Có nên đưa truyện ngắn “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải vào chương trình giáo dục phổ thông?

P

phamvientri

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Hà Tĩnh, ngày 2/8/2008
Kính gửi: Bác Trần Hà Nam!
Có nên đưa truyện ngắn “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải vào chương trình giáo dục phổ thông?

1. Tác phẩm có nhân vật tiêu biểu cho “vẻ đẹp và chiều sâu văn hoá của người Hà Nội”?
“Một người Hà Nội” là truyện ngắn rút từ tập “Hà Nội trong mắt tôi” (NXB Hà Nội, 1995) của nhà văn Nguyễn Khải. Tác phẩm có mặt trong chương trình thí điểm trước đó và được đưa vào chương trình Ngữ văn 12 nâng cao từ năm học 2008-2009. Mục “Kết quả cần đạt” của SGK yêu cầu: “Cảm nhận được vẻ đẹp và chiều sâu văn hoá của người Hà Nội qua hình tượng nhân vật bà Hiền”. Và trong nội dung hướng dẫn khai thác, SGV (NXB Giáo dục, 2008, mã số NG208M8, tr. 53) đã chứng minh cho nhận định ấy qua các biểu hiện cụ thể của nhân vật:
“-Việc hôn nhân: bà Hiền “chọn bạn trăm năm là ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ”…chọn lựa của bà cho thấy bà có thái độ nghiêm túc với hôn nhân, đặt trách nhiệm “làm vợ”, “làm mẹ” lên trên mọi thú vui khác.
-Việc sinh con: Ở cái thời người Việt Nam thích đẻ nhiều con thì quyết định của bà Hiền chấm dứt sinh đẻ vào năm 40 tuổi là một quyết định khác người…Như vậy, trách nhiệm làm cha làm mẹ không phải chỉ ở việc sinh con mà quan trọng hơn là cho con một nhân cách sống, không bị lệ thuộc. Tình yêu con của bà Hiền là tình yêu sáng suốt của người mẹ giàu lòng tự trọng…
-Việc quản lí gia đình: bà Hiền luôn là người chủ động, tự tin vì bà hiểu rõ vai trò quan trọng của người vợ, người mẹ.
-Việc dạy con: bà Hiền dạy con khi chúng còn nhỏ và dạy từ những cái nhỏ nhất…
Cái chuẩn trong suy nghĩ của bà là “lòng tự trọng”. Lòng tự trọng không cho phép con người sống hèn nhát, ích kỉ. Bà bằng lòng cho Dũng đi chiến đấu vì “không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè”….
Và SGV kết luận: “bà Hiền là người có bản lĩnh, trung thực, giàu lòng tự trọng”…và đó là “một người Hà Nội”. SGV còn đưa ra một số dẫn chứng như: lòng tự trọng, bản lĩnh (đã được nói ở phần trước), phòng khách được bài trí sang trọng, thái độ ung dung tự tại, sự khôn ngoan, sâu sắc của trí tuệ… để chứng minh bà Hiền là nhân vật kết tinh “vẻ đẹp và chiều sâu văn hoá của người Hà Nội”!
2.Một cách cảm nhận khiên cưỡng, phi lịch sử:
Trước hết, xin được trao đổi cùng với các tác giả SGK Ngữ văn 12 nâng cao rằng: cần có một sự thống nhất trong việc xác định chuẩn mực của một con người, một hình tượng nghệ thuật được coi là kết tinh, tiêu biểu cho vẻ đẹp và chiều sâu văn hoá của một vùng miền. Chắc các vị sẽ không phủ nhận rằng: dù tiêu biểu cho Hà Nội hay bất cứ địa phương nào trên đất nước Việt Nam thì chuẩn mực đầu tiên, quan trọng nhất đó là lòng yêu nước và tình yêu thương con người (hay yêu nước và nhân đạo). Nếu không thống nhất được như vậy, thì sự trao đổi này sẽ trở nên vô nghĩa. Các vị nhấn mạnh nhân vật ở phẩm chất tự trọng, cái đó chúng tôi không phản đối, song đó không phải là chuẩn mực đầu tiên, quan trọng nhất khi nói đến một hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp văn hoá của một vùng miền, dân tộc.
