Bài thơ"Kiều ở lầu Ngựng Bích"

P

punalee1997

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Hãy trình bày cảm nhận của em về nội dung và nghệ thuật(1 trong 2 câu a và b):
a)Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?

b)Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Giúp mình với mình cần dàn ý được rồi hoặc 1 bài văn luôn càng tốt.Cảm ơn trước :)
 
L

lonely_97

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buôm xa xa
Kiều ngồi ở lầu Ngưng Bích và trông ra cửa bể. Chiều hôm là lúc gia đình sum họp, quây quần. Với Kiều, một mình trơ trọi giữa bọn mặt người dạ thú, cô độc với bọn buôn thịt bán người. Ta cảm thấy chạnh lòng, càng dễ sầu tủi. Tưởng là bắt đầu bằng cảnh mà hoá ra lại thấm đượm tình, chan chứa nỗi niềm. Ánh mắt của nàng Kiều như dõi theo cánh buồm, con thuyền. " Thấp thoáng","xa xa" là hình ảnh con thuyền khi mờ khi tỏ. Có thể là một tia hy vọng nhỏ nhoi được thắp lên chăng?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Kiều nhìn thấy ngọn nước đổ từ trên cao xuống, phía dưới là những cánh hoa trôi nổi. Từ "man mác" gợi nỗi buồn da diết. Hoa trong nghệ thuật thường tượng trưng cho cái đẹp, cánh hoa trôi nổi dập dồn, lưu lạc, không biết đâu là bến bờ, đâu là bến đỗ. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc đời, tương lai của nàng Kiều. Câu thơ là một câu hỏi không có câu trả lời. Tất cả đều nặng trĩu nỗi niềm của nàng Kiều.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Ánh mắt của nàng Kiều hướng đến nội cỏ.
Sắc cỏ héo úa, tàn lụi. Nội cỏ ảm đạm, héo tàn khác với sắc cỏ trong cảnh ngày xuân:sắc cỏ mơn mởn tràn đầy sự sống.
Sắc cỏ rầu rầu khiến cho cả ko gian như mang nỗi buồn triền miên. Săc cỏ ấy làm cho ko gian ko đc tươi sáng. Ko gian, cảnh vật như mờ nhoà, buồn bã.
4 cặp lục bát như 4 bức tranh. Có hoa nhưng hoa trôi cỏ úa, có trời nước xanh nhưng sắc màu nhạt nhào, có gió có sóng nhưng sóng kêu, gió cuốn.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Đoạn thơ có rất nhiều tính từ. 2 từ cuốn, kêu là 2 động từ mạnh, làm cho ko gian, trùng dưong, sóng với gió trở nên dữ dội. Từ láy "ầm ầm" đc đảo lên đầu càng tô đậm cảm giác ấy. Con sóng như đang ập đến, vây bủa người con gái nhỏ bé và đơn côi. Khung cảnh như hé mở những giông bão của cuộc đời đang đến. Nỗi buồn ngày càng tăng, nỗi sợ hãi cũng đang dâng lên trong lòng. Điệp ngữ "buồn trông" vừa tô đậm nỗi buồn, vừa đệm lại âm hưởng trầm lắng, da diết. Nhịp điệu câu thơ trầm, chậm lắng góp phần thể hiện nội tâm nhân vật
Bài tớ làm nè!!! Bạn xem đc ko?
 
