Ca dao huế

M

mihiro

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Sách Âu Châu Cận Lục của Dương Văn An, thế kỷ thứ 16, có đoạn viết về Huế: 'Mặt đất non sông tươi đẹp, biển cả sóng nước mênh mông'. Còn trong dân gian vẻ đẹp Huế được truyền tụng:

1090519084937.210.jpg

'Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ'

Không chỉ cảnh quan thiên nhiên xinh đẹp, Huế trước đây còn là kinh đô của nhà Nguyễn hàng trăm năm, nên đã hội tụ văn hoá nhiều miền của đất nước, tạo nên một di sản văn hoá đồ sộ, trong đó có CA DAO. Ca dao Huế có câu:

'Hồ Tịnh Tâm nhiều sen Bách Hợp
Đất Hương Cần ngọt quýt thơm cam'

Câu ca dao như thế thường xuất phát từ xúc cảm của con người trước thiên nhiên và cuộc sống, rồi vì lời hay ý đẹp nên lan dần trong dân gian, và truyền tụng từ đời này sang đời khác. Ca dao cũng biến đổi theo thiên nhiên, con người, và những thăng trầm của thế sự.

'Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang'
Rồi thì qua một cuộc bể dâu, ca dao lại đổi khác

Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông Nhà Hồ nổi táng, cấm nghiêm'

Đó là những câu ca dao nói về đoạn đường gian khổ, khó khăn, khi từ Bắc vào Huế. Ngày nay, phá Tam Giang được bồi đắp dần dần và trở thành những mảnh đất màu mỡ cho con người canh tác. Ngày xưa, từ Bắc vào Nam đã khó, nhưng từ Nam ra Huế cũng chẳng dễ dàng
'Chiều chiều mây phủ Hải Vân
Chim kêu ghành đá, tủi thân thêm buồn'

Đèo Hải Vân nằm giữa hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Nam , từng được gọi là Đệ Nhất Hùng Quan. Đường bộ là thế, còn đường biển thì có Hang Dơi.

'Đi bộ thì khiếp Hải Vân
Đi thuyền thì sợ sóng thần Hang Dơi'

Ca dao Huế còn lấy sự trường tồn của cảnh quan để so sánh với tấm lòng thủy chung của con người:
'Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong
Dẫu ai ăn ở hai lòng
Em đây vẫn một dạ thủy chung với chàng'
*
'Núi Truồi ai đắp nên cao?
Sông Gianh ai bới, ai đào, mà sâu ?'

Ca dao Huế còn có ý nghĩa gợi nhớ công lao của bậc tiền nhân, hay, ta thán về nhân tình thế thái. Huế ngày nay được xem là một bảo tàng lộ thiên với điện ngọc, đền vàng, lăng tẩm. Đó chính là di sản văn hoá vật chất về di tích cố đô, và là di sản văn hoá của cung đình Việt Nam . Những tố chất đó là nguồn cảm hứng cho con người. Bởi thế, ca dao xứ Huế không chỉ ngợi ca về thiên nhiên, nói về nhân tình thế thái, mà còn tìm thấy được hình ảnh của kiến trúc cố đô Huế trong ca dao.
'Ngọ Môn năm cửa, chín lầu
Cột Cờ ba bậc, Phú Văn Lâu hai tầng'
*
'Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh'

Chính những điệu hò, những câu ca dao nặng tình yêu thương quê hương đất nước, đã thấm đẫm vào con người Huế từ thuở ấu thơ. Vì thế, mỗi lần giỗ, Tết, được trở về cố thổ để tưởng nhớ Tổ Tiên, thăm lại bà con, bạn bè, bên chén trà, chung rượu, ôn cố tri tân, bao giờ cũng vẫn là điều mong ước. Một tình cảm thiêng liêng không xoá nhoà được trong lòng ngươi Huế tha hương.
Huế là một miền đất có một cảnh quan thơ mộng, xinh đẹp, và từ đời sống thiên nhiên đó, ca dao đã được hình thành. Cứ mỗi địa danh, gần như có một câu ca dao. Ví dụ cụ thể như chúng ta đi từ thượng nguồn sông Hương về hạ nguồn sông Hương, thì sẽ thấy có những câu ca dao như là:
'Gió đưa cành trúc la đà
Tiêng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương'

(CÒN NỮA...)
 
