Ai giúp mình phát biểu cảm nghĩ bài " Bạn Đến Chơi Nhà"!!

C

congchualolem_b

phát biểu cảm nghĩ cũng như làm văn nghị luận thôi, bn cứ phân tích bài thơ theo những gì đã đc hướng dẫn trên lớp rồi dành 1 đoạn văn ở gần cuối thân bài để nêu cảm nghĩ của mình thôi
 
C

congchualolem_b

phần kết chỉ là nêu dòng cảm xúc thôi, chẳng qua chỉ là cái để làm đúng đề,chứ thực ra trong quá trình phân tích bn cũng phải nêu xen kẽ những cảm xúc của mình rồi, bn chỉ cần nói ngắn gọn thôi là đc, chủ yếu là cần có đủ nội dung và nghệ thuật của bài thơ là đc
 
H

hunterbro

Bạn đọc xong bài này nhớ thanks mình nha!!

Yêu nhất là tình cảm của mẹ, mạnh mẽ là tình cảm của cha, thân thiết là tình cảm anh em và thiêng liêng, bền chặt, lâu dài nhất vẫn là tình bạn. Trong bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến đã thể hiện khá rõ nét về điều đó.
Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, mất năm 1909, lúc còn nhỏ tên Thắng, quê ở thôn Vị Hạ, làng Và, xã Yên Đổ, nay thuộc Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam, thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đi thi đỗ đầu cả ba kì thi: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp xâm chiếm xong Bắc bộ, ông cáo quan về quê ở ẩn.
Bài thơ này là bài thơ thành công, tiêu biểu nhất của ông, và cũng là bài thơ nổi bật, đại điện cho thơ Nôm Đường luật Việt Nam nói chung.
Bài thơ này ông viết là một kỉ niệm của ông ở tuổi mà xưa nay hiếm. Nó bày bày tỏ về cảm xúc của ông và một người bạn quen nhau chốn quan trường, nay gặp lại nơi thôn quê thanh bình – nơi chôn rau cắt rốn của ông. Từng câu từ trong bài mượt mà mà thanh cao, tình cảm thắm thiết, gắn bó, mặn mà, đầy chất nhân văn. Nó thể hiện một con người chất phác, sống bằng tình cảm nơi ông. Câu thơ mở đầu như một tiếng reo vui, nó là khởi nguồn cho tất cả tình huống, cảm xúc trong bài. Gặp lai một người bạn cũ thật khôn xiết biết bao, đặc biệt là khi lại gặp nhau nơi chân quê. Tình nghĩa đó thật quý báu. Tuy sau bao vinh hoa chốn kinh thành nhưng vẫn nhớ về nhau, vẫn tìm thăm trò chuyện. Tuy mặn mà những tình cảm nồng hậu nhưng trong bài vẫn có những tình tiết vui vẻ. Hôm nay bác tới chơi nhà thật quý và hơn nữa là sau bao năm xa cách, nhưng ngặt nỗi hoàn cảnh điều kiện và đó là một tình huống khó xử đối với tác giả: trẻ thì đi vắng, chợ thị xa, ao sâu khó chài cá ... một loạt tình huống được liệt kê. Thật trớ trêu và cũng đầy hài hước. Lời thơ tự nhiên, vui vẻ, trong sáng tạo nên thanh điệu hoạt bát, toát lên được sự hiếu khách của chủ nhà trước một vị khách quý. Tuy tất cả đều thiếu vắng, ngay đến cả cái tối thiểu để tiếp khách như miếng trầu cũng không có thì câu cuối cùng lại là sự bất ngờ, đầy lý thú và cũng chất chứa những cảm xúc dạt dào, khó tả. Tình bạn ấy vượt lên trên cả nhưng lễ nghi tầm thường. Ba từ: “ta với ta” là tâm điểm, trọng tâm của bài. Âm điệu bỗng dưng thay đổi, thân mật, ngọt ngào. Nó không giống với ba từ “ ta với ta” trong bài Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Trong bài Qua đèo ngang thì 3 từ đó là nỗi trống vắng, hiu quạnh nơi đất khách, quê người, còn ba từ này trong bài bạn đến chơi nhà là nồng thắm tình cảm bạn bè chân thành, thanh tao, trong sáng. Nói cho cùng thì nhà thơ đã rất khéo léo lột tả sự nhiệt tình, nóng hổi, mến khác trước hoàn cảnh bất ngờ, thiếu thốn, nghèo khổ của tác giả. Và đằng sau nhưng câu từ dân dã kia là hai tình cảm chân chất, nhỏ nhẹ mà hóm hỉnh đang hướng về nhau. Tình cảm chính là điều mà tác giả mong đợi, khao khát nhất, và chỉ mình nó cũng là đủ để sưởi ấm một buổi trò chuyện, gặp mặt.
Nói chung bài thơ này được tạo nên trên một hình ảnh không có gì về vật chất, tất nhiên không phải là thiếu thốn mà là chưa đủ độ, để rồi đúc kết một câu rằng:”Bác đến chơi đây, ta với ta” thật đậm đà, sâu sắc. Bài thơ này không chỉ là một lời bày tỏ chân tình của tác giả mà còn là một triết lý, một bài học, một định hướng về sự chuẩn mực rằng: tình bạn cao hơn mọi của cải, vật chất.
 