2.1. Bà Hiền có phải là người yêu nước?
Theo SGV thì câu trả lời là “có”, với một dẫn chứng, biểu hiện duy nhất: bà đã “bằng lòng” cho con đi bộ đội trong “đau đớn”, và cụm từ “yêu nước” còn được nhắc lại như sau “giằng xé giữa tình yêu con với tình yêu nước”, “có lòng tự trọng sẽ có lòng yêu nước”, “là mình trong quan hệ với cộng đồng, đất nước”…quanh đi quẩn lại cũng không ngoài chi tiết bà Hiền đồng ý cho con đi bộ đội đánh giặc.
Còn theo chúng tôi, câu trả lời là “đáng ngờ”: Về việc đồng ý cho con đi bộ đội, có bà mẹ nào trên đất nước Việt Nam lại không xử sự như thế, nói chung nó đã quá phổ biến đến mức nếu ai cứ vin vào đó để chứng minh lòng yêu nước của bản thân thì đúng là “không còn gì để nói”. Hơn nữa, ai cũng biết là dù bà có đồng ý hay không thì con bà vẫn đi bộ đội.
Gia đình bà Hiền không tản cư kháng chiến, vì không thể sinh cơ lập nghiệp nơi khác được, và bà chẳng có hành động gì giúp đỡ kháng chiến trong suốt 9 năm ròng rã. Khi hoà bình lập lại, vì khó khăn, nhà trước có chủ trương trưng mua, trưng dụng một số nhà cửa của giai cấp tư sản, gia đình bà có hai dinh cơ và bà đã nhanh chóng bán đi một ngôi nhà để bảo toàn túi tiền của mình. Khi nhà nước có chủ trương không nuôi người hầu, người ở trong nhà, xuất phát từ lí tưởng nhân đạo không còn cảnh người bóc lột người, thì bà vẫn không chấp hành, đơn giản bởi vì bà đã quá quen với lối sống có người hầu hạ. Bà Hiền làm thế được đánh giá là khôn ngoan, vậy những người dân góp vàng, góp tiền trong Tuần lễ Vàng, Quỹ Độc lập, những người bỏ ra hàng ngàn cây vàng giúp đỡ Chính phủ, những người dân “xe chưa qua, nhà không tiếc”, đào hầm nuôi giấu cán bộ bất chấp chết chóc, tù đày…là “dại” ư? Xin nói thêm bà Hiền là người không mấy thiện cảm, mặn mà với Chính phủ, chế độ mới.
Cho nên đánh giá bà Hiền là người “yêu nước” là khiên cưỡng và phi lịch sử.
2.2. Bà Hiền có phải là người có trái tim nhân ái?
SGV hầu như không khai thác phương diện này, đơn giản bởi vì nhân vật không có bất cứ biểu hiện gì chứng tỏ là người có tâm hồn nhạy cảm, có trái tim nhân ái, biết rung động, yêu thương, chia sẻ trước niềm vui hay nỗi đau của của con người. SGV ca ngợi bà Hiền khôn ngoan, sáng suốt trong hôn nhân khi “chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành, chăm chỉ”. Hỡi ôi, bà Hiền khôn ngoan quá, nhưng cũng tỉnh táo, lạnh lùng quá! Ai đến với hôn nhân cũng cần cân nhắc, song hôn nhân chân chính, hạnh phúc phải xuất phát từ tình yêu, sự đồng điệu, giao cảm về tâm hồn, sự dấn thân, chia sẻ chứ không phải được bắt đầu từ một quyết định đầy toan tính như thế. Làm thế không xấu nhưng có gì hay ho để mà khen!
Sau khi người ở về quê và mất, hàng năm, người chồng đều sắm sửa các thứ quà quê: gạo, đậu xanh, miến và rượu lên biếu gia đình bà Hiền. Nếu bà có lòng nhân ái thì nên từ chối các thứ quà ấy, hoặc chỉ nhận một chút có tính tượng trưng. Như thế mới là cách ứng xử lịch thiệp, có văn hoá, xuất phát từ tình yêu thương con người. Mặt khác cũng không thấy bà Hiền giúp đỡ gì gia đình người đầy tớ cũ ấy.
