :Thành lập nước Vạn Xuân, nhà nước độc lập tự chủ thời tiền Lý. In

Thiên Đức năm thứ nhấtTháng giêng năm Giáp tý (tức tháng 2 năm 544), Lý Bí tuyên bố dựng nước độc lập, với Quốc hiệu Vạn Xuân, tự xưng là Nam Việt Đế, đóng đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay).

Thiên Đức năm thứ nhất

Tháng giêng năm Giáp tý (tức tháng 2 năm 544), Lý Bí tuyên bố dựng nước độc lập, với Quốc hiệu Vạn Xuân, tự xưng là Nam Việt Đế, đóng đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay). Triều đình của Lý Nam Đế tuy mới thành lập nhưng đã có đủ hai ban văn, võ. Ban văn do Tinh Thiều đứng đầu; Ban võ do Phạm Tu đứng đầu. Lão tướng Triệu Túc làm Thái phó. Con Triệu Túc là Triệu Quang Phục làm Đại tướng. Lý Bí cho dựng điện Vạn Xuân để làm nơi triều hội, dựng chùa Khai Quốc ở bên bờ sông Hồng, phía Yên Phụ ngày nay.

Cuối năm 544, triều đình nhà Lương cho Lan Khâm làm tướng, Âu Dương Nguy làm phó tướng đem quân sang đánh chiếm Giao Châu. Nhưng Lan Kham đưa quân vượt Ngũ Lĩnh thì chết. Đoàn quân xâm lược này phải quay trở lại.
 
Q

quynh2002ht

Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân

đinh bộ lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân
Đinh Bộ Lĩnh người làng Đại Hữu (huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) là con trai của thứ sử Đinh Công Trứ. Từ nhỏ đã có chí lớn và có tài lãnh đạo nên rất được nhiều người kính nễ. Thanh thế nghĩa quân của Đinh Bộ Lĩnh không ngừng lan rộng, khiến Nam Tấn vương phải lo sợ. Đến năm 967, nghĩa quân của Đinh Bộ Lĩnh đánh đâu thắng đấy, loạn 12 sứ quân cũng được Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong.

Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua năm 968, tự xưng là hoàng đế (thường gọi là Đinh Tiên Hoàng), lấy niên hiệu là Thái Bình, đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), xây dựng triều chính, mở đầu triều Đinh.

Triều Đinh đến năm 979, nội bộ suy thoái. Đinh Tiên Hoàng và con trưởng là Đinh Liễn bị giết hại. Đinh Toàn (mới 6 tuổi lên nối ngôi). Các tướng lĩnh trong triều chia thành nhiều phe phái tranh giành quyền lực lẫn nhau. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn sau khi tiêu diệt Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, đã nắm trọn quyền bính trong tay.
 
Q

quynh2002ht

Lý Nam Đế giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục

Lý Nam Đế giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục
Thiên Đức năm thứ baTướng giặc Dương Phiêu đem đại quân vào được đất Giao Châu.

Thiên Đức năm thứ ba

Tướng giặc Dương Phiêu đem đại quân vào được đất Giao Châu. Đầu năm này, hắn cho một cánh quân đánh cướp Cửu Chân, còn tự mình dẫn đại quân lên tiếp sức cho Trần Bá Tiên vây đánh thành Gia Ninh. Ngày 25/2/546, quân vũ dũng của Trần Bá Tiên, có hậu quân Dương Phiêu tới phối hợp, bao vây công phá, cuối cùng đã hạ được thành Gia Ninh. Lý Nam Đế cùng các tướng lĩnh đem toàn quân rút khỏi thành Gia Ninh tiến vào miền đông Man Lão ở Tân Xương (miền đồi núi trên lưu vực sông Lô thuộc Phú Thọ ngày nay). Dựa vào núi rừng Việt Bắc, ngoài số binh lính còn lại sau trận thất thủ ở Gia Ninh, Lý Nam Đế tuyển mộ thêm được nhiều nghĩa quân, hạ nhiều cây rừng, xẻ ván đóng thuyền. Quân giặc Lương không giám đuổi theo, chỉ đóng ở vùng cửa sông Bạch Hạc.

Tháng 8 (âl)

Lý Nam Đế và các tướng kéo đại quân từ Động Lão ra hạ thủy trại ở hồ Điển Triệt (Đầm Miêng, thuộc xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc), đóng nhiều thuyền bè, định mở nhiều trận đánh lớn với giặc. Nhưng không mai, một đêm nước lũ tràn về, nước sông dâng lên cao, chảy xiết vào hồ Điển Triệt như thác đổ. Nắm lấy cơ hội ấy, Bá Tiên dốc hết quân theo dòng thác ào ạc tiến quân vào. Quân Lý Nam Đế không đối phó kịp, tan vỡ. Lý Nam Đế vược qua hữu ngạn sông Lô và vượt sông Thao rút vào vùng động Khuất Lão (Tam nông, Phú Thọ). Tại đây, vì bị đau yếu luôn, ông giao binh quyền cho Triệu Quan Phục tiếp tục cầm quân đánh giặc.
 