H

hunterbro

Nguyễn Khuyến (1835-1909) là nhà thơ Nôm kiệt xuất của dân tộc. Ông để lại nhiều bài thơ nói về tình bạn: bạn cùng quê, bạn đồng học, bạn đồng khoa…

Ai lên thăm hỏi bác Châu Cầu

Lụt lội năm nay bác ở đâu…”

(Lụt hỏi thăm bạn)

Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta…”

(Khóc Dương Khuê)

Châu cầu, Dương Khuê là hai bạn đồng khoa của Nguyễn Khuyến. Bài “Bạn đến chơi nhà” là một trong những bài thơ Nôm đặc sắc của ông, nói lên một tình bạn đẹp.

Câu nhập đề rất tự nhiên, như một lời nói mộc mạc của nhà thơ sau bao tháng ngày mới gặp lại bạn. Lời chao vồn vã, biểu lộ niềm vui mừng không xiết:

“Đã bấy lâu nay bác tới nhà”.

Chữ “bác” gợi lên thái độ niềm nở, thân mật và kính trọng, một cách xưng hô thân tình. Đằng sau câu thơ - lời chào hỏi – có thể là những giọt lệ ứa ra ở khoé mắt đôi bạn già.

“Đã bấy lâu nay” là bao năm tháng? Tính thời gian không được xác định cụ thể, nhưng chắc chắn là đã khá lâu, vì sức yếu, tuổi già… nên xiết bao đợi chờ, mong nhớ. Bộ phận trạng ngữ chỉ thời gian được đặt lên đầu câu thơ diễn tả sự xac cáhc nhớ mong, làm nổi bật ý thơ: niềm xúc động và niềm vui sướng vô hạn khi gặp lại bạn. Trong bài thơ “Khóc Dương Khuê”, có một chi tiết giúp ta cảm nhận được mọt phần nào cái hay, cái tình ẩn chứa trong câu nhập đề:

“Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,

Trước ba năm gặp bác một lần,

Cầm tay hỏi hết xa gần

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can”.

Chữ “bác” được nói đến trong bài thơ “Bạn đến chơi nhà” là bạn chí thân, ở xa, lâu ngày mới gặp nên Nguyễn Khuyến rất mừng và cảm động.

Sáu câu thơ tiếp theo toát lên một nụ cười hóm hỉnh. Một ý thơ bao trùm: Đã lâu ngày bạn mới đến chơi, biết lấy gì đãi bạn đây? Một tình thế khá éo le: “Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa”. Chữ “thời” (thì) là một hư từ, rất ít khi xuất hiện trong thơ vì dễ rơi vào sự tầm thường nhạt nhẽo. Nhưng dưới ngòi bút Tam nguyên Yên Đổ, nó trở nên thanh thoát tự nhiên vô cùng, chứng tỏ ông có một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, điêu luyện.

Nguyễn Khuyến sau khi cáo quan, lui về sống bình dị ở chốn vườn Bùi quê cũ, với “năm gian nhà cỏ thấp le te”, với một cơ ngơi:

“Chín sào tư thổ là nơi ở,

Một bó tàn thư ấy nghiệp nhà”.

