01. Người Trung Quốc xấu xa_Bách Dương

T

tranquang

Ðất nước xếp hàng

Người Mỹ là một dân tộc hay giúp đỡ người khác, "Tôi có thể xin được phục vụ ngài?" không phải chỉ là câu nói giao đãi sáo rỗng đưa đẩy, mà là hành động giúp ngay làm ngay. Trừ Niuoóc và một vài nơi có bến cảng, chỉ cần thấy khuôn mặt bạn lộ ra vẻ lo lắng suốt ruột, thể nào cũng có người đến đặt câu hỏi này. Nếu bạn là người có hoài bão, trả lời : "Ðúng rồi, mình đang cần giúp đỡ, cho mình vay khoảng năm mươi tỷ đô-la quay vòng trong hai mươi năm, được chứ?" Tất nhiên là không được rồi. Nhưng giả sử bạn chỉ lạc đường thôi, thì e rằng họ phải bận bịu một thôi một hồi, thế nào cũng giải thích cho bạn biết một cách tỷ mẩn; nếu chẳng may trình độ Anh văn của bạn cũng ngang tầm với ông Bách Dương thì, dù họ có nói giời nói đất đi chăng nữa, bạn vẫn không hiểu, lúc ấy có thể họ kéo bạn chạy ngược chạy xuôi, trông bạn cứ như vương tôn công tử mà họ lại như thằng lái buôn chạy cờ ấy.

Bách Dương phu nhân, vì vết thương ở lưng chưa khỏi hẳn, khi lên đường phải mang theo một tấm mây đan chuyên dụng để dựa lưng. Dùng tấm mây đan ở Ðài Loan đến nửa năm mà chẳng có điều tiếng gì, nhưng khi đến nước Mỹ, nó gây ra bao nhiêu sóng gió. Bất cứ đến đâu, đều có một ông da trắng lo lắng cho tấm lưng của bà, bao giờ họ cũng tưởng tượng nó kêu răng rắc và gẫy đôi bất cứ lúc nào thì phải. Trên máy bay, trên tàu hỏa, bà cứ như khoác long bào trên người, đứng cũng không dám đứng, hơi nhấc mông lên là họ nhún vai cười, đon đả : "Tôi có thể xin được phục vụ bà không ?" Tất nhiên là không thể rồi, bà ấy muốn đi cầu, có ai đi ỉa thay bao giờ ? Bà ta khổ đến nỗi đành phải nhịn, không thì thịnh tình của họ khó từ chối.

Trong quan hệ xã giao của người Trung Quốc, từ trước không sính trò này, mà ngược lại, những người hay giúp đỡ kẻ khác đều được đặt một cái tên hoa lá cành là "những người rách việc". Ngưòi nào mà thấy việc bất bình xẩy ra ngoài đường, dám cả gan rút dao tương trợ, thì lập tức những viên đạn hình dung từ bay vèo vèo đuổi theo găm vào hắn : "Cứ hay nhúng vào chuyện người khác", hành vi cử chỉ "ngược đời", ắt "có ý đồ gì đây". Cho nên, thay vì ở Ðài Bắc, ngay cả bạn mắc chứng thượng thổ hạ tả gục ngay đầu đường, tôi dám đánh cược với bạn là bảo đảm không ai đến dìu bạn đâu.

Còn nhớ năm ngoái, ông Bách Dương vào xem phim ở Ðài Bắc cùng với ông bạn người Mỹ, có ông khán giả tự nhiên sủi bọt mép, từ ghế ngồi ngã vật xuống, hai nhân viên ở rạp chiếu bóng đến khiêng ông ta ra ngoài, không cần phải hỏi, tất nhiên là họ đưa vào bệnh viện rồi. Ai ngờ khi tan rạp, ông tiên sinh nọ vẫn nằm nguyên trên sàn xi-măng bên lối đi cổng phụ, hình như ông ta không phải "con cháu nòi rồng", mà là tù binh vừa tóm được ở bộ lạc man di mọi rợ đâu đây, dòng người ra về ùn ùn như nước, tuyệt nhiên không một người vì thế mà dừng chân, ông bạn Mỹ kinh ngạc vô cùng, than rằng : "Người Trung Quốc với người Niuoóc chẳng khác nhau là bao, vô tình và lạnh lùng quá".