Q

quynh2002ht

hậu Lý Nam Đế

555 - 571 :Nhà nước thời Hậu Lý Nam Đế

Năm 555 Đào Lang vương Lý Thiên Bảo mất ở động Dã Năng không có con nối quyền nên Lý Phật Tử lên thay

Năm 557 Lý Phật Tử gây chiến với Việt Vương Triệu Quang Phục. Sau năm lần giáp chiến không phân thắng bại hai bên giảng hòa chia đất và cùng kết mối thông gia. Năm 571 Lý Phật Tử bất ngờ cho quân đánh úp, chiếm đoạt toàn bộ quyền hành và đất đai thuộc quyền quản lý của Triệu Quang Phục. Lý Phật Tử cũng tự xưng là Lý Nam Đế nên sử củ gọi là hậu Lý Nam Đế đóng ở Phong Châu.

Năm 557 ở Trung Quốc tướng Trần Bá Tiên diệt nhà Lương lên làm vua lập ra nhà Trần xưng là Trần Vũ Đế (557-589).
 
Q

quynh2002ht

Khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ

905 – 906 :Khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ thắng lợi, giành quyền tự chủ cho dân tộc.
Triều đại nhà Đường sắp sụp đổ, Trung Quốc rơi vào thời kỳ đại loạn sử cũ gọi là thời kỳ Ngũ đại Thập quốc (5 đời 10 nước) (*). Việc cai trị ở An Nam trở nên lỏng lẻo. Năm này, có lệnh bãi chức Tiết độ sứ Chu Toàn Dục vì sự bất lực của y. Độc Cô Tổn, trọng thần của hoàng đế Chiêu Tông nhà Đường cử sang An Nam thay Chu Toàn Dục, là người nhiều tham vọng và gian tham nổi tiếng là “Ngục Thượng thư” (tên Thượng thư độc ác)

Tháng 6 (âl)

Cuộc tranh giành phe phái trong hàng ngũ thống trị khiến Độc Cô Tổn bị biếm chức. Viên Tiết độ sứ cuối cùng của nhà Đường phải bỏ trốn ra đảo Hải Nam và bỏ mạng ở đấy.

Nhân cơ hội ở An Nam không có viên quan cai trị vì nhà Đường đang trong cơn hấp hối, Khúc Thừa Dụ, một hào trưởng có thế lực lâu đời ở đất Hồng Châu (Ninh Giang, Hải Dương), đã nhanh chóng đứng ra lãnh đạo nhân dân nổi lên đánh đuổi bọn đô hộ nhà Đường, chiếm thành Đại La, dựng quyền tự chủ cho đất nước. Khúc Thừa Dụ cũng tự xưng là Tiết độ sứ.

Ngày 11 tháng giêng (tức 7/2/906) Trước hành động quyết liệt của nhân dân Giao Châu, nhà Đường buộc phải phong chức “Đồng bình chương sự” cho Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ, thừa nhận người Việt cai quản đất Việt
.
 
Q

quynh2002ht

Khúc Thừa Dụ mất

907 (Đinh Mão) :Khúc Thừa Dụ mất
Tháng 6 (âl) Khúc Thừa Dụ mất
Tháng 7 (âl) Khúc Hạo (con Khúc Thừa Dụ) lên thay giữ chức Tiết độ sứ. lúc này Trung Quốc Chu Ôn cướp ngôi nhà Đường, lập ra nhà Hậu Lương. Nhà Hậu Lương cũng buộc phải thừa nhậ
n Khúc Hạo làm Tiết độ sứ.
Là nhà cải cách và tổ chức quản lý giỏi, Khúc Hạo đã chia đặt lại các lộ, phủ, châu, giáp và xã ở các xứ. Chú trọng cấp hành chính ở cơ sở, ở giáp Khúc Hạo đặt ra các chức Quản giáp và Phó tri giáp, ở xã đặt ra chức Chánh lệnh trưởng và tá (phó) lệnh trưởng; bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên quê quán giao cho giáp trưởng trông coi; lấy “khoan, giản, an, lạc” (khoan dung, giản dị, yên ổn, vui vẻ) làm phương châm cai trị đất nước.
 
Q

quynh2002ht

Quân Nam Hán xâm lược nước Việt.

930 (Canh Dần) :Quân Nam Hán xâm lược nước Việt.


Năm 930, vua Nam Hán là Lưu Cung sai Lương Khắc Trinh (tức Lý Khắc Chính) đem quân sang đánh cướp nước Việt. Khúc Thừa Mỹ chống đở không nổi, bị bắt đưa về Trung Quốc. Quân Nam Hán chiếm Đại La, lại tiến vào châu Ái, châu Hoan (Bắc Trung Bộ) tấn công Champa. Vua Nam Hán cử Lý Tiến làm Thứ sử, cùng Lương Khắc Trinh cai quản, đóng giữ Giao Châu.

Tuy nhà Hán tái chiếm đất Việt, nhưng bộ máy thống trị chỉ tồn tại được ở vùng quanh Đại La, và phía Bắc.
 