(Ngày xuân dạy các con – 1)

Phần thực và luận, tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ, nhất quán ở một cách nói, một lối biểu cảm: Có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân! Có ao và cá, có vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu… Bức tranh vườn Bùi thân thuộc hiện lên sống động, vui tươi. Một nếp sống thong dã chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch, ấm áp cây đời và tình người rất đáng tự hào. Chúng ta như cảm thấy Nguyễn Khuyến đang dắt tay bạn ra thăm vườn cây ao cá, tận hưởng thú vui dân dã của một ông quan về quê ở ẩn. Phép đối hợp cách, chặt chẽ; cảnh với cảnh, thượng hạ, trắc - bằng phân minh, tạo nên một giọng thơ nhẹ nhàng, vui tươi lời thơ cân xứng, hoà hợp như cảnh vườn tược xinh xắn, hữu tình:

“Ao sâu nước cả, khôn chài cá

Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà”.

Dân gian có câu: “Khách đến chơi nhà khong gà cũng vịt”. Qua các câu thơ trên, ta thấy Nguyễn Khuyến đang giãi bày với bạn: trong nhà ngoài vườn có bao nhiêu thứ, nhưng thực ra chẳng có gì để thết bạn, đãi bạn vì tất cả mọi thứ, mọi thức chưa đến lúc, đến thời! Câu thơ thứ bảy tiếp nối và mở rộng ý thơ trên, khẳng định luôn cái “không có”:

“Đầu trò tiếp khách trầu không có”.

Phải chăng cái nghèo của cụ Tam nguyên Yên Đổ đã đến mức ấy ư? “Vẻ chi một mớ trầu cay” (ca dao). Nhà thơ đã thậm xưng hoá cái nghèo, thi vị hoá cái nghèo. Một ông quan to triều Nguyễn về quê ở ẩn, với một cơ ngơi “chín sào tư thổ là nơi ở” thì không thể “miếng trầu là đầu câu chuyện” để tiếp bạn cũng “không có”. Đây là một lời thơ hóm hỉnh, pha chút tự trào vui vui, để bày tỏ một cuộc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà nho khước từ lương bổng của thực đan Pháp, lui về sống bình dị giữa xóm làng quê hương.

Câu kết là một sự “bùng nổ” về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao, cỗ đầy, cao lương mĩ vị, cơm gà cá gỏi, mà chỉ có một tấm lòng, một tình bạn chân thành, thắm thiết:

“Bác đến chơi đây, ta với ta”.

Lần thứ hai, chữ “bác” đã xuất hiện trong bài thơ, thể hiện mọt sự trìu mến, kính trọng. Bác đã không quản tuổi già sức yếu, không quản đường sá xa xôi đến thăm tôi, còn gì quý hoá bằng! Tình bạn là trên hết. Không một thứ vật chất nào có thể thay thế được tình bạn tri âm, tri kỉ. Mọi cái đều “không có” nhưng lại “có”; tình bằng hữu thân thiết. Chữ “ta” là đại từ nhẵnng, trong bài thơ này là “tôi”, là “bác”, là “hai chúng ta”, không có gì cách bức nữa. Cụm từ “ta với ta” biểu lộ một niềm vui trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng trong tâm hồn, toả rộng trong không gian và thời gian. Với cụm từ “ta với ta” trong câu thơ “Một mảnh tình riêng ta với ta” của Bà Huyện Thanh Quan là nỗi buồn cô đơn của khách ly hương khi đứng trên đỉnh đèo Ngang lúc hoàng hôn, còn ở đây, trong câu thơ của Nguyễn Khuyến lại ấm áp tình đời và sau nặng tình bạn. Qua đó, ta cảm nhận được phần nào tính cá thể hoá cua ngôn ngữ và sắc điệu trữ tình tạo nên giá trị văn chương trong những bài thơ cổ.

Có đọc qua một số bài thơ của Nguyễn Khuyến viết về tình bạn, ta mới thấy cái hay, cái ý vị của bài thơ “Bạn đến chơi nhà”:

“Từ trước bảng vàng nhà sẵn có,

Chẳng qua trong bác với ngoài tôi”

(“Gửi bác Châu Cầu”)

“Đến thăm bác, bác đang đau ốm,

vừa thấy tôi, bác nhổm dậy ngay.