M

mihiro

Ca dao huế (2)

[...] Đến Kim Long thì có câu:

'Thuyền về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đến nơi đây là ngả rẽ của lòng
Biết nơi mô bến đục, bến trong cho em nhờ?'

Rồi Phú Văn Lâu, rồi Cầu Trường Tiền, rồi Chợ Đông Ba, tất cả đều có một giòng chảy của ca dao. Và, có nhiều nhà thơ, nhà nho, cũng đã làm cho nền ca dao phong phú lên. Cụ thể như những câu hò mái nhì, những câu ca dao của Ưng Bình Thúc Giạ Thị cũng đã làm cho nền văn học dân gian trở nên sinh động, và nó đi vào trong tâm thức của con người. Cụ thể như câu hò mái nhì:

2090519084937.210.jpg


'Chiều chiều, trước Bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non'

Ca dao Huế cũng là nơi gửi gắm của lòng người ưu tư theo vận nước. Tương truyền vào khoảng đầu năm 1916, Trần Cao Vân thường đến ngồi câu cá ở Phú Văn Lâu để chờ gặp vua Duy Tân. Bên kia sông, con thuyền thấp thoáng để chờ đón vua rời khỏi kinh thành, ra đi khởi nghĩa. Không ngờ, âm mưu bại lộ, vua Duy Tân bị bắt và bị lưu đày. Ngày nay, lời ru cảm thán về vận nước vẫn còn in đậm trong lòng người dân Huế.

Ca dao còn là nơi gửi gắm nỗi lòng uẩn ức trước những hà khắc của chế độ phong kiến.


'Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân'

Vạn Niên là một kiến trúc cầu kỳ nằm trong Lăng Tự Đức. Ngày nay, Lăng Tự Đức trở thành một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn. Lăng như một bức tranh sơn thủy hữu tình, gợi cho du khách một hồn êm thơ mộng.

Ca dao đi vào nông thôn với những lời khuyên cần kiệm

'Được mùa chớ phụ ngô khoai
Đến khi Thân, Dậu lấy ai bạn cùng'

Là một lời cảnh báo trước hiểm hoạ thiên nhiên trong vùng đất thường xảy ra thiên tai. Là lời nhắc nhở con người: hãy sống thủy chung.

Cách thành phố Huế 7 km, có cầu ngói Thanh Toàn. Cầu được phỏng theo cầu Nhật ở Hội An. Ở đây, ca dao không chỉ nói đến một địa danh, mà còn ghi nhớ đến một tấm lòng hào hiệp của con người.


'Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Cho em về với một đoàn cho vui'

Qua ca dao, không những làm ta liên tưởng đến lịch sử, thắng tích của Huế, mà còn biết đến những địa danh với những đặc sản riêng của từng vùng.

'Ru em cho thét, cho muồi
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim'

Tuy ca dao xuất phát trong giới bình dân, nhưng nhiều câu rất nên thơ, và ý nghĩa đậm đà, dễ xúc cảm người nghe, nên được nhiều người yêu thích và sưu tầm. Cụ Ưng Luận là một trong những con người đó. Ông sưu tầm ca dao bởi một tấm lòng, như câu thơ của Thanh Tịnh:

'Ước gì để lại mai sau
Một câu, một chữ, đượm màu dân gian'

Như sợ ca dao mai một theo giòng thời gian, cụ Ưng Luận vẫn ngày đêm miệt mài với công trình tìm kiếm ca dao của mình, để mong đóng góp một phần nhỏ vào kho tàng văn học dân gian của cố đô.

'Ca dao đã truyền tải được nhiều đền đài, thắng tích, kể cả cuộc sống của vua chúa, như là ca dao xứ Huế. Đọc ca dao xứ Huế, chúng ta sẽ thấy cả Ngọ Môn, Cột Cờ, Văn Thánh, Võ Thánh. Biết được Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Đào Duy Từ, chẳng hạn. Cụ Ưng Luận là một người rất từng trãi ở Huế. Tuổi cao. Cụ vốn là một người có uy tín ở trong hoàng tộc cũ. Là nhà giáo lâu năm, nhà hoạt động văn hoá. Có lẽ, nhờ những đặc điểm đó mà cụ đã gom góp lại được cái kho tàng trí tuệ này. Trình bày một cách, có thể nói là, khá sắc sảo, hóm hỉnh, với cái nhìn của một người từng trãi. Ca dao xứ Huế do cụ biên tập và bình giảng, đã giúp cho người dân xứ Huế, nhìn lại mình một cách kỹ hơn, soát xét lại kho tàng trí tuệ của Cha Ông mình, và tiếp nhận nó để đi vào cuộc sống hiện naỵ'

