bai viet so 2-gup minh voi cac ban oi

T

thuha_148

*MB: giới thiệu bài "Thương Vợ" của TTX
Trần Thanh Mại đã từng nhận xét:"Đối vs ông TTX, tư tưởng ở trong óc ra thế nào đc dùng ngay thế ấy, lanh lẹ, tươi tắn, ko trau chuốt, ko gọt đẽo, ko dụng công. Howi văn đi như 1 luồng nc chảy xuôi dòng, êm khoả, mau..."
*TB
-Ten gốc của bài thơ là "Tặng bà Tú". Nhà thơ đã chọn đúng giọng điệu dân tộc. Vì thế, nét đẹp nhất, ngọt ngào nhất ở bài thơ là những h/ả, thành ngữ, những lời lẽ dân gian, mộc mạc đc nâng lên ở tầm vóc bacf học
- "Con cò lặn lội bờ sông
Ganhs gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non"
TX viết:
"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ 5 con vs 1 chồng"
+2 h/ả : 1 người khổ sở vừa đi vừa khóc, kể lể, thanh vãn. Bà Tú lại khác, khác từ thời gian đến nơi chốn, công việc.Nơi bà Tú kiếm ăn nhỏ nhoi, nguy hiểm
-+Ca dao kể xuôi : "Con cò lặn lội " , TX đảo lại "Lặn lội thân cò"_những bước đi thụt lầy trong bùn nc, nỗi gian nan hiện lên bội phần. Ông Tú đổi "Thân cò" có nghĩa khái quát hơn, vừa hàm ý, vừa gợi sức liên tưởng
-Cha ông ta có câu
"Con ơi nhớ lấy câu này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua"
Ông Tú đã đổi "đầy" thành "đông"kết hợp với từ tượng thanh, tượng hình, tạo nên câu thơ có hình tượng có giọng :"Eo seo mặt nc buổi gò đông"
TX đã tạc riêng hình ảnh của vợ mình, cũng là đường nét chung của hàng triệu bà mẹ VN lúc bấy giờ
-Ở ngay phần mở đầu tiếp theo ông nói giùm bà những nỗi niềm, tâm trạng
"1 duyên 2 nợ âu đành phận
5 ngắng 10 dám quản công"
+ Từ lời nói hàng ngày, bà con cất lên thành câu hát:" Một yêu tóc bỏ đuôi gà...Hỡi ai trăm mến nghìn thương...." Học tập cách nói ấy, TX sáng tạo "Duyên nợ" thành "1 duyên 2 nợ", vừa miêu tả tình nghĩa vợ chồng, vừa cảm thông cho vợ
+ "âu đành phận" bà vẫn chấp nhận_cái gì đó thật ngọt dịu của tình nghĩa vợ chồng
- Ông kể tiếp:
"4 nắng 10 mưa...."
chứ ko phải "1 nắng 2 sương" như trong thành ngữ: Tất cả cũng chính vì tình nghĩa vợ chồng mà gắng sức vượt qua
- " Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng gờ hững cũng như ko"
+ Cách noi dân gian ko ý nhị nhưng cũng ko khô ráp, xù xì
Ngôn ngữ thơ chuyển sang ngôn ngữ tào lộng, hóm hỉnh. Nghĩa hiện là lời bà Tú trách chồng, trách yêu, những tiếng hờn dỗi. Nghĩa hàn ẩn_là tiếng nói của nhà thơ ăn năn , tự xấu hổ
*Cả tình thơ lẫn lời thơ đều rất dân tộc, bất ngờ và thú vị
*KB: Khái quát tài năng của TX
Học hỏi sự sáng tạo qua phong cách sử dụng ngôn ngữ của TX
;)
 
N

ngocthinhdan

Thơ xưa viết về người vợ đã ít , mà viết về người vợ khi còn sống càng hiếm hoi hơn.Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời.Kể cũng là điều nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca.