Từ đầu đến cuối truyện, người đọc không hề thấy ở bà Hiền có một giọt nước mắt khi con đi bộ đội, không hề thấy niềm vui nghẹn ngào nghi con lành lặn trở về, không hề thấy một chút ngậm ngùi khi nhắc đến người chồng quá cố, thiếu vắng những hành vi từ thiện, chia sẻ với người nghèo khổ xung quanh! Đành rằng những chi tiết ấy có vẻ “công thức”, “sáo mòn” song sự thiếu vắng ấy khiến độc giả nghĩ đến một tính cách cứng rắn, lạnh lùng, ít tình cảm.
Một nhân vật không có gốc rễ yêu nước và nhân ái sâu vững, liệu có xứng đáng trở thành biểu tượng của thủ đô ngàn năm văn hiến? Chúng ta thường nói Hà Nội “linh thiêng và hào hoa”, cái “linh thiêng” của Hà Nội chính là sự kết tinh truyền thống yêu nước suốt hàng ngàn năm lịch sử.
3.Giáo dục điều gì cho học sinh qua hình tượng nhân vật bà Hiền?
Một trong những tiêu chí quan trọng để lựa chọn tác phẩm văn học đưa vào SGK là tính giáo dục: giáo dục về tư tưởng, đạo đức, lối sống mà quan trọng nhất là lòng yêu nước, tình yêu thương con người. Thông qua vẻ đẹp của hình tượng nhân vật, học sinh có được sự rung động sâu xa, thấm thía, từ đó tâm hồn trở nên phong phú, cao đẹp hơn.
Chúng tôi đã dạy tác phẩm này trong chương trình thí điểm, và khổ nhất là không sao rung động được trước hình tượng nhân vật chính, và học sinh thì cứ kêu ca “sao không thấy thiện cảm gì với nhân vật”, “không thấy gì hay”! Thế nhưng SGV (thí điểm, bộ 2) thì cứ một mực ca ngợi nhân vật là người “thiết tha yêu nước”, “tiêu biểu cho bản sắc Hà Nội nghìn năm văn hiến”…Quả đúng là rất khó khi gò ép tư duy, cảm xúc, với những định hướng mang tính áp đặt, suy diễn. Có thể do chúng tôi kém cỏi, chưa thấy được chỗ “diệu” của tác phẩm, rất mong các bậc cao minh chỉ giáo.
Một trong những dẫn chứng “có sức nặng” nhất để tác giả SGK khẳng định bà Hiền là một người tiêu biểu cho bản sắc văn hoá Hà Nội nghìn năm là lối sống “lịch lãm, sang trọng”: nhà ở rộng rãi, ăn mặc sang trọng, bàn ăn có khăn ăn trắng, lọ hoa, bát úp lên đĩa, đũa bọc trong giấy bản, cách bài trí phòng khách kiểu cách mấy chục năm không thay đổi, mỗi tháng tổ chức mỗi bữa ăn theo lối quý phái với bạn bè…Điều đáng lưu ý đó là “nếp nhà” quen thuộc của bà Hiền, dù trong thời kì nào, trong nạn đói khủng khiếp 1945 “xác người chết đói ngập đường phố” hay trong thời kháng chiến gian khổ… xung quanh mọi người sống thế nào cũng mặc, vẫn là “mình”, vẫn giữ “bản lĩnh”, “phong cách” của mình!
Ai cũng biết về qui luật của sự hài hoà: có những cái, những việc trong hoàn cảnh này là phù hợp, là tốt, nhưng trong hoàn cảnh khác đôi khi lại trở nên xấu, thậm chí đáng lên án.