B

blue_star_311

a)Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Câu thơ mở ra cảnh biển mênh mông khi ánh chiều dần tắt , cũng là lúc hoàng hôn buông xuống . 1 không gian thời gian NT - tự nó đã gợi lên nỗi buồn , nỗi nhớ thương da diết . Đọc câu thơ ta như cảm nhận được phong vi của ca dao cổ :
" Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về quê mẹ mà không có đò ".
Trong tâm trạng buồn cô đơn Kiều gửi nỗi nhớ thương về quê nhà xa cách . Nhưng mặt biển thì quá đỗi mênh mông mà con thuyền thì quá ư nhỏ bé , chỉ thấp thoáng xa xa , có khác chăng nàng Kiều đang bơ vơ nơi xứ lạ . Bởi thế , câu hỏi hi vọng của nàng đâu có được trả lời . Tất cả vẫn chỉ là sự đơn độc cô quạnh như n~ cánh hoa trôi .
" 2 câu tiếp "
Lại 1 câu hỏi nữa vang lên ... Nhưng trước mắt Kiều chỉ là n~ đóa hoa trôi nổi dập vùi theo sóng nước . Hoa kia lìa cội lìa cành , đang bị sóng gió dập vùi , cũng như nàng Kiều đang lìa xa gia đình , bị sóng đời vùi dập . Như con chim lạc đàn không phương hướng , như cánh hoa trôi lênh đênh giữa biển đời vô định không biết đi đâu về đâu , gợi lên trong lòng ta thân phận của người phụ nữ trong bài " Bánh trôi nước " của Hồ Xuân Hương : " Trích thơ "
 
K

kiss.baby97

Kết thúc đoạn thơ "Kiều ở lầu Ngưng Bích" tác giả đã mở ra 4 cảnh tượng, cảnh nào cũng có nỗi buồn sâu sắc:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buôm xa xa
Không gian của 1 buổi chiều tàn gợi cảnh gia đình sum họp. Kiều nghĩ thân phận mình như con thuyền vào buổi hoàng hôn chưa tìm được bến đỗ.

Tâm trạng buồn bã nhìn dòng nước chảy với những cánh hoa trôi dạt trên nước mà liên tưởng đến thân hình nhỏ bé, chìm, nổi của mình.
Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Trong cảnh ngộ cô đơn nơi đất khách quê người. Nhìn bãi cỏ kéo dài đến tận chân trời lại liên tưởng đến cuộc sống nhàm chán, vô vị của mình.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Gió và sóng biển ầm ầm khiến Kiều lo sợ về tương lai của mình. Cảnh tượng hãi hùng của gió và sóng biển như báo trước số phận đau buồn, bi kịch của Kiều.

Qua đó, tác giả đã sử dụng hàng loạt cụn từ "buồn, trông" lặp đi lặp lại như 1 điệp khúc diễn tả nỗi đau buồn chồng chất kéo dài, sự day dứt và nỗi bất hạnh của Kiều.




 
P

pengok_97dx

Nếu toàn cảnh Truyện Kiều có bộ tranh thơ Tứ Bình nổi tiếng, thì ở một góc độ nào đó, bốn khung tranh tâm trạng độc đáo này cũng là bộ Tứ Bình về cảm xúc. Vừa có nhạc điệu từ điệp từ liên hoàn buồn trông, vừa khắc họa cảnh sắc từ nhiều góc độ, tám câu cuối Kiếu ở lầu Ngưng Bích thật đúng là một trong những đoạn thơ đỉnh cao trong hơn ba nghìn dòng thơ Truyện Kiều.

Chủ đề: Bức tranh tâm trạng qua tám câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
Nền văn học Việt Nam xưa được ví như bức tường cao dày của xúc cảm và tri thức. Trước những bước đi của thời gian, dường như nó càng thêm vững chãi, uy nghi và lộng lẫy hơn bao giờ hết. Bằng chứng là, dù có mấy trăm, mấy nghìn năm trôi qua, người ta vẫn không ngừng lần mò, tìm về với tinh hoa nghệ thuật của nền cổ văn vốn đã ít nhiều nằm khuất dưới lớp bụi mờ thời gian. Một trong những thi phẩm cho đến tận bây giờ vẫn không giảm sức hút, vẫn được cho là còn quá nhiều để hiểu, để khám phá, chính là Đoạn trường tân thanh- kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du, biểu tượng lớn cho văn học trung đại Việt Nam. Xuyên suốt tác phẩm là nét gợi hình, tả cảnh, lối tự sự độc đáo, đầy sáng tạo. Không ngoại lệ, nghệ thuật tả tâm cũng là yếu tố đẩy Truyện Kiều lên đỉnh cao rực rỡ. Hai mươi dòng lục bát Kiều ở lầu Ngưng Bích thể hiện rõ ánh nhìn sâu của Nguyễn Du trong từng xúc cảm mỏng manh của Kiều.