Bà Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được :Ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ ông Tú Xương với tất cả niềm thương yêu ,trân trọng của chồng .Trong thơ Tú Xương ,có một mảng lớc viết về người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài xuất sắc nhất.
Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ.

Câu thơ mở đầu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú .Hoàn cảnh vất vả ,lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian ,cách nêu địa điểm .Quanh năm là suốt cả năm ,không trừ ngày nào dù mưa hay nắng.Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt , đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm . Địa điểm bà Tú buôn bán là mom sông ,cái doi đất nhô như lời giưói thiệu ,lại như một bối cảnh làm hiện lên hình bà Tú tần tảo ,tất bật ngược xuôi :

Quanh năm buôn bán ở mom sông.

Thấm thía nỗi vất vả ,gian lao của vợ,Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú .Có điều hình ảnh con cò trong ca dao dầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn.Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian ( như con cò trong ca dao ) mà cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian heo hút ,rợn ngợp ,chứa đầy lo âu cái rợn ngợp của thời gian , đã làm hao hụt cả ý thơ .So với câu ca dao :Con cò lặn lội bờ sông ,câu thơ của Tú Xương:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Là cả một sự sáng tạo .Cách đảo ngữ - đưa ra từ lặn lội lên đàu câu , cách thay từ - thay từ con cò bằng thân cò ,càng làm tăng nỗi vất vả gian truân của bà Tú.Từ thân cò gợi cả nỗi đau thân phận ,so với từ con của Tú Xương cũng sâu sắc ,thấm thía hơn.

Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Câu thơ gợi cảnh chen chúc ,bươn bả trên sông nước của những người buôn bán nhỏ.Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại .Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu ,nguy hiểm hơn khi quãng vắng.Trong ca dao ,người men\j từng dặn con : Con oi nhơ lấy câu này / Sông sâu chớ lội , đò đầy chớ qua. “Buổi đò đông” không chỉ có những lời phàn nàn ,mè nheo , cau gắt , những sự chen lán xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc hiểm nguy .Hai câu thực đối nhau về ngữ ( khi quãng vắng đối với buổi đò đông ) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú: đã vất vả , đơn chiếc ,lại thêm sự bươn bả trong hoàn cảnh chen chúc làm ăn .Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương :tấm lòng xót thương da diết.

Cuộc sống vâts vả gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú .Bà là người đảm đang tháo vát :
Nuôi đủ năm con với một chông

Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý ,từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng ,vừa nói chất lượng .Bà Tú nuôi đủ cả con ,cả chồng , nuôi đảm bảo đén mức: “Cơm hai bữa :cá kho rau muốn – Quà một chiều : khoai lang ,lúa ngô” (Thầy đồ dậy học).

Trong hai câu luận ,Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hy sinh rất mực của vợ:
Năm nắng mười mưa dám quản công

Ở câu thơ này , “nắng mưa” chỉ sự vất vả , “năm mười” là số lượng phiếm chỉ ,để nói số nhiều , được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao ,vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó ,hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương ,bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện lên phía trước , ông Tú khuất lấp ở phía sau ,nhìn tinh mới thấy .Khi đã thấy rối thì ấn tượng thật sâu đậm. Ở bài thơ thương vợ cũng vậy. Ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhunge vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài , trào phúng là cả một tấm lòng ,không chỉ thương mà còn tri ân vợ.Về câu thơ Nuôi đủ năm con với một chồng,có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là một thứ con đặc biệt để bà Tú phải nuôi.Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách riêng ,con riêng rất rạch ròi là để ông tự riêng tri ân vợ.