Nghĩ thật bất công cho nhân vật Hoàng trong truyện ngắn “Đôi mắt” của Nam Cao. Vốn là người yêu nước (tản cư kháng chiến, tôn kính Cụ Hồ, muốn góp sức cho cách mạng…) nhưng lại bị “đánh” cho “tơi tả” bởi anh ta mặc dù đi tản cư nhưng vẫn giữ nếp sống sang trọng, “quí phái” như ăn mía ướp hoa bưởi, ngủ màn trắng tinh, chăn đệm thơm phức, đọc sách Tam quốc…Cũng là những người đó, mới phê phán anh Hoàng nào là “ích kỉ,” “lạc lõng”, “xa rời quần chúng”, “thiếu cái tâm”, “coi kháng chiến không phải là việc của mình”…thì giờ đây họ lại ngợi ca bà Hiền, nhân vật có lối sống, cách ứng xử tương tự là “lịch lãm, sang trọng, kết tinh văn hoá Hà Nội nghìn năm”! Xin hãy đọc lại những cuốn “Bài văn chọn lọc” hay “Bài văn mẫu” xuất bản cách đây một vài năm sẽ thấy rất rõ. “Rồi ra thay bậc đổi ngôi. Dám xin gửi lại một lời cho minh”. Liệu khi học sinh hỏi về so sánh cách đánh giá giữa hai nhân vật, về mục đích giáo dục lòng nhân ái, chia sẻ với Tổ quốc, với con người trong gian khó, hoạn nạn thì giáo viên chúng tôi biết trả lời ra sao?
Các tác giả SGK còn chứng tỏ trình độ “tán” của mình khi ca ngợi bà Hiền biết “kế hoạch hoá gia đình” sau khi đã sinh được 5 con! Và họ cho rằng đó là “một quyết định khác người”, với quan niệm không tin “Trời sinh voi sinh cỏ”, thể hiện “tình yêu sáng suốt của người mẹ giàu tự trọng…”. Thật “nhất quán”, bà Hiền đúng là một nhân vật “giàu lòng tự trọng” và “sáng suốt” từ đầu đến cuối, trong bất cứ hoàn cảnh nào!
Về mặt nghệ thuật, để chứng minh cho “sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người” của Nguyễn Khải thể hiện qua tác phẩm, sách bài tập viết: “Văn học Việt Nam suốt thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đã chủ yếu trình bày con người từ nhãn quan giai cấp, lấy lợi ích giai cấp làm tiêu chuẩn soi ngắm con người (các tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Đối mặt, Rừng xà nu, Mảnh trăng cuối rừng, Những đứa con trong gia đình…là ví dụ tiêu biểu)(…) Vẻ đẹp của “một người Hà Nội” toát lên từ điểm nhìn thế sự, hướng tới khẳng định con người ở góc độ văn hoá” (trang 31). Theo chúng tôi, các tác giả SGK đã nhầm lẫn, hay cố tình đánh đồng khái niệm “giai cấp” và “công dân” hay “dân tộc”. Chính các vị trong SGK đã viết: “Phản ánh và phục vụ cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, thế giới nhân vật trong văn học (1945-1975-TQĐ) bao gồm đủ mọi tầng lớp nhân dân (…).Tất cả đều được quan sát và thể hiện chủ yếu ở tư cách công dân, ở phẩm chất chính trị, tinh thần cách mạng” (Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX. Ngữ văn 12 nâng cao, tập 1, 2008, trang 5). Xin hỏi trong truyện “Mảnh trăng cuối rừng” và “Rừng xà nu” thì nhãn quan giai cấp được thể hiện như thế nào? Các chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến chẳng phải thuộc giai cấp tiểu tư sản đó sao, nhưng vẫn trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của người chiến sĩ, và cao hơn là cả dân tộc trong buổi đầu đánh Pháp!
Xin thưa các tác giả SGK rằng, dù ở thời nào, hay quan niệm gì về con người thì hình tượng nghệ thuật cũng không thể tách rời hai giá trị yêu nước và nhân đạo, chỉ có là cách biểu hiện, tiếp cận có khác biệt mà thôi. Không thể nhân danh “đổi mới” để xa rời những giá trị thiêng liêng, cao cả, bền vững muôn đời, có tính nhân loại đó được.
Còn chờ gì nữa mà không chuyển “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải sang phần đọc thêm hay đưa hẳn ra khỏi SGK?
Kính mong các đồng nghiệp quan tâm trao đổi.
1(sưu tầm)
 