Ông bạn Mỹ của tôi không nói vô tình lạnh nhạt như người Mỹ là chỗ khôn khéo của ông ta, bằng không, lão già Trung Quốc thiết tha yêu nước như tôi đây, có thể cho rằng ông ta ví dụ không đúng, nói năng sọc sía, còn "chia rẽ tình cảm giữa người dân và chính phủ". Sở dĩ ông cố tình nêu ra Niuoóc vì Niuoóc là đại bản doanh của những nhân vật "không mất gốc", nghe nói người nước ngoài chiếm bốn phần năm tổng dân số Niuoóc, đến nỗi hễ nhắc đến Niuoóc là người Mỹ không chịu nhận là thành phố của mình.

Mặc dù vậy, là một người Trung Quốc, đẻ trên đất Trung Quốc, muốn giúp đỡ người Trung Quốc, cũng không phải chuyện dễ dàng. Ông Bách Dương ở trong tập "Ðâm mạnh vào vại tương" đã nói tung vấn đề này, người nào mà không có phẩm chất cao quý, mãi mãi không hiểu được phẩm chất cao quý của người khác, cũng chẳng thể tin rằng người khác có được phẩm chất cao quý đó. Những mũi tên tẩm thuốc độc - "Những người rách việc", "Cứ nhúng vào chuyện người khác", "Hẳn có ý đồ" đã lên cung nỏ từ lâu, chỉ cần đối phương hé ra ý định đòi giúp người khác, thì sẽ bắn ra loạn xạ. Bạn tôi - Dương Hy Phượng, là người lái tăcxi (ông thường xuyên chở hai chúng tôi đi dạo phố). Một buổi chiều mưa, ông chở một phụ nữ ướt như chuột lột, ngồi trên xe vẫn run cầm cập, hai hàm răng đánh vào nhau kêu cách cách, ông Dương động lòng trắc ẩn, vừa vặn bà vợ ông nhờ đi hiệu giặt lấy về bộ quần áo len, ông ta đề nghị : "Tiểu thư, cô có thể thay tạm bộ quần áo ướt ra, đợi khi về đến nhà rồi cô trả cho tôi cũng được." Chị ta nghe thấy nói cởi quần áo, lập tức trợn tròn con mắt, gào lên : "Dê cụ, muốn tôi báo cảnh sát hở ?" Ông tức đến mức phải nguyền rủa chị ta sẽ bị ho lao thối phổi. Còn một ông bạn khác là Lý Thụy Ðằng, giáo viên của Ðại học đường văn hóa Trung Quốc, một lần lên xe buýt, nhìn thấy tay nắm chiếc ô của một phụ nữ (xin lỗi, lại là phụ nữ) bị rơi xuống sàn, suýt nữa bị giẫm nát, ông ta vội nhặt lên, chen chúc mãi mới đến được ghế ngồi phía sau trả cho cô ấy. Ðội ơn Quan Thế Âm Bồ Tát, cô nàng này xem chừng có văn hóa hơn, không chửi "dê cụ", nhưng lại không biết "cám ơn", chỉ giương đôi mắt như cá ươn, nhìn chằm chằm, chẳng nói lấy một lời. Thế là Lý tiên sinh đại thất bại, đến kêu với tôi rằng : "Ông này, ông nói thử xem, người Trung Quốc nhà mình bị làm sao ấy nhỉ ?" Ôi, người Trung Quốc hình như vẫn dừng ở thời đại ăn hang ở lỗ, khoác tấm áo giáp như gai nhím trên mình, chỉ thò ra hai con mắt lạnh lùng, nghi kỵ, tâm thần bất ổn, nhìn thiên hạ bằng con mắt hổ vồ.

