Văn mẫu 9 [Bài văn] Phân tích bài thơ đoàn thuyền đánh cá.

wyn.mai

Cựu Mod Văn
HV CLB Địa lí
Thành viên
9 Tháng năm 2020
2,043
8,868
726
Lâm Đồng
Lý Tự Trọng
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Đề bài: Phân tích bài thơ đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
Bài làm
Văn học không chỉ đơn thuần là những câu văn, ngôn từ mà còn là sự giao thoa giữa cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ và cảm hứng về lao động. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận đã toát lên được vẻ đẹp ấy, một vẻ đẹp huyền ảo về bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hòa quyện cùng hình ảnh ngư dân hào hứng tận hưởng nguồn tài nguyên dồi dào từ biển. Bài thơ chính là cảm hứng lấy từ chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, đứng trước thiên nhiên đẹp đẽ hùng vĩ với tư cách của những con người làm chủ đất trời, được tiếp xúc và chứng kiến cuộc sống lao động mới của những con người lao động trên biển, hồn thơ Huy Cận đã thực sự hồi sinh.

Mở đầu bài thơ kết hợp cùng với nhan đề "Đoàn thuyền đánh cá" đã khắc họa hình ảnh quen thuộc, gần gũi với người lao động trên biển. Song nó còn mang ý nghĩa biểu tượng cho khí thế lao động mới - tinh thần đoàn kết, lạc quan, làm chủ biển trời. Một đoàn thuyền chứ không phải một con thuyền gợi không khí lao động hăng say, gợi nhịp sống mới sau chiến tranh. Hình ảnh con người lao động và công việc của họ được miêu tả trong một không gian, thời gian hết sức đặc biệt:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Thời điểm đoàn thuyền ra khơi là khi hoàng hôn buông xuống. Với hình ảnh so sánh kỳ lạ "mặt trời" với "hòn lửa", nhà thơ không chỉ cho thấy hình ảnh, màu sắc đỏ rực của vầng thái dương lúc hoàng hôn mà còn cho ta thấy một không gian rộng lớn của biển cả. Hình ảnh mặt trời đỏ, rực rỡ, tràn đầy sức sống đã gây ra một bức tranh hoàng hôn kỳ vĩ tráng lệ. Bức tranh hoàng hôn tuyệt đẹp ấy được nhìn từ điểm nhìn nghệ thuật rất đặc biệt: trên chính con thuyền đánh cá ra khơi. Nghệ thuật nhân hóa và hình ảnh ẩn dụ trong câu thơ thứ hai cùng liên tưởng độc đáo: vũ trụ như một ngôi nhà khổng lồ, những con sóng nhấp nhô làm then cài cửa còn màn đêm đang từ từ hạ xuống là then cửa. Cái thi vị của những hình ảnh so sánh ẩn dụ này là hướng thiên nhiên về phía con người, nâng tầm thiên nhiên để nâng tầm con người. Hai câu thơ sau, chữ "lại" diễn tả hoạt động lặp đi lặp lại của con thuyền, một chuyến ra khơi trong muôn vàn chuyến ra khơi. Đồng thời miêu tả hoạt động trái chiều giữa hoạt động của vũ trụ với hoạt động của con người: vũ trụ khép vào màn đêm yên tĩnh, trở về trạng thái nghỉ ngơi, con người bắt đầu một ngày lao động mới. Câu thơ gợi ra một nhịp sống thanh bình của quê hương đất nước. Cách nói quá trong câu thơ thứ tư của khổ thơ đã cho ta thấy khí thế lao động hào hứng hăng say của đoàn thuyền, nó ra khơi với khí thế phơi phới, mạnh mẽ và niềm vui sức mạnh của những con người làm chủ biển trời. Việc chọn không gian, thời gian này có tác dụng khắc họa hình ảnh những con người lao động và công việc của họ một cách vừa hiện thực, vừa lãng mạn, thơ mộng. Trong khung cảnh thiên nhiên kì vĩ, mang màu sắc bí ẩn của bóng đem và ánh trăng huyền diệu, con người lao động hiện lên mang dáng dấp của những tráng sĩ, thần linh đầy sức mạnh và niềm tự hào chinh phục biển khơi.

Đoàn thuyền không chỉ hát khi bắt đầu hành trình ra khơi mà còn cất lên tiếng hát ca ngợi biển cả ngay khi đang làm việc:
“Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”

Thủ pháp liệt kê: cá bạc, cá thu vừa diễn tả niềm tự hào của người lao động được làm chủ biển trời vừa ngợi ca sự giàu có của biển cả quê hương. Nhà thơ Huy Cận thật sáng tạo khi liên tưởng cảnh tượng đàn cá bơi giống như con thoi của khung cửi dệt, vừa làm nổi bật hình dáng của cá thu vừa lột tả sự đông đúc, phong phú, giàu có nguồn tài nguyên này cùng không khí nhộn nhịp, tấp nập của những luồng cá bơi qua biển cũng như hoạt động của chính ngư dân. Hình ảnh ấy vừa thể hiện trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ vừa gợi lên trước mắt người đọc hình ảnh đoàn cá thu thon dài bơi lượn như thoi đưa, chúng đang dệt một tấm vải giữa biển đêm bao la, kì vĩ. Tài nguyên của biển giàu có là thế nên chủ cần một câu hát, một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Câu hát cuối khổ thơ vang lên vừa thiết tha, ngọt ngào vừa gần gũi “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” thể hiện niềm vui phơi phới và hứa hẹn một chuyến ra khơi thành công.