Huế từng là kinh đô của nước Việt trong thời gian dài, nên đã quy tụ nhiều danh nhân khắp các địa phương. Bởi thế, ca dao có câu xuất phát từ Huế, nhưng cũng có câu từ nơi khác đến. Theo tạp chí Nam Phong số 10 tháng 4 năm 1918, thì một nhà báo miền Bắc, nhân dịp dạo thuyền trên sông Hương vào đêm khuya, đã cao hứng viết hai câu:


'Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương'

Không ngờ hai câu thơ này đã gây nhiều cuộc bàn cãi sôi nổi. Vì chùa Thiên Mụ ở Huế, còn huyện Thọ Xương thì ở Hà Nội.

Có lẽ, nhà báo này đã nhớ đến câu thơ của cụ Dương Khuê:


'Phất phơ ngọn cỏ trăng tà
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương'

Huế cũng có những câu ca dao mang phong cách riêng của mình, không thể lầm lẫn xuất xứ, như lời ca dao nói về cầu Tràng Tiền:

'Cầu Tràng Tiền 6 vài, 12 nhịp
Anh qua không kịp, tội lắm, em ơi !
Nghĩa tào khang ai mà vội dứt
Đêm nằm tâm tức, lụy nhỏ tuôn rơi
Bấy lâu ni chịu tiếng mang lời
Dẫu có xa nhau đi nữa ...
Dẫu có xa nhau đi nữa ...
Cũng bởi ông trời mà xa.'

Ca dao Huế đến nay vẫn còn giữ được sức sống, và còn tiếp tục hoà nhập vào cuộc sống mới, như một tổng kết của tiền nhân, trao truyền lại cho các thế hệ mai sau. Là một di sản văn hoá của dân gian, ca dao Huế, một kho tàng trí tuệ độc đáo, một gia tài văn hoá cộng đồng, đã trãi qua nhiều thử thách của năm tháng. Người ta có thể tìm thấy được ca dao từ những câu hát ru con, những câu hò trên sông nước, thường nghe được ở Huế và các vùng phụ cận. Trong gần 400 năm, từ năm 1558 đến 1945, Huế là một trung tâm chính trị của vua chúa Nguyễn. Bao nhiêu tinh hoa của nhiều thế kỷ đã hội tụ về miền sông Hương, núi Ngự, để tạo nên một vùng đất văn hoá vô cùng đặc sắc. Vì thế, qua ca dao, người ta có thể thấy được ba yếu tố: Thiên Nhiên, Kiến Trúc, và Con Người Huế, đã hoà quyện với nhau, nuôi dưỡng nhau, để Huế trở nên một vùng đất của Thơ, bầu trời của Nhạc, và thế giới của Tâm Hồn.
 
A

anh_anh_1321

Huế và Ca Dao

Do sự trao đổi người và đất có tính chất chính trị dưới đời vua Trần Anh Tôn và sự chỉ dẫn của Trạng Trình giúp chúa Nguyễn lánh nạn về phương Nam mà Huế thuộc chủ quyền của người Việt, rồi trở thành kinh đô của triều Nguyễn.

Và Huế nổi danh trong lịch sử dân tộc, trong tiếng nói dân gian Việt Nam. Người xưa cho rằng Huế là nơi “sơn bất cao, thủy bất thâm”, theo phong thủy thì không tốt cho con người sống ở đây. Nhưng hơn ba trăm năm, từ lúc chúa Nguyễn Hoàng vào lập nghiệp ở Thuận-Quảng, khi chúa sắp qua đời đã có lời dặn con là chúa Sãi: “Đất Thuận, Quảng phía bắc có Hoành sơn và sông Gianh hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân và núi Thạch Bi vững bền; núi sẵn vàng, sắt, biển có cá, muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng, nếu biết dạy dân, luyện binh để chống chọi với nhà Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời, còn nếu thế lực không địch được thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ quên lời dặn của ta.”

