M
mrxloc


[FONT="]Có người nói: “ Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam tựa hồ như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời để lại cái đuôi chói lòa, rực rỡ của mình.” Cuộc đời Hàn Mặc Tử lắm đau thương, căn bệnh phong hủi đã làm ông u uất đến điên dại. Một người luôn mang lỗi đau quằn xé thì những bài thơ lạ là điều dễ hiểu thôi. Nhưng cái làm ta ngạc nhiên là bên cạnh những bài thơ điên vẫn có những bài thơ tinh khôi, trong trẻo, nó tựa hồ như một đóa lan trong trẻo mọc giữa đám cây man dại. Đây Thôn Vĩ Dạ trích từ tập Đau Thương là một bài thơ như thế.[/FONT]
[FONT="] Đây Thôn Vĩ Dạ đã ra đời hơn nửa thế kỉ qua nhưng cho đến nay vẫn chưa có cách hiểu thống nhất. Có người xem đây là bài thơ tả cảnh xứ Huế thi vị. Có người hiểu rằng đây là bài thơ tỏ tình. Lại có người khôn ngoan làm cái gạch nối: tả cảnh nói tình. Thiết nghĩ với một văn bản thơ như thế này thì cách hiểu đúng nhất là căn cứ vào hình tượng thơ.[/FONT]
[FONT="]Bài thơ mở đầu bằng câu hỏi:[/FONT]
[FONT="]Câu hỏi nhẹ nhàng ngân lên như tiếng lòng của một cô gái Huế nào đó đã mời mọc chàng trai về Vĩ Dạ nhưng chàng trai không về nên oán trách hờn dỗi. Sau câu hỏi, người đọc chờ một lời lí giải:[/FONT]
[FONT="]Thật bất ngờ, không phải câu trả lời mà là câu thơ tả phong cảnh xứ Huế rất nên thơ. Thôn Vĩ Dạ xưa nay vốn nổi tiếng bởi cảnh vật hữu tình làm mê hồn bao du khách:[/FONT]
[FONT="]Ở bài này, Hàn Mặc Tử đã tô điểm thêm cái mê hồn ấy bằng cách vẽ lại những ấn tượng về khóm trúc hàng cau, về màu xanh huyền ảo. Những cây cỏ, hoa lá ở Vĩ Dạ mà Hàn Mặc Tử nói đến có thể gặp ở bất kỳ đâu trên đất nước này, có điều trong trang thơ này, nó vẫn có những ấn tượng rất riêng. Đầu tiên là nắng:[/FONT]
[FONT="]Hai từ “ nắng “ được lặp lại liên tiếp tạo ấn tượng về cái nắng bao trùm. Có điều ở đây cái nắng không phải miêu tả bình thường mà rất cụ thể: ” nắng hàng cau “. Trong những khu vườn ở Huế, người ta vẫn thường thấy những cây cau cao hơn tất cả. Nó vươn lên mạnh mẽ để chiếm lấy cái sâu thẳm của bầu trời và mỗi bình minh, nó cũng là loài thức dậy đầu tiên để đón nhận tia nắng mới. Hai chữ “ nắng mới “ không chỉ làm ta nghĩ đến cái nắng phơn phớt nhẹ nhàng mà khiến ta hình dung về những ánh ban mai hồng ấm áp thân mật. Cảnh sắc ấy cũng gợi ta nhớ đến một câu thơ tuyệt diệu của Tố Hữu:[/FONT]
[FONT="]< Xuân Lòng – Tố Hữu >[/FONT]
[FONT="]Cũng cần nói thêm rằng, hình ảnh nắng là hình ảnh quen thuộc trong thơ hàn Mặc Tử. Nhưng ở những bài khác thường là nắng “ tươi “, nắng “ ửng “, nắng “ chang chang “... còn bài này là nắng mới trinh nguyên làm dậy lên vẻ đẹp mộng mơ của bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ. Vẻ đẹp ấy còn được nói ở câu sau:[/FONT]
[FONT="]Nếu câu trên ánh mắt thi sĩ hướng lên cao thì câu này tầm nhìn đã hạ xuống thấp và thi sĩ đang bao quát theo chiều rộng. Ấn tượng về khu vườn được nói đến qua từ “ mướt quá “. Mướt quá chứ không phải là mượt quá. Nếu mượt quá chỉ đơn thuần gợi sự mềm mại, mịn màng thì mướt quá còn mang dáng vẻ non tơ lóng lánh. Có lẽ vào mỗi buổi sớm mai, khi cảnh vật vừa được tắm gội trong sương đêm thanh sạch thì ánh sáng ngày mới chiếu vào làm nó sáng lên màu ngọc bích, vừa kỳ ảo, vừa huyền hồ. Câu thơ làm ta liên tưởng đến câu thơ của nhà thơ Xuân Diệu:[/FONT]