Bây giờ trở lại giới thiệu tiếp tấm mây đan của Bách phu nhân, tấm đan ấy thế mà tác dụng lắm, không những khiến các Tây đại nhân hầu hạ mọi chốn mọi nơi, thậm chí gặp cảnh xếp hàng cũng được mọi người nhường lên đằng trước. Nói về chuyện xếp hàng, có thể coi là chiếc nhiệt kế đo nền văn minh bề ngoài của nhân loại. Quan sát trật tự hàng lối của một đất nước, có thể phán đoán trình độ văn minh của họ một cách chuẩn xác. Tôi ở nước Mỹ chỉ hai tháng giời, đã muốn đổi tên Hợp chúng quốc A-me-ri-can thành Xếp hàng quốc A-mê-ri-can, nhưng tóm lại ở nước Mỹ, việc xếp hàng không những quá mức, còn trở thành tai nạn nữa, không thể không tiếc thay cho các bạn da trắng da đen trên hai hàng lối kia, lãng phí bao nhiêu là thời gian trong việc này. Lên máy bay xếp hàng, xuống máy bay xếp hàng, kiểm tra hành lý xếp hàng, xuất trình hộ chiếu xếp hàng, mua tem xếp hàng, gửi thư xếp hàng, nộp tiền, rút tiền xếp hàng, chờ xe buýt xếp hàng, đi vệ sinh xếp hàng, nhưng khiến người ta suốt ruột nhất, là bất cứ cửa hàng ăn nào to hay nhỏ cũng xếp hàng.

Về chuyện xếp hàng, không phải nói khoác đâu, nhưng tôi chẳng đếm xỉa làm gì. Chẳng phải mình tôi đâu, toàn thể người Trung Quốc cũng chẳng ai đếm xỉa làm gì. Nhưng phải phân biệt xếp hàng ở Mỹ và xếp hàng ở Trung Quốc, cả hình thức và nội dung, đều không giống nhau. Nó cũng giống như vạch ngang cho người đi bộ sang đường ở Mỹ và ở Trung Quốc đều không giống nhau. Tóm lại, người Trung Quốc xếp hàng chỉ là một học thuyết, còn người Mỹ xếp hàng lại là một cách sống. Ở Ðài Bắc, xếp hàng chỉ áp dụng được nửa đoạn, mọi ngưòi chờ xe buýt xếp hàng, đang yên đang lành đùng một cái xe đến, là cứ như Mục Quế Anh xông vào trận Thiên Môn, lập tức liểng xiểng gạch ngói, xô trước đẩy sau. Kẻ yên hùng mở đường máu, nhẩy lên chiếm chỗ trước, còn già yếu thương phế binh cứ đâm nháo đâm nhào mãi đằng sau, bươu đầu sứt trán. Trời ơi, thật không biết lúc đầu xếp hàng để làm gì ? Nhằm kiếm một chỗ ngồi, hay sợ không chen được lên xe, đành cho một cái trâu húc mả còn dễ hiểu. Nhưng ngay cả tàu hỏa, ô-tô đã ghi rõ số ghế, mà ghế ngồi thì hàn bằng sắt, chẳng bay mất được cũng chẳng sợ mông người ta cắm đinh, thật sự không hiểu tại sao còn phải tranh cướp nhau ? Còn người Mỹ, hình như đẻ ra số là xếp hàng cả đời, cho nên họ cứ bình tĩnh như không. Hay là Trung Quốc người đông, đến khi xếp hàng thì gáy đằng trước chạm mũi đằng sau, kẻ ôm người đẩy, quần áo người nọ dính chặt người kia, đứa hổn hển, đứa hở cả thịt da, trông xa thân mật như những người bạn chiến đấu. Chỉ Tây đại nhân xếp hàng là uể oải, thưa thớt, gặp lúc có xe qua lại, hoặc đến đầu đường đầu ngõ, họ còn tự động ngắt quãng, trông xa có vẻ thương tâm, nhìn vận nước của họ thế kia mà tự nhiên lâm ly cảm khái.

Ở Niuoóc, một người bạn bảo tôi cùng đến một ngân hàng nổi tiếng chen chúc để rút tiền. Tôi tự nhủ, anh này chắc được nghe nói tôi giỏi võ chen xe buýt ở Ðài Bắc, bèn bảo tôi đem chuông đi đấm nước người, mà bản thân tôi cũng thích diễu võ dương oai. Khi bước vào cửa, thì thấy các quầy xếp thành một hàng thẳng tắp, mỗi quầy chỉ có một khách hàng đứng xì xồ ở đó, bụng đã mừng thầm, nhanh như chớp tôi nhảy phắt vào xếp sau một vị đứng trước quầy, không ngờ ông bạn túm lấy tôi như bắt được thằng ăn cắp, còn chơi chiến thuật khóa họng nữa, lôi xềnh xệch tôi ra ngoài, không những không xin lỗi về hành vi lỗ mãng của ông ta, còn trách móc: "Ông làm gì đấy?" Tôi nói không ra hơi nữa: "Tôi xếp hàng chứ còn làm gì nữa, từ ngày đặt chân đến quý quốc của các ông, làm gì vướng đấy, xếp hàng cũng phạm pháp chắc?" Ông ta nói : "Phạm pháp thì không, phạm quy thì có". Hóa ra trước quầy giao tiền ở ngân hàng, dưới đất có một vạch - giống vạch ở quầy soát hộ chiếu trong nhà ga sân bay, người đến sau đều phải đứng chờ ở dưới vạch đó, chưa đến lượt gọi thì không được vượt ra tùy tiện. Mà ở đó đã xếp đến năm sáu chục người rồi, họ đều phải chờ đến vị khách đứng trước quầy đi khỏi, bàn tay ngọc của ông bà ngồi sau quầy vẫy khẽ, mới được phép nẩy như hạt đỗ, vào trong bổ khuyết. Ôi dào, nước Mỹ thành lập chưa được bao lâu, sao mà lắm quy củ thế, thủ tục lễ nghi thế này, không hiểu có ảnh hưởng đến sĩ khí, lòng dân ?