Bác bệnh tật, tôi yếu gầy.

Giao du rồi biết sau này ra sao?”

(“Gửi thăm quan Thượng thư họ Dương”)

Bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, niêm luật, đối chặt chẽ, hợp cách. Ngôn ngữ thuần nôm, không có một từ Hán - Việt nào, đọc lên nghe thanh thoát, nhẹ nhàng, tự nhiên. Ta có cảm giác như Nguyễn Khuyến xuất thân thành chương. Đặc biệt bố cục bài thơ không theo qui cách; đề, thực, luận, kết – mà lại cấu trúc theo: (1+6+1) câu đầu nói lên niềm vui khi bạn đến; 6 câu giữa hóm hỉnh, cười vui không có gì để tiếp bạn; câu cuối chỉ có tình bạn đẹp mà thôi!

Bài thơ nôm khó quên này cho thấy một hồn thơ đẹp, một tình bằng hữu thâm giao, chân tình, một tấm lòng hồn hậu, đẹp đẽ. Tình bạn của Nguyễn Khuyến trong sáng, thanh bạch, đối lập với nhan tình thế thái “còn bạc, còn tiền, còn đệ tử - Hết cơm hết rượu hết ông tôi” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kịch liệt lên án. Hai nhà thơ sống cách nhau mấy trăm năm mà có chung một tâm hồn lớn: nhân hậu, thuỷ chung, thanh bạch. Tâm hồn đó, tấm lòng đó của tiền nhân đối với ngày nay vẫn xứng đáng là tấm gương sáng để mọi người soi chung. Nguyễn Khuyến không những là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam mà còn là nhà thơ của tình bạn trong sáng, thuỷ chung và cao đẹp rất đáng yêu, đáng kính.
 
H

hunterbro

Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa.

Thành phần tình huống đã bấy lâu nay có tính cấu trúc. Nó phản ánh chu kỳ bạn đến nhà với tần suất thấp, rất thấp. Khoảng giữa chu kỳ đó là sự trống vắng. Thêm một từ nhưng vào giữa hai câu phá - thừa, mọi việc sẽ sáng tỏ. Điều đó ta có thể làm được và cần thiết phải làm, vì thơ Đường đòi hỏi phải tư duy mới tái tạo được hồn thơ, mà khi đã tư duy thì phải dùng kết từ, hệ từ, tất nhiên. Ngược lại, tác giả thơ Đường không tư duy thay ta. Họ chỉ nêu hiện tượng, sự việc, còn ta phải tự khám phá các mối quan hệ. Do đó, thơ Đường rất kiêng kỵ dùng kết từ, hệ từ. Nguyễn Khuyến cũng vậy, thơ nôm Đường luật của ông dường như vắng bóng các từ nhưng, vì, nếu, là... Còn khi đọc ta phải thêm vào để hiểu thơ ông. Với câu thừa, sự thể thật trớ trêu. Những tưởng khách đến chơi nhà thì nỗi cô đơn được giải toả, nào ngờ khách lại bước vào cõi riêng của chủ thể, ở đó chủ thể bị cô lập với thế giới, với con người, kể cả người thân. Vị thế thay đổi. Khách biến thành người chung cảnh ngộ. Nỗi cô đơn được nhân đôi.

Không gian ở hai câu thực rất đặc biệt nếu đem so sánh với không gian tương đồng trong những bài thơ khác. Vẫn là "Vườn Bùi chốn cũ", quê hương ông, vẫn là ao ấy, vườn ấy, hàng dậu ấy, nhưng khi cần một không gian trống vắng để đối lập với một tâm cảnh ngổn ngang thế sự thì:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo...
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
(Thu điếu)

Khi dùng hơi men hòa giải với nỗi lòng trầm uất thì không gian biến hiện, chấp chới với người say:

Lưng dậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
(Thu ẩm)

Khi tâm tư mang niềm hoài cổ thì nước ao trở thành tầng khói phủ làm mờ những giới hạn thời gian, hàng dậu đánh thức ký ức về chùm hoa quá khứ.