Trong khung cảnh bao la của biển trời hình ảnh con thuyền đánh cá của những người ngư dân hiện lên thật đẹp, thật thơ mộng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Trăng như cánh buồm lớn giăng ngang bầu trời, con thuyền ấy do chính con người lái chứ không phải do gió cho thấy hình ảnh con người không bị lọt thỏm hay choáng ngợp giữa thiên nhiên rộng lớn, kì vĩ mà ngược lại luôn ở tư thế chủ động, làm chủ được thiên nhiên. Biện pháp khoa trương và bút pháp lãng mạn đã biến con thuyền trở nên kỳ vĩ, khổng lồ hòa nhập với kích thước vũ trụ. Cảnh thực mà như ảo, giữa mênh mông trời nước con thuyền là trung tâm vừa đẹp vừa khỏe khoắn lướt lên to lớn, hào hùng đầy thơ mộng, nó có gió làm lái, trăng làm buồm, lướt đi giữa biển bằng mà như lướt trên mây cao. Hàng loạt các động từ mạnh rải đều trong từng dòng thơ diễn tả chuyến ra khơi đánh cá giống hệt như một trận đánh hào hùng, mà trong đó, con thuyền là hội tụ đầy đủ sức mạnh, còn con người là những chiến sĩ dũng cảm: cũng thăm dò, cũng dàn đan thế trận, giăng lưới, bủa lưới. Hình ảnh ẩn dụ ấy cũng cho ta thấy được vị thế của con người thật đáng tự hào, kiêu hãnh trước thế lực tự nhiên: Tuy kích thước nhỏ bé trong vô cùng vũ trụ nhưng với trí tuệ của mình, con người vẫn luôn ở thế chủ động “dò” tìm, khám phá và khai thác, chinh phục những bí ẩn của đại dương. Hai chữ “thuyền ta” đứng đầu khổ thơ- sau nó là rất nhiều hành động của con người vừa tạo ra lối thơ vắt dòng vốn quen thuộc trong thơ Huy Cận đồng thời thể hiện niềm tự hào của nhà thơ khi được gắn bó thân thiết với con thuyền.

Con người và thiên nhiên như hòa làm một, hòa quyện vào nhau, lăng nghe từng hơi thở, nhịp đập trái tim. Có chung một thể xác và một tâm hồn:
"Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Bằng nghệ thuật liệt kê tên các loại cá quý và tách thành ngữ dân gian "chim, thu, nhụ, đé" thành "cá nhụ cá chim cùng cá đé" làm cho câu thơ trở nên nhẹ nhàng, uyển chuyển. "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng" được sử dụng nghệ thuật ẩn dụ với nét vẽ nhiều màu sắc "đen hồng", "vàng chóe" khiến nhà thơ giống như một họa sĩ đang thổi hồn vào bức tranh cá những màu sắc tuyệt đẹp. Nghệ thuật ẩn dụ khiến loài cá ngon có tiếng của Hạ Long hiện lên với vẻ đẹp độc đáo, cuốn hút như một vũ nữ Chăm với những bước vũ đạo khỏe khoắn và gợi cảm, đầy ma thuật. Bằng sự nhạy cảm tinh tế cùng trí tưởng tượng phong phú đã liên tưởng cái thân dày và dài cùng với những chấm tròn màu đen hồng trên vẩy của nó giống như cây đuốc lấp lánh dưới ánh trăng đêm. Đàn cá song đã tạo nên một đêm hội đuốc tưng bừng, lấp lánh. Trong nước trời Hạ Long, khi gió làm sóng lăn tăn gợn khiến các vì sao như xô dạt vào nhau, như sóng đùa sao, trong mắt tác giả lại trở thành cảnh nên thơ. Nhà thơ nghe được nhịp đập, hơi thở của vũ trụ - sinh thể khổng lồ nhưng cũng rất gần gũi và sống động:”Đêm thở”. Con người và thiên nhiên đã hòa làm một, dung hòa, cảm nhận nhịp đập của nhau.

Biển bao dung như chính người mẹ của ta, cho ta bao của ngon, vật lạ, nuôi sống con người từ thời sơ khai đến tận bây giờ:
“ Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào."