T

tranthuchuyen

Bài viết này mới thật sự là khiên cưỡng! ...........................................
 
G

giangvy

Thấy bài viết này được viết cũng đã khá lâu, người viết không biết có còn vào 4rum không, nhưng tôi có vài ý kiến muốn chia sẻ với người viết và những ai đã chăm chú đọc bài viết này.

Tôi không dám khẳng định mình cảm nhận văn học có chiều sâu hơn một người thầy giáo có kinh nghiệm và nhất là có trăn trở với nghề, với trò. Tuy nhiên, tôi viết những gì mà tôi tin là có cơ sở.

1. Lòng yêu nước của nhân vật bà Hiền.

Thầy khẳng định rằng những chuẩn mực để có thể khẳng định vẻ đẹp của một con người là "lòng yêu nước và tinh thần nhân đạo", điều đó là đúng và đến bây giờ vẫn được công nhận. Vậy lòng yêu nước của bà Hiền thể hiện ở đâu? Theo tôi, là ở 1 vài yếu tố sau:

- Bà Hiền ngay trong những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất cũng không đi tản cư. Vì sao ư? Vì bà không thể gắn bó với mảnh đất nào khác ngoài mảnh đất HÀ Nội ngàn năm văn hiến chứ không chỉ là không sinh cơ lập nghiệp ở nơi khác được. Với một tình yêu của người con sinh ra ở Hà Nội, gắn bó với Hà Nội bằng tất cả tâm tồn và lối sống của mình, bà không thể rời xa nó.

- Tình yêu nước của bà Hiền còn được thể hiện trong ý thức giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những giá trị ấy là hồn thiêng của non sông, đất nước, là chuẩn mực đạo đức, ứng xử để người đời sau soi vào, thấy bóng dáng cha ông trong đó. Nếu không có 1 tình yêu sắt son và bền chặt thử hỏi làm sao bà có thể gìn giữ nếp nhà ấy trong những năm tháng chiến tranh khói lửa? Không chỉ có tình yêu, bà còn ý thức được cái trách nhiệm ấy của mình "Xã hội nào cũng có 1 giai cấp để làm chuẩn mực" _ đó là câu nói thẻ hiện ý thức trách nhiệm của bà.

Khi mà nhân vật xưng tôi sau nhiều năm xa Hà Nội, phàn nàn về cách sống của người Hà Thành hiện nay: xô bồ, bon chen và dường như mất hết văn hóa... Ta đã tự hỏi là cái nét thanh lịch của người TRàng An xưa tới nay liệu có còn? Thì bà Hiền vẫn ở đó, với bát thủy tiên và câu chuyện về cây si đền Ngọc Sơn... Bà vẫn một lòng gìn giữ và truyền lại cho con cháu những giá trị cổ xưa của người Hà Nội, cái nét lịch thiệp, văn hóa_những chuẩn mực đạo đức mà không thể lẫn đi đâu và không thể lu mờ được. Thử hỏi, nếu không có những con người như bà Hiền lưu giữ những nếp sống và giá trị văn hóa ấy thì ngày nay liệu có còn câu ca:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An

2. Bà Hiền có tình nhân ái?


- Thầy đã dẫn ra rằng bà không một lời kêu khóc cho con, không hề thương xót. Vậy chắc thầy không nhận ra sự đau đớn và giằng xé trong câu nói "Tao đau đớn mà bằng lòng" của bà? Người mẹ nào cũng vậy thôi, nhưng người mẹ này không biểu hiện tình yêu thương yếu đuối ra bên ngoài bằng nước mắt và sự kêu gào. BÀ mạnh mẽ, tự trọng vì thế bà cũng nuôi dạy được 2 người con trai tự trọng và sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. Ở đây, tôi thiết nghĩ, cũng thể hiện lòng yêu nước của bà, nói bà không đóng góp gì cho kháng chiến là nhận định hoàn toàn sai lầm, cả 2 người con của bà đều đã góp sức lực và xương máu cho cuộc chiến chung của dân tộc đấy thôi. Vả chăng, có người chiến đấu ở ngoài chiến trường, thì cũng phải có người ở lại sản xuất, có người giữ gìn những nét đẹp đang dần mất đi của dân tộc.