Q

quynh2002ht

Dương Đình Nghệ khởi nghĩa

931 (Tân Mão) :Dương Đình Nghệ khởi nghĩa thắng lợi.​


Nhà Nam Hán tái chiếm đất Việt, nhưng thực tế bộ máy thống trị chỉ tồn tại được ở vùng quanh Đại La và phía bắc.

Năm này, ở Dương Xá (Thanh Hóa), hào trưởng Dương Đình Nghệ (*), một tướng cũ của họ Khúc, tăng tích cực xây dựng lực lượng lo việc giải phóng đất nước. Trước hết ở hương Dương Đình Nghệ có đến 3.000 tráng sĩ làm nha binh.

Tháng 2 (âl)

Dương Đình Nghệ tiến ra đánh Đại La. Nhà Nam Hán sai Thừa chỉ Trình Bảo đem quân sang cứu, quân tiếp viện chưa kịp tới thì Dương Đình Nghệ đánh chiếm xong Đại La, giết chết Lương Khắc Trinh, đuổi Lý Tiến chạy dài. Sau đó, Dương Đình Nghệ giao chiến với quân cứu viện Nam Hán ở ngoài thành Đại La, giết chết Trình Bảo, phá tan quân Nam Hán.tiếp tục sự nghiệp họ Khúc, làm chủ đất nước, Dương Đình Nghệ xưng làm Tiết độ sứ.

Tháng 3 (âl) năm 937: Kiều Công Tiễn người châu phong (Vĩnh Phúc, Phú Thọ), nha tướng của Dương Đình Nghệ, giết chủ, đoạt chức Tiết độ sứ.
 
Q

quynh2002ht

Phùng Hưng phát động khởi nghĩa chống nhà Đường

766-791 :phùng Hưng phát động khởi nghĩa chống nhà Đường.​

Phùng Hưng tự là Công Phấn, ở Ðường Lâm, Phong Châu (nay thuộc huyện Ba Vì - Hà Tây).



Nửa sau thế kỷ VIII, quyền thống trị của nhà Đường ngày càng suy yếu khiến cho các tiết độ sứ và bọn đô hộ ở nước ta có cơ hội tăng thêm uy lực. Chúng tự ý trưng thu thuế má. Đô hộ An Nam lúc đó là Cao Chính Bình đã ra sức bòn rút của cải của nhân dân, đánh thuế rất nặng. Nhân lòng căm phẫn của nhân dân. lợi dụng khi quân lính ở Tống Bình nổi dậy chống bọn đô hộ, vào khoảng đời Đại Lịch ( 766-779), Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chinh quyền đô hộ nhà Đường.

Phùng Hưng là người hào trưởng đất Đường Lâm, ông cha đời đời làm quan lang, nhà giàu, có uy tín lớn đối với nhân dân trong vùng. Anh em Phùng Hưng nổi tiếng là những người rất khỏe. Họ lãnh đạo nghĩa quân nổi dậy làm chủ Đường Lâm rối đánh chiếm được cả một vùng rộng lớn quanh vùng, xây dựng thành căn cứ chống giặc. Trên cơ sở lực lượng phát triển mạnh, Phùng Hưng tiến quân xuống Tống Bình, vây phủ thành đô hộ. Cao Chính Bình đem quân ra ngoài thành đón đánh nghĩa quân nhưng bị thua to, đã quá phát bệnh mà chết. Phùng Hưng vào phủ thành, tổ chức việc cai trị, mong xây dựng quyền tự chủ lâu dài. Sau 7 năm, Phùng Hưng mất, con là Phùng An lên thay. Phùng An làm chủ đất nước được 2 năm thì nhà Đường cử Triệu Xương sang làm Đô hộ An Nam. Triệu Xương sai sứ mang lễ vật đến dụ Phùng An ra hàng. Năm 791, Phùng An đã hàng nhà Đường, cuộc khởi nghĩa chấm dứt.
 