Thì chính Trạng Trình đã cho hay trước: “Hoành Sơn nhất *** vạn đại dung thân” (Một dải Hoành Sơn dung thân muôn đời). Và ngọn Hải Vân hiểm trở chẳng kém ải Tần ở Trung Quốc:

Tam niên tam thướng Hải Vân đài
Nhất điểu thân khinh độc vãng hồi
Thảo thụ bán không đê nhật nguyệt
Càn khôn chích nhãn tiểu trần ai
Văn phi sơn thủy vô kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lão tài
Hưu đạo Tần Quan chinh lộ hiểm
Mã đầu hoa tận đới yên khai
(Tam Thướng Hải Vân -Trần Bích San)

Ba năm vượt ải đã ba lần
Nhẹ cánh chim trời dạo Hải Vân
Ngắm rộng kiền khôn coi cũng bé
Lên cao nhật nguyệt tưởng đâu gần
Gió sương như búa tài thêm chuốt
Hồ bể làm nghiên bút mới thần.
Đầu ngựa rừng hoa chen khói nở
Cười ai kêu hiểm lối sang Tần
(Ba lần lên Ải Vân - Vũ Hoàng Chương)

Dù sao thì người dân xứ Huế cũng tự hào được sinh trưởng trên vùng đất đế vương trải qua hàng trăm năm. Niềm tự hào với những nhân vật lập nên sự nghiệp hiển hách bằng công cuộc thống nhất sơn hà, nam tiến, khẩn hoang, dinh điền lập ấp, đào sông khơi ngòi... Niềm mến yêu với nét đẹp và thơ của xứ sở đầy danh lam thắng cảnh mà vua Thiệu Trị đã có nhã hứng sáng tác nên 20 bài thơ gọi là “Nhị Thập Thần Kinh Thắng Cảnh”. Huế còn có hoàng cung, lăng tẩm, chùa chiền...

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Cương

Chùa Thiên Mụ (hay Linh Mụ) nổi tiếng vừa do cảnh trí u nhã giữa lòng Cố Đô, vừa có liên quan trong bước đầu khởi nghiệp của nhà Nguyễn. Tương truyền năm Tân Sửu (160, nhân dịp chúa Nguyễn Hoàng đến thăm xã Hà Khê (huyện Hương Trà), thấy giữa cánh đồng nổi lên một gò cao như hình đầu rồng, phía trước có sông lớn, phía sau có hồ rộng, cảnh trí thật đẹp. Vua hỏi dân địa phương, họ cho biết xưa có người đêm thấy một bà già mặc áo đỏ, quần xanh, ngồi trên đỉnh gò bảo rằng: “Sẽ có môt vị chân chúa đến xây chùa ở đây để tụ khí thiêng cho bền long mạch”, nói xong bà biến mất, nhân đó người ta gọi là gò Thiên Mụ. Chúa cho nơi nầy có linh khí nên truyền dựng chùa gọi là Thiên Mụ Tự.

Chùa Diệu Đế ở vùng Gia Hội là nơi lai vãng đông đúc tín đồ Phật giáo được dân gian mô tả:

Đông Ba Gia Hội hai cầu
Ngó về Diệu Đế bốn lầu hai chuông

Thiên Mụ và Diệu Đế là hai chùa ở kinh thành, được biết đến nhiều. Thật ra chùa chiền ở Huế ngoài vùng kinh thành không kể xiết. Dân gian thường ghi nhận những di tích đáng lưu ý. Ngoài chùa, có các đền miếu như đền thờ Khổng Tử gọi là Văn Thánh, ở gần vùng Kim Long:

Văn Thánh trồng thông Võ Thánh trồng bàng
Ngó xuống Xã Tắc hai hàng mù u

Xã Tắc ở vùng Thành Nội Huế, nơi có nhiều đền miếu nhỏ. Đất Thần Kinh trai thanh gái lịch

Non xanh nước biếc điện ngọc đền rồng
Tháp bảy tầng, Thánh miếu, chùa Ông
Chuông khua Diệu Đế, trống rung Tam Tòa

Tháp bảy tầng ở chùa Thiên Mụ, Thánh miếu là Văn Thánh, Võ thánh, chùa Ông ở cạnh chùa Diệu Đế, thờ Quan Công, vị anh hùng thời Tam Quốc. Tam Tòa ở vùng Thành Nội, gần hoàng cung, nơi xưa có treo trống trước cửa Tam quan để người dân có điều oan ức thì đến đánh ba hồi trống là có người ra tiếp nhận đơn kêu oan để trình vua xét. Thời Pháp thuộc, Tam tòa trở thành Nhà Hội thương, nơi gặp gỡ giữa quan chức triều đình Huế và giới cầm quyền Pháp để bàn việc nước.