Thế nhưng, cái đáng sợ còn là, ở mọi cửa hàng cơm lớn nhỏ, cũng phải xếp hàng, điều đó vượt quá xa phạm trù học vấn vĩ đại của tôi, từ thời Bàn Cổ khai thiên lập địa, chưa từng nghe nói vào hàng cơm phải xếp hàng cả. Bách lão lần đầu ăn cơm ở cửa hàng San Francisco, mới bước vào đã bị bà nhà kéo ra. Ô hay, có hàng đâu mà xếp cơ chứ, đương nhiên là sải bước vào trong rồi, lôi lôi kéo kéo gì thế ? Ai mà biết được rằng, dù chẳng có bóng ma nào cũng phải đứng đấy đã, chờ cho cô phục vụ dẫn vào ghế ngồi như dẫn hồn ma ấy. Nếu không có ai đến chỉ dẫn, thì có chết đói ngay tại chỗ cũng không được vượt lôi trì dù nửa bước.

Ấn tượng mạnh mẽ nhất là một đêm ở Thung lũng, vất vả lắm mới tìm được một quán trọ còn mở cửa, quán trọ ấy lại rộng lòng đặc ân, miễn xếp hàng, nhưng khách trọ phải đến đăng ký quý danh tại quầy trực ban trước, sau đó ngồi ngoài cửa chờ người ta gọi. Bà hầu phòng hễ xuất hiện, là trở thành Ðức Mẹ cứu khổ cứu nạn, đại từ đại bi của mọi người. Tất thảy giương đôi mắt như con chiên đang cầu Chúa, lo lắng nhìn về hướng bà ta. Nghe bà ta phun vàng nhả ngọc, truyền gọi mỗ mỗ tiên sinh có thể vào được rồi, cả gia đình lớn bé của ông mỗ mỗ, hô vang như sấm, kêu hét ầm ĩ. Ừ nhỉ, hà tất phải tốn thêm lần thủ tục như vậy!

Ở Ðài Bắc thì không có cảnh này, một lũ ma đói kéo đến hàng cơm, rõ ràng khách đã ngồi kín cả hầm cả hố, vẫn cứ xông vào hang hùm, chọn một bàn đoán là sắp ăn xong vì bát đĩa chổng chơ, cốc tách ngang ngửa, rồi đứng vây kín xung quanh. Khách ngồi ăn dở trên bàn cũng chẳng lạ lẫm gì với thế trận này, mặc cho lũ ma đói giận dữ nhìn chằm chằm vào quý miệng của họ, quý miệng ấy vẫn nhai vẫn nuốt rất từ tốn, thở không bị ngạt, nuốt không bị nấc, mặt không biến sắc. Cuối cùng, chán chê mới chịu rút lui. Lũ ma đói được thăng cấp, trở thành thượng khách. Lại một tốp ma đói khác ào vào, lại vây kín mặt bàn, nhìn ngó tứ phía. Một cảnh chó sói đất Phi châu đang ngoẹo cổ nhìn cá sấu nhai nhồm nhoàm được tái diễn, quả là dễ sợ!

Chuyện đau lòng nhất là nhiều hàng cơm Trung Quốc ở nước Mỹ dần dần cũng nhiễm phải thói xấu thế này, bỏ rơi nền văn hóa "xem ăn" truyền thống của chúng ta. Mọi người đều nói nước Mỹ là một nước tự do, ý kiến của tôi có điều ngược lại, chỉ cần xếp hàng thế thôi, cũng đủ khiến người ta xếp đến phân liệt tinh thần.