[FONT="]< Trích: Thơ Duyên – Xuân Diệu >[/FONT]
[FONT="]Cái khác ở chỗ Xuân Diệu chủ yếu nhấn mạnh sắc xanh còn Hàn Mặc Tử dùng so sánh để nhấn mạnh sự quý giá, trong trẻo, nõn là. Và tất cả sự quý giá, nõn là này đều thuộc về vườn ai.[/FONT]
[FONT="]Chữ “ ai “ trong nhiều trường hợp gợi ra sự yêu thương ngọt ngào song ở đây có cái gì xa xôi, khó xác định. Vậy là câu thơ thứ ba rất khác với câu hai. Câu hai cảnh sắc chân thực, rõ ràng, câu ba nhuốm màu hư ảo. Câu hai niềm vui dâng trào khi tận hưởng sắc nắng, câu ba với chữ “ ai “ chỉ quan hệ sở hữu thì sắc xanh ấy đã không thuộc về nhà thơ nữa rồi. Niềm vui vừa bừng lên lại rơi vào se lạnh. Vì se lạnh nên càng cảm thấy khát khao, gắn bó với vẻ đẹp kia. Và thế là những hình ảnh khác lại miên man sống dậy:[/FONT]
[FONT="]Chữ “ che ngang “ vừa gợi sự đan xen, vừa gợi sự hài hòa trong cảm nhận của nhiều người. Cụm từ “ mặt chữ điền “ đem đến nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho đây là khuôn mặt đàn ông, có người hiểu đây là khuôn mặt đàn bà, lại có người xem ấy chính là khuôn mặt của Hàn Mặc Tử ( Ý kiến này của Chu Văn Sơn vì ông thấy Hàn Mặc Tử hay vẽ mặt mình ). Thực ra trong văn chương có cái “ bất khả tri “, người ta không thể biết chính xác nói về ai mà biết cũng chẳng để làm gì. Chỉ cần biết người Huế có những câu ca dao này:[/FONT]
[FONT="]Hay:[/FONT]
[FONT="]Như vậy, khuôn mặt chữ điền biểu hiện cho sự chung thủy, nghĩa tình quý giá của con người. Khuôn mặt ấy ẩn hiện trong dáng trúc nên càng đẹp hơn.[/FONT]
[FONT="]Ba câu thơ đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ tuyệt diệu, con người Vĩ Dạ cũng thật đáng yêu mà sao anh không về? Thì ra câu đầu hình thức là câu hỏi nhưng không phải để tìm kiếm câu trả lời mà làm sống dậy, để đánh thức kỷ niệm về thôn Vĩ Dạ trong lòng thi nhân: “ Kỷ niệm về một thời học trường dòng Pellerin ở Huế “, kỷ niệm về một ngày đến thăm người trong mộng, chỉ dám đứng đầu ngõ không dám vào... Câu đầu có bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng nên gợi cái gì trong tâm tưởng. Có người cho đây là câu hỏi của Hoàng Cúc song có lẽ không phải bởi thơ Hàn Mặc Tử là thứ thơ hướng nội nên đây chỉ có thể là sự phân thân để tự hỏi lòng mình. Hỏi để nhớ lại người xưa cảnh cũ, hỏi để nuối tiếc một thời gian đã qua. Mà bây giờ đã thành kỷ niệm, thậm chí thành cái ray rứt trong lòng người: Thôn Vĩ Dạ đẹp thế mà sao anh không về? Một câu hỏi đầy ám ảnh mà như còn bao chứa một dự cảm đau lòng: Thôn Vĩ mãi mãi chỉ là một kỷ niệm trong tâm tưởng mà thôi.[/FONT]
[FONT="] Đây Thôn Vĩ Dạ đã ra đời hơn nửa thế kỉ qua nhưng cho đến nay vẫn chưa có cách hiểu thống nhất. Có người xem đây là bài thơ tả cảnh xứ Huế thi vị. Có người hiểu rằng đây là bài thơ tỏ tình. Lại có người khôn ngoan làm cái gạch nối: tả cảnh nói tình. Thiết nghĩ với một văn bản thơ như thế này thì cách hiểu đúng nhất là căn cứ vào hình tượng thơ.[/FONT]