Q

quynh2002ht

Sự kiện lịch sử

CUỘC KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị) nổ ra vào mùa xuân năm Canh Tý (40CN) là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân Âu Lạc toàn diện và rộng khắp, chống lại thế lực phong kiến phương Bắc ở đầu công nguyên.
Cuộc khởi nghĩa ấy do bà Trưng Trắc phát động cùng em gái là Trưng Nhị, người có công lao cùng chị và của rất nhiều các vị nữ tướng, nữ binh trong hàng ngũ đội quân của Hai Bà.
Đó là cuộc khởi nghĩa do phụ nữ lãnh đạo duy nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, lập nên một Nhà nước vương triều độc lập, thống nhất và tự chủ thời kỳ ấy. Chấm chấm dứt giai đoạn thống trị của phong kiến phương Bắc lần thứ nhất dài tới 246 năm (207 TCN - 39 CN).
Sử nước ta viết: ''... Trưng Vương là dòng dõi Hùng Vương, chị em đều có tướng dũng lược, căm giận Tô Định chính lệnh hà khắc tàn ngược tụ họp người các bộ, hăng hái dấy đội quân hùng mạnh, lừng lẫy uy danh, quận huyện hưởng ứng , cho nên lấy được 65 thành ở Lĩnh Ngoại, thu lại hết đất cũ Nam Việt, cũng là bậc hào kiệt trong nữ lưu..."
Cũng bởi ý chí anh hùng hào kiệt mà trải qua hàng nghìn năm và mãi mãi về sau, sựn ghiệp và danh tiếng của Hai Bà còn lưu danh. Những sự kiện lịch sử về hai Bà và cuộc khởi nghĩa năm 40 CN đánh đuổi Tô Định, năm 42 CN chống Mã Viện xâm lược đã theo dòng thời gian chuyển hóa thành các sự tích văn hóa, vào huyền thoại, đi vào tâm linh và tín ngưỡng cộng đồng người Việt Nam.
Những nơi Hai Bà đã đi qua, những đồn lũy và chiến trận do Hai Bà Trưng cùng các vị tướng lĩnh lập nên cũng theo đó mà trở nên nơi đền miếu thiêng liêng thờ cúng khói hương không dứt. Nay là các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn Vĩnh Phúc.

Hai Bà là con gái Lạc Tướng huyện Mê Linh, hậu duệ đời thứ 25 của Vua Hùng- họ Lạc. Thân mẫu của Hai Bà tên là Trần Thị Đoan (tục danh là bà Man Thiện), có nghề trồng dâu, nuôi tằm, kéo tơ.
Ngày 01 tháng 8 năm Giáp Tuất (14.CN) bà Man Thiện sinh một lần được hai con gái. Vì là nhà tằm tơ, nên 3 năm sau, mới đặt tên cho cô chị là Trắc (lứa đầu - ''lứa chắc'' theo cách tính của nhà nuôi tằm), cô em là Nhị (''lứa nhì''- lần thứ hai)
Năm 19 tuổi, cha mẹ gả cô chị là Trắc, lấy con trai quan Lạc tướng huyện Chu Diên là Thi Sách tức là năm Canh Thìn (32. CN). Vợ chồng đoàn tụ mới được vài năm thì Thi Sách bị Tô Định giết chỉ vì con hai nhà tướng kết hôn với nhau, trở thành một lực lượng lớn, không có nơi cho sự thống trị của nhà Hán.
Căm giận quân giặc bạo ngược, vì nợ nước nay lại thêm mối thù nhà, bà Trắc đã cùng với em là Nhị phát động trong toàn quận Giao Chỉ, tập hợp các Lạc hầu, Lạc tướng, kêu gọi quân sĩ và nhân dân nổi lên cùng đánh giặc. Các quận Cửu Chân, Nhật Nam được tin quận Giao Chỉ khởi nghĩa đều nổi lên hưởng ứng.

Sau cuộc tổng tập hợp quân đội ở Phong Châu, Hai Bà đã cho quân đội vượt sông sang lập đàn thề ở bãi cát dài cửa sông Hát.
Nơi ấy nay thuộc xã Hát Môn huyện Phúc Thọ tỉnh Hà Tây. Địa điểm cách đê hữu sông Hồng 6km, gần chỗ cửa Hát tách ra từ sông Hồng. Tại Hát Môn, Hai Bà cho quân sĩ dựng đàn tế cáo trời đất, tuyên bố khởi nghĩa. Lời tuyên như sau:
''Trời sinh một người làm tông chủ của vạn vật trong trời đất. Muôn vật ràng buộc vào đấy, cỏ cây quan hệ về đấy. Trải các triều trước các vị đương thiên tử đều là bậc thánh minh, khiến cho triều đình có đạo Yên dân lo việc nước, đức hoá mở mang, thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Nay có người hơ khác tên là Tô Định, lòng dạ chớ dê, hăm doạ 4 phương, tham tàn bạo ngược, trời, đất, thần, người đều căm giận.
Thiếp là cháu gái của Vua Hùng thuở trước, hôm nay đau lòng thương dân vô tội, dấy nghĩa trừ tàn nguyện xin các vị thần linh hội họp tại đàn này chứng giám và phù hộ cho thiếp. Thiếp là Trưng Nữ dấy binh dẹp giặc, che chở dân lành, thú phục lại muôn vật cũ của tổ tông. Không phụ ý trời, thoả nguyện nơi đền miếu của các bậc đương các đời, không phụ sự trông đợi của tổ phụ nơi chín suối''
Tế xong, Hai Bà phân chia các đạo quân, tổ chức quân ngũ. Riêng số các nữ tướng, nữ binh chia làm 2 đội, phong cho các chức:
1- Lão Tiên công chúa nắng giữ ''Trung quân nội thị''
2 - Công chúa Cẩn Hạnh nắm giữ ''Tiền quân nội thị'' có 500 quân
3- Công chúa Huệ Đức và Công chúa Trang ranh nắm giữ quân ''nội thị binh nhung''
4- Công chúa Ả Chàng, Ả Chạ (vì Lê Ngọc Thanh cùng danh hiệu) nắm giữ "Tả quân nội thị", quân nữ có 500 người
5- Thuỵ công chúa và công chúa Minh Trinh nắm giữ ''Hữu quân nội thị''. Quân nữ có 500 người
6 - Công chúa Minh Nương nắm giữ tiền quân - quân nữ có 100 người
7 - Công chúa Tráng Cẩn nắm giữ ''Tả quân nội thị''. Quân nữ có 100 người
8- Công chúa Bình Khôi (tức bà Nhị) nắm giữ toàn bộ các vệ ''Nữ quân nội thị...
Còn các tướng nam đều cớ phong chức thu nạp tham gia khởi nghĩa.
Sau đó bà Trắc cùng các tướng sĩ bái lạy trời đất, thống lĩnh quân dân, tiến quân về thành Long Biên đánh Tô Định.
.