Nghệ thuật so sánh "biển như lòng mẹ" khiến biển trở nên thật ấm áp, thật bao dung, sẵn sàng dâng tặng những gì quý giá nhất của bản thân cho con người, đó còn là sự cảm nhận về một góc độ khác, vừa lớn lao, cao cả, vừa yêu thương, che chở, bao dung. So sánh biển với mẹ, con người còn thể hiện sự biết ơn vô cùng đối với biển cả. Biển không chỉ làn nguồn nuôi dưỡng mà còn là nguồn yêu thương không vơi cạn. Thầm hiểu, đó cũng chính là gương mặt dịu hiền, gần gũi, thân quen của biển qua cái nhìn của người lao động. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá trở thành niềm vui, giao hòa cùng thiên nhiên, bài hát làm không khí lao động thêm tươi vui, công việc lao động bớt mệt nhọc. Trong ái nhịp lãng mạn, sóng cũng như đang xô bóng trăng dưới nước cùng gõ vào mạn thuyền với con người để xua cá vào lưới. Như vậy, thiên nhiên đã cùng với con người hòa hợp trong lao động. Đất nước ta, đặc biệt là vùng biển có thế mạnh về đánh bắt hải sản, có lợi cho phát triển kinh tế, chúng ta cần đẩy mạnh hoạt động đánh bắt có lợi. Con người cũng là một lợi thế, với kinh nghiệm dày dặn, sự kiên trì, bền bỉ, người ngư dân đã và đang ngày đêm bám biển, vận dụng sức mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng Đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

"Sao mờ" nghĩa là trời sắp sáng, một ngày mới đang đến. Vì vậy nhịp độ công việc càng sôi nổi, gấp rút hơn. Nó thể hiện ở nhịp thơ nhanh, gấp gáp trong câu thơ đầu. Trung tâm của bức tranh này là hình ảnh người dân chài đang kéo lưới. Con người ấy được khắc họa với những đường nét gân guốc, chắc khỏe, cơ bắp đang cuồn cuộn kéo mẻ lưới trĩu nặng. Hình ảnh họ trở thành tượng đài vững chắc tạc vào thiên nhiên lộng lẫy hùng vĩ. Đến câu thơ cuối với nhịp thơ chậm rãi cho ta thấy niềm thanh thản, vui tươi, tâm trạng thoải mái của người lao động trước kết quả tốt đẹp

Hình ảnh chiếc thuyền đánh cá trở về khi hoàn thành nhiệm vụ cùng ánh bình mình rực rỡ:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Vẫn là một hệ thống hình ảnh ẩn dụ. Con người và thiên nhiên hòa quyện. Câu hát mở đầu khổ thơ cất lên khi hành trình đánh cá bắt đầu và nó đã theo suốt cả hành trình. Gió không phải là sức cản mà chính là động lực làm căng cánh buồm, cũng như cau át khỏe khoắn, vui tươi làm căng lồng ngực. Để rồi giờ đây nó lại vang lên khi đoàn thuyền trở về. Sự xuất hiện câu thơ gần như là một sự láy lại của câu thơ đầu khổ đầu khiến người đọc thấy câu hát ấy sau một hành trình dài vẫn vẹn nguyên một tình yêu, một niềm tin đối với lao động. Việc lặp lại khúc hát đem đến cho bài thơ kết cấu đầu cuối tương ứng, có tính trọn vẹn cả bài thơ như một khúc ca lao động đầy say mê hứng khởi. Biện pháp nhân hóa và nói quá ở câu thơ thứ hai trong khổ thơ đã diễn tả tuyệt vời cảnh đoàn thuyền phóng như bay về bến để giành lấy thời gian. Trong cuộc chạy đua ấy, con người đã chiến thắng. Họ trở về trong một tư thế sánh ngang với vũ trụ, làm chủ thiên nhiên. Hình ảnh mặt trời khép lại một hành trình và mở ra ngày mới. Biện pháp nhân hóa ở hình ảnh "mặt trời đội biển" cùng với nghệ thuật hoán dụ ở câu thơ cuối đã cho thấy đoàn thuyền thắng lợi trở về, thể hiện khí thế hùng mạnh của con người làm chủ đất nước, đất trời và biển cả. Ý thơ phảng phất không khí thần thoại, anh hùng ca - bản anh hùng ca lao động. Thiên nhiên tráng lệ trong ánh mắt nhìn tương lai rạng rỡ, huy hoàng của những người lao động của dân tộc và đất nước trên con đường phát triển, đi lên giàu mạnh.

Bài thơ như một bài ca của những người lao động trong tư thế làm chủ thiên nhiên, mạnh mẽ, tự tin, say mê khám phá và chinh phục tự nhiên, đem hết mình dựng xây cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc. Bài ca đó được làm nên không chỉ bởi “câu hát” theo suốt đoàn thuyền dọc hành trình từ lúc ra khơi đến khi trở về, bởi “tiếng hát” nhiều lần được cất lên gọi cá. Đó là khúc ca ca ngợi cuộc sống lao động và sự giàu đẹp của thiên nhiên, của đất nước. Khúc ca tạo nên bằng sự hài hoà giữa âm thanh, nhịp điệu và những động tác nhịp nhàng của con người với sự vận động tuần hoàn của thiên nhiên, vũ trụ. Khúc hát được cất lên là niềm vui sướng, hạnh phúc của người lao động có tự do được làm chủ biển trời, làm chủ cuộc đời.

Người viết: @Roses_are_rosie
 
Top Bottom