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của truyện- Gia biến và lưu lạc, như những cụm mây đen đầu tiên che phủ lên cuộc đời Kiều. Đành đoạn dứt tình với Kim Trọng, nàng nguyện hiến thân cứu cha. Cái trong trắng của một tiểu thư từ nhỏ được mẹ cha bảo bọc, tình phụ tử sâu nặng và lòng hiếu thảo của đứa con ngoan đã đẩy nàng Kiều vào vòng lừa lọc từ những kẻ buôn người. Nỗi uất ức của nàng được Tú Bà xoa dịu bằng ngày tháng giam cầm ở lầu cao với cớ rằng để nàng tịnh tâm, bình phục. Ngọn lầu ấy tên là Ngưng Bích, một cái tên quá đẹp so với những cô đơn, tẻ nhạt mà nàng Kiều phải trải qua tại đây. Tọa lạc ở một vùng nổi tiếng với kỹ nghệ ngọc trai thu hút nhiều thương gia, lầu Ngưng Bích như hạt ngọc bích quý giá ngưng đọng, cốt để khóa chặt cái thời xuân sắc tươi đẹp nhất của người con gái họ Vương. Trái hẳn với không khí buôn bán sầm uất bên ngoài, bao trùm lấy không gian trong lầu chỉ là tiếng sóng vỗ ào, ngọn gió biển nặng nề lướt qua, và những suy tư khó nhọc của một phận hồng nhan. Lầu Ngưng Bích nói cho cùng cũng chỉ mới là điểm khởi đầu cho đắng cay về sau của Kiều, nhưng âm điệu buồn da diết của cả đoạn trích đã cho thấy bao đau thương dồn nén trong hồn người, thấm đẫm cả một vùng trời đất rồi lại sắt se vào lòng. Một khoảng mênh mang trĩu nặng trao qua nhận lại giữa người với cảnh đã làm nên khúc thiên sầu Kiều ở lầu Ngưng Bích, đặc biệt là tám dòng tuyệt bút cuối cùng.

Chưa bước vội vào tấm tranh ảm đạm của tâm trạng nàng Kiều, Nguyễn Du khéo léo gợi mở trước không gian nơi lầu son cao đẹp về hình thức nhưng mang đến cho con người ta cái bi thảm về tinh thần. Nếu nói sáu dòng thơ mở đầu là bức họa bằng ngôn từ thì đó thật sự là một bức họa đẹp. Có núi chập chình ngoài xa, có vầng trăng treo trên đỉnh đầu, không gian khoáng đãng mênh mông. Nhưng trong cái cao rộng mỹ mãn của thiên nhiên lại thiếu nét đẹp con người. Khung cảnh mờ ảo chìm trong cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia vắng vẻ đến quạnh hiu, nàng Kiều dường như chỉ là cái bóng nhỏ lạc lõng giữa cảnh vật xung quanh. Một ngày từ sớm cho đến khuya, Kiều chỉ biết quanh quẩn với mây với đèn. Nàng đối cảnh nhiều tới nỗi một phần đất trời quạnh quẽ như hóa tâm trạng, làm dâng đầy cái niềm xót xa đau đáu trong lòng bấy lâu. Càng hướng ra thiên nhiên, Kiều càng thấy rõ sự cô đơn vây kín từng ngày, càng day dứt khôn nguôi, nhớ cha, nhớ mẹ và nhớ chàng Kim ngày nào cùng hẹn ước. Với Kim Trọng, nàng vẫn chưa thể dẹp yên suy nghĩ phụ bạc, chính nàng đã tự tay cắt đứt sợi tơ hồng, đã đẩy chàng vào mỏi mòn trông ngóng. Niềm tin sắt đá vào lời thề dưới trăng đêm ấy sẽ là lưỡi dao nhọn đâm vào tim chàng, khi mà giờ đây, thân phận nàng đã “hạc nội mây ngàn”, không biết rồi lưu lạc về đâu. Kiều bây giờ có lẽ đã thấm thía cái trơ trọi, bơ vơ nơi đất khách, nhưng mối tình đầu đẹp như mộng ngày ấy vẫn gieo cho Kiều khát vọng son sắt, thủy chung. Với cha mẹ, nàng thương xót hình dung cảnh đấng phụ thân, phụ mẫu thấp thỏm chờ trông. Qua cơn biến cố, rồi mẹ cha sẽ như thế nào? Nàng đi rồi, ai lo phụng dưỡng bậc sinh thành? Đành là dứt tình vì cha, nhưng trong tận thâm tâm một đứa con hiếu thảo, bấy nhiêu vẫn chưa thật tròn đạo làm con. Hết cái day dứt phụ tình Kim, nàng lại nghĩ đến cái tội phụ công sinh dưỡng, không thể chăm sóc cha mẹ khi về già là một trong những nỗi niềm cứ canh cánh trong Kiều lúc bấy giờ. Từ những nỗi niềm buồn thương đó, cụ Nguyễn Du đã khéo léo tô thêm màu xám trên ánh nhìn xa xăm của Kiều, đẩy sầu não lên thành đỉnh điểm, qua tám câu khép lại đoạn trích:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Tâm trạng buồn nhớ của Kiều giờ đi cả vào ánh mắt. Người buồn thì cảnh cũng buồn. Vẫn là cảnh đó, không gian đó, nhưng đã chất chứa phần nào nỗi lòng Kiều. Khung tranh buồn thứ nhất mở ra ngay thời điểm chiều hôm- là thời điểm quen thuộc của nghệ thuật, của những lưu luyến khó tả. Cửa bể chiều hôm gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Cửa biển trong ánh chiều tà yếu ớt bao trùm luôn cả những con thuyền căng buồm lộng gió ngoài xa- những con thuyền chở hy vọng của nàng Kiều được một lần tự do ngoài bầu trời rộng mở, vượt khỏi cái tù túng tẻ nhạt nơi lầu son gác tía. Những cánh buồm đều ở rất xa, thoắt ẩn thoắt hiện trong ánh hoàng hôn trĩu buồn, như niềm hy vọng của nàng chỉ là những chấm nhỏ ngoài khơi xa mịt mờ, những từ thấp thoáng, xa xa càng khiến hy vọng nhạt nhòa.

Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Qua khung tranh thứ hai, vẫn là ánh nhìn vào nước, nhưng đã gần hơn. Có lẽ nào nàng Kiều đã bắt đầu nhượng bộ trước những xa xăm của cuộc đời, nhìn gần để có thêm ít hy vọng, dù nhỏ. Ngờ đâu, cái mà nàng trông thấy còn dữ tợn hơn bội phần. Cánh hoa mỏng manh dập dìu trước ngọn nước từ trên cao đổ xuống. Thử hỏi, cánh hoa mỏng manh ấy làm sao chịu nổi sức nước tràn? Thân phận Kiều cũng vậy, quá bé nhỏ trước dòng đời. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng cho thấy sự nhạy cảm của Kiều. Cái man mác trôi của hoa thể hiện cái băn khoăn, lo lắng cho thân phận lạc loài, vô định của nàng. Kiều bây giờ cũng như bông hoa kia, không còn người thân bên cạnh, tự nàng phải bước lên những chông gai của cuộc đời.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Rồi Kiều bắt đầu đảo mắt đến cái sắc xanh nối tiếp của trời và đất. Tuy nhiên, bãi cỏ không mang màu xanh tươi như tiết thanh minh tháng ba, từ láy rầu rầu gợi cho ta sự tàn úa đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất nhưng xanh nào cũng là màu xanh tàn úa, héo hắt. Màu xanh tàn héo ấy khiến xanh xanh cả đất trời. Kiều nhìn vào màu xanh mong tìm kiếm chút hy vọng nhỏ nhoi lần nữa, nhưng cũng như những lần trước, Kiều quay đi với nỗi thất vọng ngập tràn. Cảnh buồn hay vì người buồn nên cảnh mới buồn thì không biết, chỉ biết lần này, nàng Kiều đã thật sự tuyệt vọng, chẳng còn đối cảnh nào khiến nàng thấy ý muốn níu kéo của mình là đúng. Mọi thứ đều đưa nàng vào suy nghĩ dằn vặt và đau xót hơn.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Trong lúc tuyệt vọng nhất, Kiều thấy mình dường như chao đảo. Từng ngọn gió mạnh thổi sóng vỗ ầm ầm. Quang cảnh đã thôi yên lặng, mặt biển dậy sóng, lòng Kiều cũng dậy sóng. Những đợt sóng dữ dội như dự báo trước điều bất an, như cảnh báo một tương lai bão táp đang chờ Kiều trước mắt. Người con gái tài sắc trong hoàn cảnh đó đã hoảng loạn vô cùng.