- Thứ 2, thầy nói ." Nếu bà có lòng nhân ái thì nên từ chối các thứ quà ấy, hoặc chỉ nhận một chút có tính tượng trưng. Như thế mới là cách ứng xử lịch thiệp, có văn hoá, xuất phát từ tình yêu thương con người. Mặt khác cũng không thấy bà Hiền giúp đỡ gì gia đình người đầy tớ cũ ấy. " Theo tôi, đây là một sự áp đặt rất gượng gạo, chẳng khác gì có một thời người ta rộ lên câu hỏi "Chí Phèo là con ai" và dựa vào cái câu xoa dịu đầy mưu mô của Bá Kiến khi Chí Phèo đến ăn vạ: "Ai chứ anh với nó còn có họ cơ đấy" người ta liền khẳng định Chí Phèo là con Bá Kiến với vợ Binh Chức??? Một sự áp đặt không thể chấp nhận được !!! Nếu BÀ Hiền không có lòng nhân ái, không đối tốt với người ở thì hà cớ gì sau khi vợ chết người ta vẫn biết ơn mà tới thăm hỏi? Nếu Bà Hiền đối xử lạnh lùng và tệ bạc thì liệu người ta có thế không?

3. Giữa nhân vật bà Hiền và nhân vật Hoàng của Đôi mắt

- Đôi mắt là tác phẩm ra đời trong thời kì kháng chiến, nó ra đời với mục đích hoàn toàn khác Một người Hà Nội. Đôi mắt là tác phẩm phục vụ kháng chiến, cổ vũ chiến đấu còn Một người HÀ Nội lại được viết khi hòa bình lập lại, người ta nhìn lại về văn hóa dân tộc, về những giá trị cần bảo tồn và phát huy. Bà Hiền không hề chống đối Cách Mạng nhưng bà có con mắt sáng suốt, thấu đáo. Ai bảo Cách Mạng là không có cái sai? Cái quá đáng? BÀ Hiền đã nhìn ra những cái đó từ rất sớm mà mãi tận sau này chúng ta mới nhận ra và sửa đổi. Điều đó chẳng có gì đáng phê phán và chỉ trích cả.

Trong Đôi mắt, nhân vật Hoàng là nhân vật sống giữa người dân, ăn cơm gạo của nhân dân mà lại luôn miệng chửi bới nhân dân là ngu ***, bần tiện... Đó là cái đáng lên án của nhân vật Hoàng. Hoàng có cách ăn uống cao sang, cầu kì... trong hoàn cảnh nhà quê, Hoàng tỏ ra là người có văn hóa nhưng thực ra là lại luôn chửi bới, coi thường người khác, ích kỉ chỉ biết nghĩ đến bản thân.

Còn trong Một người HÀ Nội, chúng ta cần biết, bà Hiền không một lần dời Hà Nội, cái nếp sống của bà là cái nếp sống giữa lòng Hà Nội chứ không phải trong hoàn cảnh tản cư. Bà ý thức được rằng mình phải giữ gìn những nét đẹp văn hóa ấy, để làm chuẩn mực đạo đức cho thế hệ sau, đó là 1 ý thức cao đẹp và có tầm nhìn. Vả lại, bà không hề xa rời cuộc kháng chiến, không lăng mạ và xúc phạm đồng bào mình. Bà biết tự trọng và tôn trọng người khác, điều ấy thể hiện ở việc cho con đi đánh giặc vì không úuốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. BÀ đã hòa vào nhịp sống chung của dân tộc ở việc gìn giữ văn hóa, nuôi dạy và đồng ý cho 2 con đi chiến đấu ấy. Khác hẳn so với Hoàng khi không hề góp chút công sức mà luôn chửi bới, lên án người khác.

Thiết nghĩ, mỗi tác phẩm văn học đối với người tiếp nhận luôn có sự khác biệt riêng. Tuy nhiên, ta nên mở lòng ra phân tích cho thấu đáo chứ không nên chỉ vì một định kiến ban đầu mà phủ nhận những giá trị tốt đẹp của nó. Đặt mình vào hoàn cảnh lịch sử của đất nước để chiêm nghiệm. Đặt mình vào cuộc sống xã hội xô bồ ngày hôm nay, khi mà những chuẩn mực đạo đức về cách sống của con người đang lung lay và chực gục ngã để suy nghĩ. Khi ấy, ta mới thấy hết được giá trị của những "hạt bụi vàng" như bà Hiền và những người cũng thế hệ bà.
 
Top Bottom