Trích từ "Giẫm phải đuôi của hắn"


(Vẫn còn tiếp)
 
T

tranquang

Rốt cuộc là cái bang gì

Chỉ theo dõi tác nghiệp trên giấy bút, thì Trung Quốc quả là bang lễ nghĩa. Nhưng xét trên hành vi, thì chúng ta lại đi giật lùi về thời hoang dã.

Nguyện vọng lớn nhất của tôi là mong Trung Quốc sớm trở thành một nước lễ nghĩa. Câu nói này nghe ra hơi chối tai, có ông bạn liền khích bác : "Theo ý ông thì Trung Quốc bây giờ là một nước lễ nghĩa giả sao ?" Ông Bách Dương nói : "Ý tôi không phải thế, mà ý tôi là Trung Quốc hiện nay còn chưa đủ tư cách là một nước lễ nghĩa giả, mà là một nước man dại nguyên thủy thật sự". Một câu thế là hết, tôi tiện tay xê chiếc ghế đẩu lót dưới mông ông ấy, may mà ông ấy không ngất xỉu lăn đùng xuống đất, mà chỉ ngồi hổn hển thôi. Tôi nghĩ, sĩ phu yêu nước đến hổn hển như thế, chắc chắn là đếm không xuể, nói thế thì khẩu chứng vô bằng, bây giờ xin các quý ngài chớ có phán đoán trực giác theo kiểu cảm tính, hãy để lão già này dẫn các ngài đi tham quan, tham quan.

Xin mời tham quan tiết mục đầu tiên: Lễ cưới.

Ðến cả ngôi sao màn bạc có số lần ly hôn nhiều nhất, cũng phải thừa nhận, kết hôn là một việc to lớn trong đời người, nếu không thì đã ly nó rồi, tại sao lại kết nó cơ chứ? Tóm lại, kết hôn là một trang nhẩy vọt và đột phá trong lịch trình của cuộc sống. Một trai một gái rời bỏ môi trường xưa nay vốn thân quen, nhảy lên một chiếc thuyền khác, hợp thành một gia đình lấy đôi lứa làm trung tâm, cùng tay chèo tay lái, đưa chiếc thuyền tình vào đại dương vừa xa lạ vừa hứng khởi. Ðó là sự thay đổi quan trọng biết nhường nào, cho nên bất kể nghi thức cổ truyền của Trung Quốc hoặc nghi lễ tôn giáo ngoại nhập từ phương Tây, đều rất trang nghiêm, sự trang nghiêm và sung sướng tràn đầy qua những lời chúc cho cuộc đổi thay này. Cổ xưa quá thì thôi không nhắc nữa, chỉ nói về lễ cưới ở nhà quê trong suốt thập kỷ bốn mươi gần đây, đều rất long trọng, chú rể thân chinh đến tận nhà gái xin đón dâu, hoặc ngồi xe hoặc ngồi kiệu, về đến nhà trai, một lạy giời đất, cảm ơn sự an bài đôi lứa của tạo hóa, hai lạy cao đường, cảm ơn ân đức nuôi dưỡng của mẹ cha, ba là, cô dâu chú rể cúi lạy nhau. Ba lần quỳ lạy rồi mới thành vợ chồng. Lễ cưới ở trong nhà thờ đạo cũng mang ý nghĩa tương tự, chú rể đứng trước bục thánh, cùng với tiếng nhạc đệm trang nghiêm, cô dâu khoác tay người cha hoặc người anh của mình từ từ bước ra, đến trước thánh đường, người cha trao con gái, người anh trao em cho chú rể, sau đó mục sư hoặc cha cố, nhân danh Chúa, Thượng đế, tuyên bố họ đã kết hợp thành một.