[FONT="]Bài thơ mở đầu bằng câu hỏi:[/FONT]
[FONT="]Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?[/FONT]
[FONT="]Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.[/FONT]
[FONT="]Vĩ Dạ Thôn, Vĩ Dạ Thôn[/FONT]
[FONT="]Bến tre, cần trúc không buồn mà say[/FONT]
[FONT="]< Trích : Huế Đa Tình – Bích Khuê >[/FONT]
[FONT="]Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên[/FONT]
[FONT="]Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu[/FONT]
[FONT="]Tàu cau lấp loáng muôn gươm xanh[/FONT]
[FONT="]Cũng cần nói thêm rằng, hình ảnh nắng là hình ảnh quen thuộc trong thơ hàn Mặc Tử. Nhưng ở những bài khác thường là nắng “ tươi “, nắng “ ửng “, nắng “ chang chang “... còn bài này là nắng mới trinh nguyên làm dậy lên vẻ đẹp mộng mơ của bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ. Vẻ đẹp ấy còn được nói ở câu sau:[/FONT]
[FONT="]Vườn ai mướt quá xanh như ngọc[/FONT]
[FONT="]Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá[/FONT]
[FONT="]Cái khác ở chỗ Xuân Diệu chủ yếu nhấn mạnh sắc xanh còn Hàn Mặc Tử dùng so sánh để nhấn mạnh sự quý giá, trong trẻo, nõn là. Và tất cả sự quý giá, nõn là này đều thuộc về vườn ai.[/FONT]
[FONT="]Chữ “ ai “ trong nhiều trường hợp gợi ra sự yêu thương ngọt ngào song ở đây có cái gì xa xôi, khó xác định. Vậy là câu thơ thứ ba rất khác với câu hai. Câu hai cảnh sắc chân thực, rõ ràng, câu ba nhuốm màu hư ảo. Câu hai niềm vui dâng trào khi tận hưởng sắc nắng, câu ba với chữ “ ai “ chỉ quan hệ sở hữu thì sắc xanh ấy đã không thuộc về nhà thơ nữa rồi. Niềm vui vừa bừng lên lại rơi vào se lạnh. Vì se lạnh nên càng cảm thấy khát khao, gắn bó với vẻ đẹp kia. Và thế là những hình ảnh khác lại miên man sống dậy:[/FONT]
[FONT="]Lá trúc che ngang mặt chữ điền.[/FONT]
[FONT="]Mặt em vuông tự chữ điền[/FONT]
[FONT="]Da em thì trắng áo em mặc ngoài[/FONT]
[FONT="]Lòng em có đất có trời[/FONT]
[FONT="]Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung.[/FONT]
[FONT="]Người ta ham bạc ham tiền[/FONT]
[FONT="]Anh ham khuôn mặt chữ điền của em[/FONT]
[FONT="]Ba câu thơ đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ tuyệt diệu, con người Vĩ Dạ cũng thật đáng yêu mà sao anh không về? Thì ra câu đầu hình thức là câu hỏi nhưng không phải để tìm kiếm câu trả lời mà làm sống dậy, để đánh thức kỷ niệm về thôn Vĩ Dạ trong lòng thi nhân: “ Kỷ niệm về một thời học trường dòng Pellerin ở Huế “, kỷ niệm về một ngày đến thăm người trong mộng, chỉ dám đứng đầu ngõ không dám vào... Câu đầu có bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng nên gợi cái gì trong tâm tưởng. Có người cho đây là câu hỏi của Hoàng Cúc song có lẽ không phải bởi thơ Hàn Mặc Tử là thứ thơ hướng nội nên đây chỉ có thể là sự phân thân để tự hỏi lòng mình. Hỏi để nhớ lại người xưa cảnh cũ, hỏi để nuối tiếc một thời gian đã qua. Mà bây giờ đã thành kỷ niệm, thậm chí thành cái ray rứt trong lòng người: Thôn Vĩ Dạ đẹp thế mà sao anh không về? Một câu hỏi đầy ám ảnh mà như còn bao chứa một dự cảm đau lòng: Thôn Vĩ mãi mãi chỉ là một kỷ niệm trong tâm tưởng mà thôi.[/FONT]