còn nữa
 
Q

quynh2002ht

III- CUỘC TIÊN QUÂN MÙA XUÂN NĂM CANH TÝ (42.CN) ĐẠI THẮNG:
Trên đường tiến quân, Hai Bà dẫn toàn bộ quân đội về làng Hạ Lôi dựng đồn đóng quân.
Đêm đó ở Hạ Lôi, (tên thời nội thuộc Hán là Kỳ Họp) có hơn 10 vị tướng dưới quyền được chọn làm tướng ''thủ túc'' (thân cận, gần gũi như tay chăn), và có 17 nữ tướng có tài trí ngày đêm thường trực ở bên cạnh Trưng Vương. Ngày 07 tháng Giêng, bà Trưng mở tiệc lớn khao quân ở Hạ Lôi 10 ngày, rồi chia quân làm 5 đạo.
- Đi tiên phong là Đại Vương Đông Hối
- Trung quân là Nữ Vương Trưng Trắc (ở giữa)
- Tả quân là Minh công dực thánh (?) (bên trái)
- Hữu quân là Lương công dực thánh (?) (bên phải)
Hậu quân là Hiến công (?) và Nhị nương công chúa
Tất cả cùng tiến về thành Long Biên đánh Tô Định. Cảnh tượng ngày xuất quân thật oai hùng: ''Cờ xí đầy đất, chiêng trống vang trời, tướng nam lẫm liệt, tướng nữ lạnh lùng''. Trước sức mạnh như vũ bão của đội quân Hai Bà, quân Hán không kịp tổ chức nghênh chiến, chống đỡ, nên khi quân đội của Hai Bà tấn công, quân của Tô Định chỉ còn biết thua chạy và bị giết ''máu chảy thành ao, xương tụ thành gò'', xác giặc chồng chất làm cho ''dựng sông nghẽn chảy'', Tô Định bị đao chém sát thương. Cuối cùng thì Tô Định nhanh chóng rút chạy về Trung Quốc, chịu tội với triều đình nhà Hán. Chẳng bao lâu, trong toàn quận Giao Chỉ, nghĩa quân tổng công kích, thu phục được 65 thành.
IV VƯƠNG TRIỀU HỌ TRƯNG.
''Đại Việt sử ký toàn thư" chép là ''Trưng Nữ Vương Kỷ''
Đất nước giải phóng, Hai Bà thu quân về thành Phong Châu. Bà Trưng Trắc lên ngôi Vương, đứng đầu bộ máy nhà nước độc lập tự chủ. Tiến hành phong thưởng thứ bậc công thần cho các tướng sĩ. Cắt cử một số tướng sĩ trở về nơi căn cứ cũ của mình xây dựng doanh điện phòng vệ làm hậu cứ cho triều đình.
Ở trung ương, xây dựng bộ máy nhà nước vương triều gồm có 2 ban ''văn- võ''. Tất cả đều có chữ ''tiết ché' (nghĩa là ''chỉ huyết), đặt quan chia chức đảm nhận công việc Nhà nước. Lại xây dựng 1 ''Sở hành cung'' ở xứ đầu voi làng Hạ Lôi làm nơi ''Sở thiết triều'' (nơi bàn việc nước lưu động). Phía sau xây thành bảo vệ, đời sau gọi là ''thành ống''. Đồng thời bà Trưng Nhị dựng hai luỹ ở Cư An, đắp thành Đền, tất cả đều nằm ở phía Tây Bắc ''hành cung'' Hạ Lôi trưng sự bố phòng bảo vệ.
Sau đó, bà Trưng Trắc đời đô về Hạ Lôi, định trị sở việc nước chính thức là ''hành cung'' xứ đầu voi. Nay là đền Hai Bà. Đất ấy đời Hán là làng Kỳ Hợp huyện Chu Diên. Từ đó chính trị ổn định, việc nước trong sáng êm đềm, lòng dân theo phục.
V- CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÃ VIỆN NĂM 42.CN.
Năm 41.CN, vua Hán Quang Vũ được tin triều đình Lĩnh Nam đã được xác lập, dơ Bà Trưng Trắc làm tôn quân, nên tức tốc hạ lệnh cho các quận, châu, huyện phía nam là Trường Sa, Hợp Phố và một số nơi thuộc Giao Chỉ sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, mở đường thông các núi khe, chứa thóc lương để dự phòng cho cuộc xâm lăng sắp tới Ngay sau đó, Hán Quang Vũ lại sai Tô Định dẫn 5 vạn quân đi trước trở lại Giao Chỉ. Mã Viện vui mừng được Hán Vũ Đế cử làm Phục Ba tướng quân, cho tổng chỉ huy cùng với phó tướng là Phù Lạc Hầu Lưu Long, đốc xuất bọn Lâu thuyền tướng quân đem 30 vạn quân tiến vào nước ta để đánh Trưng Vương.
Quân Hán qua cửa ải Ngọc Quang
1- Cuộc Chiến ở thành Lạng Sơn