Rồi thì, không biết bắt đầu từ khi nào, có lẽ một thời gian sau khi triều đình nhà Thanh sụp đổ, người Trung Quốc chê bai tục cúi lạy cũ kỹ, rồi lại chê bai lễ cưới nhà thờ kiểu cách Tây, bèn phát minh ra kiểu "văn minh kết hôn" tứ bất tượng (chẳng biết giống thứ gì - dịch giả), mà đến bây giờ vẫn thịnh hành. Lễ cưới chẳng ra lễ cưới mà thành ra phường chèo. Lễ đường không ra lễ đường mà thành ra lễ hội. Khách khứa đến chúc mừng đám cưới thì ít, đến như trẩy hội thì nhiều. Họ chạy tới chạy lui để kiếm bạn, trong mắt họ thật ra không hề có lễ cưới, chỉ là gặp gỡ xã giao. Tóm gọn lại là mọi người tuy ở cùng một thành phố, nhưng thường hai ba năm, bốn năm năm, không gặp nhau một lần, chỉ còn cách biến phòng cưới thành cao lâu nhà hàng. Cho nên, chi chi chô chô, ầm ào sôi nổi, người thì hẹn xong tiệc cưới ở lại chơi vài ván mà chược, người thì hẹn mấy hôm nữa sẽ tổ chức gặp lại nhau, rồi kể lể quãng ngày xa cách, rồi hỏi han tin tức, rồi cảm thán nuối tiếc thời son trẻ, lôi cả chuyện ra chê trách ông Hai, bà Ba, chú Tư, cô Năm... là chuyện thường tình. Ông chủ hôn thì đầy bụng luân thường đạo lý, gào khản cả tiếng ở trên bục, không một người nào trên thế giới này nghe thấy ông nói gì, đến cả ông ta cũng không nghe thấy tiếng gào của mình. Còn người giới thiệu chương trình, thường là nhổ củ hành tại chỗ, nước đến chân mới nhảy, đã không biết cô dâu họ tên gì, cũng chẳng biết công việc của cô đang đảm nhiệm thánh thiện đến mức nào, thỉnh thoảng trà trộn vai diễn, lôi chuyện động phòng của người ta ra trước quan viên hai họ, lời vang vọt tuôn ra nhảm nhí, thô thiển hạ lưu đến mức ngài biên tập tờ báo Hoa hoa công tử (Playboy) của Mỹ, cũng không chịu nổi phải báo cảnh sát. Hề già hề trẻ, va bên nọ đụng bên kia, nói là cái chợ còn phúc đức đấy, đúng là nơi người dại để truồng, người khôn xấu hổ.

Xin mời tham quan tiết mục thứ hai: Lễ tang.

Việc chết, so với cưới xin trong đời người, còn trọng đại hơn nhiều, một người có thể cưới rất nhiều lần, nhưng chết thì chỉ được một lần thôi, đó là chấm dứt của đời người, chấm dứt vĩnh viễn. Bỏ lại thành quả cả đời phấn đấu vất vả, và người thân yêu dấu, xuôi tay về cõi cực lạc. Nhà tang lễ là trạm cuối cùng cuộc hành trình cuả con người đó. Bước qua trạm cuối, là mãi mãi ở lại trong nhà mồ. Không khí tang lễ, không chỉ nghiêm trang, mà còn vô vàn bi ai. Cổ nhân nói : Ðiếu giả đại duyệt (người viếng rất mừng - dịch giả) là nói mừng cho tang lễ tổ chức đúng phép tắc lệ bộ, chứ không có ý mừng cho người chết, chết được ổn, chết được may. Nhưng bây giờ, các đám tang thường có hiện tượng thế này, khách viếng bước vào nhà, là vào ngay thắp hương vái lạy trước bài vị linh cữu, người nhà quỳ bên linh cữu khấu đầu lễ tạ, có lúc bật ra tiếng khóc thương xót, nhất là mẹ già con dại, bà góa con côi, tiếng kêu khóc càng đau lòng đứt ruột. Nhưng tiếng khóc còn chưa dứt, khách viếng kia vừa xoay người, y đã lao ra như mũi tên, nhẩy ngay đến trước mặt một người khách khác, reo lên mừng rỡ: "Ái dà, lão Bách đấy hở, lâu lắm chẳng trông thấy đâu cả, mặt mũi phương phi như tỷ phú ấy, quên bạn rồi hả." Ông Bách Dương kia cũng vẻ phấn khởi: "Tôi cũng đang tìm ông đây, nhưng mẹ nó, cứ bị những tờ thiếp trắng thiếp đỏ nó bám đến nhức cả đầu, đi, ta tìm một chỗ để đánh chén". Vừa ra đến cửa, lại gặp cái của này tiến vào, hai con động vật máu lạnh kia lập tức cất mông chào: "Dạ, chào bộ trưởng, bộ trưởng vẫn khỏe chứ ạ". Bộ trưởng đại nhân ắt là gật đầu mỉm cười, bắt tay thả bước, hai con động vật máu lạnh kia không buồn đi nữa, bám đuôi đon đả, những người khác cũng ồ vào theo, thế là nhà quàn trở thành câu lạc bộ xã giao. Kỳ thực mà nói, kể cả không có cái của này giá lâm, đám tang cũng chỉ là bản sao của đám cưới, không mấy khách đến viếng mang lòng thương tiếc xót xa, hầu hết cũng là đến để xem hội hè. Thế là cảnh quay ở đám cưới lại được tua lại trong đám tang: chi chi chô chô, ầm ào sôi nổi, người thì hẹn xong đám rước ở lại chơi vài ván mà chược, người thì hẹn mấy hôm nữa sẽ tổ chức gặp lại nhau, rồi kể lể quãng ngày xa cách, rồi hỏi han tin tức, rồi cảm thán nuối tiếc thời son trẻ, lôi cả chuyện ra chê trách ông Hai, bà Ba, chú Tư, cô Năm... là chuyện thường tình. Bà góa con côi đập đầu kêu khóc, gào khản cả tiếng bên linh cữu, không một người nào trên thế giới này nghe thấy tiếng khóc của họ, đến bản thân họ cũng không nghe thấy tiếng khóc của mình. Sự thật, nhà tang lễ đã trở thành phòng giao dịch, rồi tự nhiên gặp bạn gặp bè. Gặp bạn gặp bè rồi tự nhiên đất khách gặp cố tri, rồi tự nhiên tay bắt mặt mừng... Tây đại nhân hay công kích người Trung Quốc lạnh lùng vô cảm, giận quá mất khôn lắm cũng chỉ nổi cơn hen suyễn hổn hển mà thôi. Than ôi, mảnh đất nhà tang lễ, mảnh đất thương tâm của bà góa con côi, mảnh đất đau lòng của ông trời đó!