Nước biếc trông như tầng khói phủ...
Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái
(Thu vịnh)

Vậy mà ở đây, cái vườn Bùi chốn cũ thơ mộng kia biến đâu mất cả, chỉ còn trơ lại một không gian cách trở, ngoài tầm với của con người:

Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.

Một sự lựa chọn cực đoan, nhưng đó chính là thơ Đường!

Nếu như hai câu thực xác định một không gian ngoài chủ thể, thì hai câu luận lại điểm nhịp thời gian lặng lờ trôi, lãng quên chủ thể. Hãy thử thay đổi các loại cây quả, ví như:

Đậu chửa ra cây vừng mới nụ
Ngô vừa trổ bắp lạc đương hoa

Bốn loại cây trên gieo trồng và thu hái một lần theo mùa vụ. Khoảng giữa thời gian đó không ăn được. Nếu vậy thì ta mất hướng. Khách có thể xui xẻo đến nhà vào lúc chủ nhà trắng tay lắm chứ. Nhưng Nguyễn Khuyến đã lựa chọn, ông chọn những cây ra hoa kết trái nhiều lần và con người thu hái dần dần trong một thời lượng tương đối dài. Bầu có quả vừa rụng rốn nhưng cũng có quả ăn được. Cà mướp cũng vậy. Cần nói rõ về cây cải. Nó là loại cây phát triển nhanh, chỉ cần một tháng sau khi gieo trồng đã có thể thu hái. Ở nông thôn, nó là loại rau phổ biến trong bữa ăn của mỗi gia đình suốt mùa thu - đông. Dân ta không bao giờ thu hái hết lớp này mới gieo trồng lớp khác. Họ trồng xen, trồng gối. Trong vườn bao giờ cũng có cải đủ loại: cây non ăn sống, cây vừa nấu canh, cây già muối dưa, ăn củ. Vậy là rõ. Ông đã lựa chọn, không những thế, ông còn bắt tất cả quả bầu đều phải vừa rụng rốn cùng một lúc. Cải, cà, mướp cùng chung số phận. Thật không gì có thể phi lý hơn! Bằng một loạt phó từ chỉ quan hệ thời gian chửa, mới, vừa, đương, ông dồn nén các thì tương đối hội tụ về một điểm trùng với thì tuyệt đối - thì phát ngôn thơ - rồi thì tương đối ra đi, hững hờ, vô cảm - đặc trưng muôn thuở của thời gian - để lại cho thì tuyệt đối cùng chủ thể trữ tình một con số 0 (không) tròn trĩnh: không cải, không cà, không bầu, không mướp.

Có bạn đến chơi nhà thật, hay chỉ là một thủ thuật cấu tứ? Điều ấy không quan trọng. Vấn đề cốt lõi là ở chỗ ông đứng ngoài không gian, đứng ngoài thời gian. Và đó là cách ông tuyệt đối hoá nỗi cô đơn của mình.

Từ lúc cáo quan về nhà, Nguyễn Khuyến là hai con người trong một tâm thân. Một con người thuộc cộng đồng, nghĩa là con người của gia đình, làng xóm, bạn bè, nhiều người quý mến nể vì, cũng không ít kẻ ghét ghen đố kỵ. Và một con người ngoài cộng đồng. Để giải mã triệt để bài thơ, ta xét hồ sơ con người ngoài cộng đồng.