Được tin bái về, ở thành Hạ Lôi, Trưng Trắc cử trưng Nhị và hai đại tướng đem quân lên đánh chặn giặc, giết chết được Tô Định ngay từ trận đầu giao chiến. Thấy tình thế thất lợi, sau khi qua ải Ngọc Quan, Mã Viện và Lưu Long dẫn quân đến thành Lạng Sơn lập doanh luỹ cố thủ thanh thế rất to.
Để chặn đánh quân địch từ ngoài biên ải, Trưng Trắc dẫn toàn bộ đại quân lên thành Lạng Sơn cự chiến Mã Viện là viên tướng già (lúc này Viện đã ngoài 70 tuổi) giảo quyệt, biết trưng Trắc đã đem hết quân đội lên đánh thành Lạng Sơn nên ra lệnh cho quân sĩ cố ý trì hoãn, kéo dài thời gian tiếp chiến, khiến đại quân của Hai Bà Trưng gặp bất lợi. Mã Viện chơ Lưu Lang coi giữ 25 vạn quân ở lại cố thủ thành Lạng Sơn, cầm chân quân đội của Hai Bà Trưng dưới thành, bố phòng ở những nơi hiểm trọng, không chịu ra đánh. Đại quân của Hai Bà do vậy phải kìm lại vây thành.
2- Âm mua của Mã Viện
Trong khi tình thế chiến trận kéo dài im ắng, thì Mã Viện dẫn 5 vạn quân bí mật xuất phát, không kể ngày đêm, cướp đường mà đi, cấp tốc chỉ trong 5 ngày sau đã đến khu Thanh Trước, dựa vào địa hình nụ; mà đồn binh, tích trữ lương thảo. Rồi Mã Viện trước hết tấn công kho quân lương ở Nội Phật dơ bà Thánh Mẫu Dưỡng quản lĩnh, đánh tan cơ sở hậu cần của quân đội Hai Bà. Sau đó Mã Viện tấn công thành Cự Triền.
Cự Triền là một thành lớn do Bà Trưng Nhị tổ chức xây đắp để phòng thủ ở mặt tây bắc cho đô thành Mê Linh. Ở mặt trận này tuy quân đội của Bà Trưng đã tiến lên Lạng Sơn, nhưng do thành được xây đắp kiên cố nên Mã Viện không dễ dàng hạ nổi. Địa hình lại hoàn toàn bất lợi cho quăn Hán, vì thành được xây đắp trên gò Dền giữa cánh đồng Dền, bốn bề đồng không nước ngập, địa hình trở nên phức tạp. Để lấy điểm tựa tập kết quân sĩ tấn công thành Dền, Mã Viện đã phải hấp tấp đưa vàơ địa thế sẵn có của một quả gò nhỏ, gọi là gò Viên (dân đã quen gọi là gò Vượn) thuộc cánh đồng Vượn) đắp trong một đêm phải xong.
Một trận chiến quyết liệt đã diễn ra, cuối cùng thì thành Dền cũng bị hạ. Đình Cư An xã Tam Đồng, di tích thờ Bà Trưng Nhị có đôi câu đối viết về sự kiện này. Như sau:
Triền thuỷ ba bình phần tử y hi hàm thánh trạch
Viên thành nguyệt hiểu đống yểm ẩn ước hiện thần quang
Nghĩa là: Sóng nước quanh đồng triền (đồng Dền) đã yên, cây cối nghĩ rằng có công ơn của Thánh Trăng soi thành Vượn, bước tới gần gò đống như có như không, cũng bày ra biến hoá rõ ràng. Sau khi hạ thành Cự Triền, Mã Viện không mấy khó khăn khi tiến về đánh thành Hạ Lôi, đào mộ cha mẹ Hai Bà, yết cung điện. Kinh đô Mê Linh phút chốc chìm trong máu lên. Sau đó, Mã Viện lại kéo quân lên thành Lạng Sơn, trong đánh ra, ngoài hợp chiến cùng tiến đánh Hai Bà Trưng từ hai phía.
3- Trận chiến ở Lãng Bạc
Sau khi bị tổn thất ở thành Lạng Sơn, lại bị quân Hán bức bách ở mặt trận phía trước và phía sau, nên Bà Trưng rút quân trở về. Đội quân hai bên gặp nhau ở Lãng Bạc, địa điểm ở vùng 2 huyện Tiên Du- Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Một trận quyết chiến đã xảy ra. Sử ''Toàn thư" chép: ''Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, lui về giữ Cấm Khê''
4- Công cuộc cố thủ cấm Khê
Sau khi rút khỏi mặt trận Lãng Bạc, Trong Vương biết là thành Cự Triện và kinh đô Mê Linh đã bị thất thủ, Hai Bà tiến lên vùng Cấm Khê thủ hiểm, tính kế lâu dài. Cấm Khê (sử cũng chép là Kim Khê) là vùng đất ngập nước bên bờ sông Cà Lồ từ làng Gia Phúc (xã Xuân Đài), qua làng Cẩm La, Phúc Lộc, Đống Cao của xã Vân Đài, xã Tiên Đài của tổng Vân Đài huyện Yên Lạc, phủ Vĩnh Tường triều Nguyễn, đến xã Can Bi tổng Xuân Lãng huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Yên. Trong đó các làng Cẩm La, Phúc Lộc, Yên Nội, Đống Cao đời Lê trở về trước thuộc xã Vân Đài hoặc Quan Đài cùng với các xã Xuân Đài Tiên Đài là nơi tập trung nhất về di tích thờ cúng Hai Bà Trưng.