Nhà thơ không chỉ cảm phục ,biết ơn sự hy sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách , tự lên án bản thân . Ông không dựa vào duyên số đẻ trút bỏ trách nhiệm.Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai.Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu.Nợ gấp đôi duyên,duyên ít nợ nhiều . Ông chửi thói đời bạc bẽo ,vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ.Nhưng Tú Xương cũng không đoẻ vấy cho thói đời .Sự hờ hững của ông với con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo.Câu thơ tú Xương tự rủa mát mình cũng là lời tự phán xét ,tự lên án:
Có chông hờ hững cũng như không

Ở cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn bẳn đối với người phụ nữ: “xuất giá tòng phu” ( lấy chồng theo chồng ), đối với mối quan hệ vợ chồng thì “phụ xướng ,phụ tuỳ” (chồng nói ,vợ theo), thế mà có một nhà nho dám sòng phẳng với bản thân ,với cuộc đời,dám tự thừa nhận mình là quân ăn lương vợ ,không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhân khuyết điểm .Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao.

Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ này,tác giả không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ,không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách.

Nhà thơ dám tự nhân khuyết điểm ,càng thấy mình khiếm khuyết càng thương yêu ,quý trọng vợ hơn.

Tình thương yêu ,quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại .Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian ,chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ , độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người ,vẫn có gố rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.
 
M

meocon2x

bạn vào đây mà coi nè

Thương vợ là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của ông tú đối với người vợ hiền thảo của mình.
Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh của bà Tú trong gia đình và ngoài cuộc đời- hình ảnh chân thực về một người vợ tần tảo, một người mẹ đôn hậu, giàu đức hi sinh.
Hai câu đầu trong phần đề giới thiệu bà Tú là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu như bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ đần trong mọi việc (cấu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà tú là một người đàn bà:
“Quanh năm buốn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Quanh năm buôn bán là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác… không được một ngày nghỉ ngơi. Bà tú buôn bán ở mom sông, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ mom sông gợi tả cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời cơ cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “nuôi đủ năm con với một chồng”. Một gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc chứ ai đếm con, đếm chồng (!). Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải ăn lương vợ.
Có thể nói, hai câu đầu, Tú Xương ghi lại một cách chân thực người vợ tần tảo, đảm dang của mình:
Phần thực tô đậm thêm chân dung bà tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm ăn như “thân cò” nơi quãng vắng. Ngôn ngữ thơ tăng cấp độ tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng: đã lặn lội lại thân cò, rồi còn khi quãng vắng. Nỗi cực nhọc kiếm sống ở mom sông tưởng như không thể nào nói hết được! Hình ảnh con cò, cái cò trong ca dao cổ: Con cò lặn lội bờ sông…, con cò đi đón cơn mưa, cái cò, cái vạc cái nông… được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh thân cò lầm lũi đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Eo sèo là từ láy tượng thanh chỉ sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai dẳng; gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi mặt nước buổi đò đông. Một cuộc đời lặn lội, một cảnh sống, làm ăn eo sèo. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm manh áo mà bà tú kiếm được nuôi đủ năm con với một chồng phải lặn lội trong mưa nắng, phải giành giật eo sèo, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn!
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Duyên là duyên số, duyên phận, nợ là cái nợ đời mà bà tú phải cam phận, chịu đựng. Nắng, mưa tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quí: đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện bút pháp điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, đảo ngữ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và hình ảnh thân cò… đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn của văn chương.
Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi mom sông, lúc buổi đò đông đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Trách mình ăn lương vợ mà ở bạc. Vài trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn hờ hững với vợ con. Lời trách sao mà chua xót thế!
Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống giữa một xã hội dở tây dở ta chữ nho mạt vận, lúc mà ông nghè ông cống cũng nằm co chi nên nhà thơ tự trách mình đồng thời cũng là trách đời đe bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia tối rượu sâm banh sáng sữa bò.
Hai câu kết là cả một nõi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách nặng tình đời, thương vợ con mà gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương mình vậy! Nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi!
Bài thơ thương vợ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đương luật. Ngôn ngữ thơ bình dị như tiếng nói đời thường nơi mom sông của những người buôn bán nhỏ, cách đây gần một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với năm con, một chồng) vừa khái quát sâu sắc: người phụ nữ ngày xưa). Hình tượng thơ hàm súc gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. Thương vợ là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao tình cảm trân trọng tốt đẹp. Hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đinh Việt Nam.
Tú Xương là nhà thơ trào phúng xuất sắc trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị. Sinh bất phùng thời giữa cái thời dở Tây dở ta, khi mà Hán học đã mạt vận. Tú Xương vẫn giữ được nhân cách kẻ sĩ, vẫn sống “sang trọng” như ai, bởi lẽ nhà thơ có người vợ hiền thảo đảm đang. Tú Xương không bảng vàng bia đá, nhưng ông đã khắc tên tuổi bà Tú vào bia đá bảng vàng:
“Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng,
Bốn con làm lính, bố làm quan.
(…) Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ
Đem chuyện trăm năm - giở lại bàn”.
(Quan tại gia)