Ông nhận học vị Tam nguyên Hoàng giáp từ vua Tự Đức. Ông trân trọng, tôn thờ cân đai áo mão vua ban. Mong muốn trọn đời của ông là phò vua giúp nước. Nhưng rồi vua Tự Đức băng hà. Lý tưởng trung quân ái quốc của ông sụp đổ. Với Nguyễn Khuyến, Hiệp Hoà, Kiến Phúc, Đồng Khánh là những ông vua bù nhìn. Hàm Nghi là ông vua hữu danh vô thực. Ông không hưởng ứng chiếu Cần vương vì thiếu dũng khí hay vì ông biết vận nước đã tận? Sự thật là cuối thế kỷ 19, tất cả các cuộc khởi nghĩa Cần vương đều bị dập tắt. Bài thơ chữ Hán Xuân dạ liên nga (Đêm xuân thương con thiêu thân) tương truyền ông làm để bày tỏ lòng tiếc thương người bạn đồng học, tiến sĩ Vũ Hữu Lợi, chưa kịp khởi sự đã bị bắt và xử tử hình đêm ba mươi tết (1887) cho thấy khá rõ chính kiến của Nguyễn Khuyến về phong trào Cần vương. Ta nghiêng mình trước những văn thân yêu nước dám xả thân vì nghĩa lớn, nhưng không thể lấy họ làm toạ độ quy chiếu để đánh giá nhân cách của người khác. Động thái của họ chỉ để thành nhân, không thể thành công. Nguyễn Khuyến muốn điều ngược lại và ông bế tắc. Lịch sử đã an bài: gần như cả châu Á đã rơi vào nanh vuốt phương Tây, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Lẽ xuất xứ của các sĩ phu thời tao loạn là Dụng tắc hành, Xả tắc tàng. Ông đã tự xả, nhưng không tàng được. Ông giả điếc, và theo một nghiên cứu của Xuân Diệu, ông còn giả mù, giả câm để tránh chính quyền đương thời nhiễu sự, nhưng ông đã không chạy trốn được chính mình. Ông từ quan mà lòng vẫn bất an. Mặc cảm cay đắng Ơn vua chưa chút báo đền, Cúi trông hổ đất ngửa lên thẹn trời ông đeo đẳng đến lúc chết. Không ai hiểu ông. Người vợ tao khang của ông chỉ biết hay lam hay làm, thắt lưng bó que tần tảo. Con trai ông vẫn hăm hở với hư danh. Bạn bè ông kẻ cùng chí không cùng ý, người tặc lưỡi buông xuôi... Ông cô đơn.

Bây giờ ta đã đủ hành trang để "vượt rào cản" hai câu kết:

Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta.

Nguyễn Khuyến bao giờ cũng có trầu. Những lúc vắng nhà, ông vẫn không quên mang theo gói trầu têm sẵn. Nhưng nghịch lý trầu không có chưa phải là thần tứ. Phó từ phủ định không bất ngờ, sắc lạnh như một nhát chém, chặt đứt nẻo giao tiếp cuối cùng giữa chủ thể với thế giới. Đúng nghệ thuật thơ Đường là nghệ thuật của hư từ! Đại từ chỉ nơi chốn đây định vị một cõi riêng, cõi bị cô lập với không gian và thời gian thông lệ. Kết từ với không gợi tư duy mà chỉ đơn thuần liên kết, hơn thế nữa, hoà tan cái ta cụ thể bác trong cái ta cô đơn.

Cụ Nguyễn Thị Đà (mất năm 1971, thọ 86 tuổi), cháu nội của nhà thơ, kể rằng: "Cứ vào khoảng chiều muộn, cụ thường ra sân ngồi trầm ngâm bên bể cạn non bộ, trước hai ông phỗng đá. Tại đây, khi hoàng hôn sắp xuống, cụ mới bắt đầu bữa rượu chiều. Cụ rót cho mình một chén, rót cho hai ông phỗng hai chén. Xong xuôi, cụ nâng chén mời hai ông phỗng. Hai ông phỗng không biết uống rượu. Cụ buồn rầu xoa đầu hai ông rồi lần lượt uống rượu cho cả hai. Cạn ba chén rượu, cụ ngồi thừ người một lúc rồi cúi đầu lặng lẽ bưng mặt khóc." (Nguyễn Khuyến và giai thoại - Bùi Văn Cường, Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh, 1987).

Ta lại phải dùng hư từ với. Nhà thơ đã đồng nhất mình với hai ông phỗng, hay hai ông phỗng đồng nhất họ với nhà thơ?
__________________
[
 
K

khoaitay_kung

nhu vay thi dai qua a.mjnh chj nho mot vai y thui nhe.
mot nguoi ban den choi nha nhug chag co j de don tiep.nao la cho xa nha,cai chua ra hoa,ca moi nu.......nhug that tuyet khi ban den choi nha chj co ta voi ta.cum tu ta voi ta nghe that am ap va than thuog,triu men ma sau nag.............
 
Top Bottom