Ở cấm Khê, quân Hai Bà bị vây hãm mấy tháng liền. Phía trước không còn đường tiếp lương, cỏ ngựa, phía sau không có quân cứu viện lại biết thành trì lăng mộ ở nhà (Hạ Lôi) đã bị Mã Viện phá hết, nhưng không thể tự phá trận để thoát khỏi vòng vây. Biết rằng cơ nghiệp do chị em gây dựng bấy nay sẽ khống còn, Bà Trưng Trắc tự khẳng định với mình rằng:
Sinh ra làm người, thà làm quỷ nước Nam, há chau đã bị trói tay bắt sống, bị người Hán phương Bắc làm nhục?
Thế là Bà chỉ huy toàn quân quyết đánh một trận, quân - thần - tướng - tá đều bị vây, bị giết ở Cấm Khê. Số còn lại trở về nơi doanh địa cũ rồi lần lượt bị Mã Viện đánh bại. Thu thắp trong điền dã của chúng tôi trong khu vực xã Văn Tiến huyện Yên Lạc, thấy có như sau:
- Gò Hang: Thống kê năm 1938 của xã Vân Đài thì trong làng ''có lái đống gọi là gò Hang, nhưng không biết dưới có hang không''.
Ngày nay gò Hang hiện còn, thuộc thôn Yên Nội. Diện tích khoảng 5-6 sào Bắc Bộ, nhân dân ở đây gọi là gò Cánh Tiên. Hang có cửa vào xây cuốn vòm như hình chớp bia bằng gạch bìa, ở thành có vạch ô quả trám. Cửa hang nổi lên trên mặt đất nay mới bị lấp. Chúng tôi nghĩ rằng người xưa xây như một cái am rồi mới gánh đất đổ lên thành vòm. Gò có ''hang'' ở dưới nên gọi ''Gò Hang''. Vì vậy đất trên gò gồm nhiều loại, xồm xộp không hoàn thổ và cỏ không mọc được. Cũng chưa thấy khai thác trồng trọt. Nay mới lập 1 am nhỏ để mấy nhà bên cạnh gò thắp hương.
Có thể dơ có gò Hang là một ngôi mộ cổ dùng gạch xây đời Hán mà vùng này có địa danh Hi Sơn. Tất nhiên còn chờ ở các tài liệu khảo cổ trong tương lai. Xung quanh gò Hang còn các địa danh: Thầy Vang, Chùa Tranh, Giếng Tó, Gò Bắc Bếp; Gò Tổng Binh, Gò Cơn Ngựa.
Thầy Vang: Chữ ''Thầy'' theo cách giải thích của địa phương nghĩa là ''bờ lũy''. Thầy Vang nghĩa là bờ lũy Vang. Chữ Vang là địa danh thuộc thôn Yên Nội.
Chùa Tranh: Tên chữ là ''Phúc Lâm Tự''. Chùa không thờ bằng tượng Phật mà thờ bằng ''Tranh Phật''. Chùa Tranh thuộc thôn Đống Cao ở sau đình Đống Cao. Là một hiện tượng hiếm thấy.
Giếng Tó: Là giếng ở trước đình Đống Cao. Tang và thành giếng làm bằng đất thớ màu vàng. Nước giếng rất trong
Gò Bắc Bếp: Địa danh thuộc thôn Đống Cao, ở cạnh đình Đống Cao. Đào yên tìm thấy nhiều tro bếp và các ''ông đầu rau''.
Gò Con Ngựa: ở sau đình Đống Cao, cũng gọi là gò ''Đồng Cũ''. Trống canh tác nhân dân địa phương tìm thấy nhiều gạch bìa cổ, có vạch. Bờ móng xây bằng vữa đất, xếp từng lượt khi cày sâu vẫn bật gạch tên.
Dưới làng Vân Đài là làng Tiên Đài được nhân dân giải thích là ''Đài quan sát'' ở phía trước. Làng này xưa chỉ có một họ Trần.
Làng Xuân Đài, địa danh thời cổ là làng Liễu. ở đây có gò ''Tổng binh'', nơi cớ đền Gia Phúc thờ Hai Bà Trưng. Cả làng xưa chỉ có một họ Phạm.
Như vậy xã Văn Tiến ngày nay gồm ''3 làng Đài'' xưa là: Tiên Đài, Xuân Đài và Vân Đài (hoặc Quan Đài gồm: Cẩm La, Phúc Lộc, Đống Cao, Yên Nội)
Toàn bộ các cánh đồng cấy lúa trồng màu vùng này xưa kia là vùng đầm lầy bên bờ sông Cà Lồ. Sau đê sông Cà Lồ bị vỡ vào thời Tự Đức, nên bị bồi lấp nay thành đồng ruộng. Nay là ruộng đất các xã Nguyệt Đức, Văn Tiến.