Tú Xương đã có bài “Văn tế sống vợ”, lại có thêm bài “Thương vợ”, đó là những áng văn thơ vừa tài tình vừa nghĩa tình. Ca dao đã nói người vợ tao khang “tay bưng chén muối đĩa gừng”. Tú Xương có bao giờ quên được công ơn của bà Tú “nuôi đủ năm con với một chồng”.

Tú Xương trào phúng tất cả, kể cả tự trào. Nhưng riêng ở bài thơ này sao mà xót xa và thắm thiết đến thế, một nỗi thương cảm, một tình yêu, một tâm sự biết ơn trong toàn bài, và đọng lại rất sâu ở mom sông, ở lặn lội thân cò, ở eo sèo mặt nước....
Tú Xương, người từng có thơ về các thú chơi, trong đó có thú chơi cô đầu:

(...)

Hỏi ô, ô mất bao giờ
Hỏi em, em cứ ỡm ờ không thưa
Chỉ e rày nắng mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình

Nhưng tôi cứ nghi ngại - đó là chuyện nhà thơ đùa cợt, hoặc cường điệu cho vui, còn chuyện thực, tình thực rất mực nguyên vẹn vẫn cứ là dồn tụ ở nơi bà Tú, vợ một ông Tú mà xoay trở, mà bươm chải, mà vất vả biết bao trong cuộc mưu sinh để nuôi ông chồng "dài lưng tốn vải", tám khoa thi vẫn hỏng, và cả đàn con - "một đàn rách rưới con như bố"...
 