Hoàng cung triều Nguyễn nay còn tồn tại là di tích lịch sử có tầm vóc quốc tế, thu hút nhiều du khách. Hoàng cung được xây dựng trên một khu vực rộng lớn, được bao quanh ở vòng ngoài bằng thành lũy kiên cố gọi là kinh thành. Hoàng cung thường gọi là Đại Nội gồm nhiều tòa lâu đài, điện các, cũng có thành bao bọc ở vòng trong gọi là Tử Cấm thành. Kinh thành có nhiều cửa ra vào, người ta biết đến nhiều là hai cửa Thượng Tứ và Đông Ba, thông trực tiếp ra phố Huế. Trên kinh thành có kỳ đài (cột cờ) đối diện với Ngọ môn, cửa chính vào Đại Nội. Đối diện với kỳ đài, ở ngoài kinh thành là Phu Văn Lâu vẫn được dân gian ghi nhớ:

Ngọ môn năm cửa chín lầu
Cột cờ ba cấp, Phu văn lâu hai tầng

Và Phu Văn Lâu lại sống trong lòng dân với câu ca dao hoài niệm Duy Tân, vị vua yêu nước:

Chiều chiều ông Ngự ra câu
Cái ve cái chén cái bầu sau lưng

Trước bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu
Ai sầu ai thảm
Ai thương ai cảm Ai nhớ ai mong
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non

Những câu: “Trước bến Văn Lâu... chạnh lòng nước non”, tác giả là cụ Ưng Bình, nhưng từ lâu được phổ biến rộng trong dân chúng, nên được xem như là ca dao.

Ngọ môn là một công trình kiến trúc quy mô đặc biệt:

Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng tám lầu xanh
Ba cửa thẳng hai cửa quanh
Sinh ra em phận gái không hỏi chốn kinh thành làm chi

Trong Đại Nội có các điện lớn để vua họp triều đình, làm việc với nội các, hoặc tiếp kiến các sứ thần, như điện Thái Hòa, điện Cần Chánh. Các điện nầy có thiết trí ngai vàng, trang hoàng lộng lẫy:
Ai ơi chớ phụ đèn chai
Thắp trong Cần Chánh rạ ngoài Ngọ Môn

Nói đến Kinh thành Huế thì nhớ đến các nhân vật lớn như vua Thành Thái, vị vua có tinh thần chống Pháp, mà cũng là con người đa tình:

Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi

Bởi vì người ta kể chuyện có lần vua đi vi hành trong dân gian gặp một cô lái đò duyên dáng ở vùng Kim Long, hỏi han trò chuyện rồi thấy tâm đầu ý hợp và tuyển vào cung. Một nhân vật phong lưu đất Thần Kinh cũng được người đời mến mộ qua câu hát:

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người đãy yếm khăn điều vắt vai

Theo tác giả Trần Thanh Mại thì hai câu nầy do Tương An Quận Vương làm ra để nhớ Hồng Bảo, em vua Tự Đức, bị vua trị tội mưu phản, bắt giam vào ngục.

Theo một tác giả khác (Tùng Lâm) thì ông hoàng Văn Lãng Công (Hồng Dật), tức là vua Hiệp Hòa về sau, ưa thú phong lưu, thường dạo hồ sen, vai mang đãy gấm (đựng thuốc điếu), vắt khăn điều. Công chúa Đồng Xuân mê dáng điệu ông hoàng, nên có câu hát trên. Cố đô Huế còn được biết tiếng với cầu Trường Tiền, chợ Đông Ba:

Chợ Đông Ba đem ra ngoài dại
Cầu Trường Tiền đúc lại xi -moong

Cầu Trường Tiền xưa là cầu gỗ, gọi là cầu Thành Thái.

Trận bão năm Giáp Thìn (1904) rất lớn làm sập cầu, nên người Pháp cho làm lại cầu đúc, gọi là cầu Clémenceau, nhưng dân gian vẫn còn gọi là cầu Trường Tiền, vì cầu ở gần vị trí sở đúc tiền ngày xưa. Chợ Đông Ba cũng bị tàn phá vì trận bão đó nên phải đem ra ngoài dại, tức là đông chợ giữa trời.