Về giai đoạn cuối cùng của cuộc khởi nghĩa ở Cấm Khê, sử CM chép: ''Trưng Vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ thếch, đều bị thất trận chết. Sự nghiệp anh hùng cứu nước của họ Trưng đến đây là kết thúc
Hết
 
Q

quynh2002ht

179 trước CN (Nhâm Tuất) :Triệu Đà vua nước Nam Việt xâm lược Âu Lạc mở đầu thời kỳ nước Việt

Các mũi tên đồng được tìm thấy khu di tích thành Cổ Loa Sau khi Cao Hậu nhà Hán chết (180 tr.

Các mũi tên đồng được tìm thấy

khu di tích thành Cổ Loa

Sau khi Cao Hậu nhà Hán chết (180 tr.CN), quân Hán bãi binh, Triệu Đà nhân đó dùng uy lực uy hiếp biên giới, đem của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình.

Sau nhiều lần phát quân đánh Âu Lạc không được, Triệu Đà lập kế xin giảng hòa với An Dương Vương, cầu hôn con gái là Mỵ Châu cho con trai mình là Trọng Thủy và đưa Trọng Thủy sang gửi rể ở Cổ Loa để đánh cắp các bí mật quân sự của Âu Lạc (chủ yếu là vũ khí “nỏ thần” lợi hại) và chia rẽ nội bộ nước Âu Lạc.

Triều đình Cổ Loa mất cảnh giác bị Triệu Đà cho quân sang đánh chiếm. An Dương Vương tự tử.

Nước Âu Lạc bị sáp nhập vào nước Nam Việt của Triệu Đà, bị lệ thuộc và chia làm hai quận: Giao Chỉ và Cửu Chân – tức Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay.

Đất đai của Triệu Đà chiều ngang hơn vạn dặm, Đà đi xe mui lụa mầu vàng, cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là chế, chẳng kém gì Hoàng đế Trung Quốc
 
Q

quynh2002ht

111 trước CN (Canh Ngọ) :Nhà Hán đánh bại nhà Triệu, đô hộ Âu Lạc.

Triều đình nhà Hán phái một lực lượng hơn 10 vạn người do Vệ úy Lộ Bác Đức làm Phục ba tướng quân đem quân từ quận Quế Dương tiến xuống đường sông Hồi Thủy, chủ tước Đô úy là Dương Bộc làm Lâu thuyền tướng quân đem quân từ quận Dự Chương xuống đường Hoành Phố, Quy Nghĩa, cùng tiến xuống tấn công tiêu diệt nước Nam Việt của con cháu Triệu Đà, chiếm kinh đô Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay).

Triều đình nhà Hán phái một lực lượng hơn 10 vạn người do Vệ úy Lộ Bác Đức làm Phục ba tướng quân đem quân từ quận Quế Dương tiến xuống đường sông Hồi Thủy, chủ tước Đô úy là Dương Bộc làm Lâu thuyền tướng quân đem quân từ quận Dự Chương xuống đường Hoành Phố, Quy Nghĩa, cùng tiến xuống tấn công tiêu diệt nước Nam Việt của con cháu Triệu Đà, chiếm kinh đô Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay).

“Sứ giả” của triều đình Nam Việt cai trị hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân đầu hàng nhà Hán.

Nhân cơ hội này, thủ lĩnh vùng Tây Vu (trung tâm là Cổ Loa) đã nổi dậy khởi nghĩa, nhưng bị Hoàng Đồng (chức Tả tướng ) giết hại.

Nhà Hán chiếm được nước Âu Lạc củ từ trong tay nhà Triệu và chiếm được cả nước Nam Việt, đặt thành 9 quận lệ thuộc, trong đó Âu Lạc củ bị chia làm 3 quận là: Giao Chỉ (Bắc Bộ), Cửu Chân (Bắc Trung Bộ) và Nhật Nam (Trung Trung Bộ).
 
Top Bottom