M

meocon2x

bạn vào đây mà coi nè

Thương vợ là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của ông tú đối với người vợ hiền thảo của mình.
Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh của bà Tú trong gia đình và ngoài cuộc đời- hình ảnh chân thực về một người vợ tần tảo, một người mẹ đôn hậu, giàu đức hi sinh.
Hai câu đầu trong phần đề giới thiệu bà Tú là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu như bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ đần trong mọi việc (cấu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà tú là một người đàn bà:
“Quanh năm buốn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Quanh năm buôn bán là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác… không được một ngày nghỉ ngơi. Bà tú buôn bán ở mom sông, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ mom sông gợi tả cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời cơ cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “nuôi đủ năm con với một chồng”. Một gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc chứ ai đếm con, đếm chồng (!). Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải ăn lương vợ.
Có thể nói, hai câu đầu, Tú Xương ghi lại một cách chân thực người vợ tần tảo, đảm dang của mình:
Phần thực tô đậm thêm chân dung bà tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm ăn như “thân cò” nơi quãng vắng. Ngôn ngữ thơ tăng cấp độ tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng: đã lặn lội lại thân cò, rồi còn khi quãng vắng. Nỗi cực nhọc kiếm sống ở mom sông tưởng như không thể nào nói hết được! Hình ảnh con cò, cái cò trong ca dao cổ: Con cò lặn lội bờ sông…, con cò đi đón cơn mưa, cái cò, cái vạc cái nông… được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh thân cò lầm lũi đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Eo sèo là từ láy tượng thanh chỉ sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai dẳng; gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi mặt nước buổi đò đông. Một cuộc đời lặn lội, một cảnh sống, làm ăn eo sèo. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm manh áo mà bà tú kiếm được nuôi đủ năm con với một chồng phải lặn lội trong mưa nắng, phải giành giật eo sèo, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn!
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Duyên là duyên số, duyên phận, nợ là cái nợ đời mà bà tú phải cam phận, chịu đựng. Nắng, mưa tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quí: đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện bút pháp điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, đảo ngữ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và hình ảnh thân cò… đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn của văn chương.
Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi mom sông, lúc buổi đò đông đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Trách mình ăn lương vợ mà ở bạc. Vài trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn hờ hững với vợ con. Lời trách sao mà chua xót thế!
Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống giữa một xã hội dở tây dở ta chữ nho mạt vận, lúc mà ông nghè ông cống cũng nằm co chi nên nhà thơ tự trách mình đồng thời cũng là trách đời đe bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia tối rượu sâm banh sáng sữa bò.
Hai câu kết là cả một nõi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách nặng tình đời, thương vợ con mà gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương mình vậy! Nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi!
Bài thơ thương vợ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đương luật. Ngôn ngữ thơ bình dị như tiếng nói đời thường nơi mom sông của những người buôn bán nhỏ, cách đây gần một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với năm con, một chồng) vừa khái quát sâu sắc: người phụ nữ ngày xưa). Hình tượng thơ hàm súc gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. Thương vợ là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao tình cảm trân trọng tốt đẹp. Hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đinh Việt Nam.
Tú Xương là nhà thơ trào phúng xuất sắc trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị. Sinh bất phùng thời giữa cái thời dở Tây dở ta, khi mà Hán học đã mạt vận. Tú Xương vẫn giữ được nhân cách kẻ sĩ, vẫn sống “sang trọng” như ai, bởi lẽ nhà thơ có người vợ hiền thảo đảm đang. Tú Xương không bảng vàng bia đá, nhưng ông đã khắc tên tuổi bà Tú vào bia đá bảng vàng:
“Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng,
Bốn con làm lính, bố làm quan.
(…) Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ
Đem chuyện trăm năm - giở lại bàn”.
(Quan tại gia)

Tú Xương đã có bài “Văn tế sống vợ”, lại có thêm bài “Thương vợ”, đó là những áng văn thơ vừa tài tình vừa nghĩa tình. Ca dao đã nói người vợ tao khang “tay bưng chén muối đĩa gừng”. Tú Xương có bao giờ quên được công ơn của bà Tú “nuôi đủ năm con với một chồng”.

Tú Xương trào phúng tất cả, kể cả tự trào. Nhưng riêng ở bài thơ này sao mà xót xa và thắm thiết đến thế, một nỗi thương cảm, một tình yêu, một tâm sự biết ơn trong toàn bài, và đọng lại rất sâu ở mom sông, ở lặn lội thân cò, ở eo sèo mặt nước....
Tú Xương, người từng có thơ về các thú chơi, trong đó có thú chơi cô đầu:

(...)

Hỏi ô, ô mất bao giờ
Hỏi em, em cứ ỡm ờ không thưa
Chỉ e rày nắng mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình

Nhưng tôi cứ nghi ngại - đó là chuyện nhà thơ đùa cợt, hoặc cường điệu cho vui, còn chuyện thực, tình thực rất mực nguyên vẹn vẫn cứ là dồn tụ ở nơi bà Tú, vợ một ông Tú mà xoay trở, mà bươm chải, mà vất vả biết bao trong cuộc mưu sinh để nuôi ông chồng "dài lưng tốn vải", tám khoa thi vẫn hỏng, và cả đàn con - "một đàn rách rưới con như bố"...
 
Top Bottom