Đời sống dân chúng Huế sinh động theo công việc mua bán từ ngày đến đêm, ở trên cạn cũng như ở bến nước, mà trên sông Hương thì là sinh hoạt phong lưu của kẻ dạ du:

Bến chợ Đông Ba tiếng gà eo óc
Bến đò Thọ Lộc tiếng trống sang canh
Giữa sông Hương dợn sóng khuynh thành
Đêm khuya một chiếc thuyền mành ngả nghiêng

Bến đò Thọ Lộc ở giữa thôn Vỹ và chợ Cống, bên hữu ngạn sông Hương.

Khách lãng tử thì tìm thú vui trên sông Hương, người dân chất phác, hồn hậu chỉ biết thổ lộ tình cảm kín đáo của mình qua mấy lời tâm sự:

Giả đò buôn hẹ bán hành
Vô ra chợ Cống thăm anh kẻo buồn

Trên sông Hương, chèo con đò dọc đi lại bán buôn ở chợ Đông Ba, những đôi nam nữ ở thôn dã thường gặp nhau rồi chia tay ở một ngã ba sông, gây nên tình lưu luyến vấn vương:

Gặp nhau ở ngã ba Sình
Em xuôi anh ngược đem tình nhớ thương

hay nỗi tuyệt vọng:

Thuyền về Đại Lược duyên ngược Kim Long
Đến đây là chỗ rẽ của đôi lòng
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào

Cuộc tình sông nước ở đất Thần Kinh cũng để lại một chuyện tình buồn:

Trăm năm dù lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa
Con đò sớm thác năm xưa
Cây đa bến cũ còn lưa đến chừ

Huế là xứ sở thanh bình của thơ và mộng. Nhưng cũng có lúc dậy lên những biến động. Như loạn Chày Vôi ở Khiêm Lăng, dưới triều vua Tự Đức:

Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành phơi xương lính hào đào máu dân

Việc thao túng triều đình của hai ông Tường, Thuyết:

Nước Nam có bốn anh hùng
Tường gian, Viêm dối, Khiêm khùng, Thuyết ngu

Thời cuộc rối ren dưới triều vua Hàm Nghi và Đồng Khánh:

Gẫm xem thế sự thêm rầu
Ở giữa Đồng Khánh hai đầu Hàm Nghi

Hay vua chúa cũng bị thất điên bát đảo

Một nhà sinh đặng ba vua
Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài

(Vua còn: Đồng Khánh, vua mất: Kiến Phúc, vua thua: Hàm Nghi).

Riêng về thổ ngơi, Huế - Thừa Thiên là nơi nổi tiếng về các sản vật địa phương:

Quít giấy Hương Cần
Cam đường Mỹ Lợi
Vải trạng cung Diên
Nhãn lồng PhụngTiên
Đào tiên Thế Miếu
Thanh trà Nguyệt Biều
Dâu da rừng Truồi
Hột sen hồ Tịnh

oOo

Huế tuy là một thành phố nhỏ hẹp nhưng là nơi có nhiều ưu điểm về giá trị văn hóa. Ủy ban Văn hóa Liên Hiệp Quốc đã đưa Huế vào danh sách các di tích được bảo vệ cho tài sản văn hóa chung của nhân loại.

Về mặt truyền thống, Huế có nhiều công trình kiến trúc cổ như Đại Nội, lăng tẩm, điện đài, chùa chiền...

Cũng như con người Huế từng biểu lộ phong độ của kẻ sĩ đối với cuộc hưng vong của đất nước, nếp sống thanh lịch, tình cảm đôn hậu. Người phụ nữ Huế từng tỏ ra có nhiều đức tính tốt về nữ công gia chánh, chăm sóc gia đình, phẩm hạnh mực thước, đoan trang.

Dù Huế chỉ có một thời vàng son với nếp sống cung đình, ảnh hưởng ra ngoài dân gian, nhưng vang bóng vẫn còn mãi không chỉ trong lòng người Huế, mà còn ở trong lòng người Việt khắp nơi. Bởi vì ở bất cứ không gian nào, trong hoặc ngoài nước Việt, khi phương danh Huế được nhắc đến là người ta hình dung được miền cố đô thơ mộng, có cảnh đẹp người xinh, nhất là có những người con gái thuộc dòng họ hoàng gia, mang những cái tên hoa mỹ và dài dặc rất điển hình của xứ Huế. ?
 
Top Bottom