Tám dòng thơ cuối này tạo nên bốn khung tranh tâm trạng của nàng Kiều. Mỗi khung tranh là một trạng thái tâm lý khác nhau. Điệp từ buồn trông diễn tả cái tăng tiến đến choáng ngợp của từng cung bậc xúc cảm trong Kiều. Nỗi buồn tủi ban đầu đã dồn nghẹn trong lòng thành niềm lo sợ về thân phận lạc loài, cái héo hắt, tuyệt vọng trước thực tại, trào ra thành nỗi hoảng sợ tột độ, hoàn toàn mất phương hướng. Yếu tố không nhỏ giúp cho sự tăng tiến về cảm xúc trở nên dữ dội mà lại sít sao, tự nhiên vô cùng chính là hệ thống từ láy tầng tầng lớp lớp, khiến mấy dòng thơ từ tha thiết trở thành mạnh mẽ, từ mạnh mẽ lại trở về tha thiết. Có thể nói, đại thi hào Nguyễn Du là một nhà bác học của ngôn từ và cảm xúc. Những từ ngữ ông sử dụng luôn uyên thâm nhưng vững nghĩa và dễ hiểu. Nghệ thuật dụng từ trong tám câu cuối của đoạn trích này đã góp phần đưa nó thành thiên sầu khúc. Ngoài ra, cái tài của cụ Nguyễn là vừa để cho Kiều nhìn cảnh bằng con mắt chủ quan của tâm trạng, lại vừa ngầm thể hiện sự xót thương thân phận người trong cảnh từ địa vị của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, làm cho dòng thơ có sức gợi cảm mãnh liệt, chinh phục bao tầng lớp độc giả.

Nếu toàn cảnh Truyện Kiều có bộ tranh thơ Tứ Bình nổi tiếng, thì ở một góc độ nào đó, bốn khung tranh tâm trạng độc đáo này cũng là bộ Tứ Bình về cảm xúc. Vừa có nhạc điệu từ điệp từ liên hoàn buồn trông, vừa khắc họa cảnh sắc từ nhiều góc độ, tám câu cuối Kiếu ở lầu Ngưng Bích thật đúng là một trong những đoạn thơ đỉnh cao trong hơn ba nghìn dòng thơ Truyện Kiều.
 
C

conan99

Tám câu cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình xúc động diễn tả tâm trạng buồn lo của Kiều qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.

a. Giới thiệu xuất xứ đoạn trích dựa vào những hiểu biết về vị trí của nó trong văn bản và tác phẩm.

b. Phân tích các cung bậc tâm trạng của Kiều trong đoạn thơ :

- Điệp từ "Buồn trông" mở đầu cho mỗi cảnh vật qua cái nhìn của nàng Kiều : có tác dụng nhấn mạnh và gợi tả sâu sắc nỗi buồn dâng ngập trong tâm hồn nàng.

- Mỗi biểu hiện của cảnh chiều tà bên bờ biển, từ cánh buồm thấp thoáng, cánh hoa trôi man mác đến "nội cỏ rầu rầu, tiếng sóng ầm ầm" đều thể hiện tâm trạng và cảnh ngộ của Kiều : sự cô đơn, thân phận trôi nổi lênh đênh vô định, nỗi buồn tha hương, lòng thương nhớ người yêu, cha mẹ và cả sự bàng hoàng lo sợ. Đúng là cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều : cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác lo âu đến kinh sợ. Ngọn giáo cuốn mặt duềnh và tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hùng, như báo trước dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.

c. Khẳng định nỗi buồn thương của nàng Kiều cũng chính là nỗi buồn thân phận của bao người phụ nữ tài sắc trong xã hội cũ mà nhà thơ cảm thương đau xót
 
Top Bottom