Xin tham quan tiết mục thứ ba: Nhà hàng.

Nhà hàng là nơi lễ nghĩa Trung Hoa phát triển sum suê nhất, cũng có thể nói, tất cả tinh hoa của lễ nghĩa chi bang tập trung trong "hai trận chiến" ở nhà hàng như thế này. Trận đầu tiên là "lảng tránh chỗ ngồi", kẻ có đủ tư cách ngồi vào ghế số một là thượng khách, đa số thuộc các bậc có địa vị, có nhiều tiền. Nhưng trên ghế có con rắn phục ở đó hay sao mà hắn ta thề không chịu ngồi vào, thế là gia chủ và đủ các mặt người xúm vào lôi, xúm vào đẩy, xúm vào hò lơ hắn. Hắn ta miệng thì sùi bọt, nhưng chết cũng không chịu ngồi. Nhưng có người lại hết sức nhanh nhảu, chơi kiểu "mạnh ai đặt đít trước là được", đặt đít ngồi xuống rồi la lên: "Ghế số một đây rồi." Cũng có người sau cuộc đùn đẩy, ngồi xuống ra vẻ muôn chiều oan ức. Chờ khi ghế số một sắp xếp xong, ghế số hai, số ba, số bốn, ghế nào cũng phải một trận náo động thiên cung hơn mười phút hay mười phút hơn, thì bụi bặm mới chịu lắng xuống.

Trong bữa tiệc, anh chuốc rượu, tôi chuốc thức ăn, lại một trận hỗn chiến xẩy ra, khiến người ta mệt muốn chết, nhưng chuyện đó không kể ở đây. Chỉ kể chuyện tàn cuộc hết vở thì nổ ra cuộc chiến thứ hai, đó là trận "lảng tránh ra cửa", tất cả đứng chen ở cửa như đàn chim cánh cụt, những tưởng bên ngoài bậu cửa là một cái bẫy khôn lường, chỉ bước ra khỏi một bước thôi, thì lập tức sập xuống làm mồi cho chó sói. Bởi vậy ông không chịu ra tôi cũng không chịu ra, cả hắn ta ngồi ghế số một nữa, cũng cầm chắc chủ ý quyết không tiến thêm một bước. Thế là lại một trận náo loạn thiên đình xẩy ra, cuối cùng hắn ta đang giẫy thì bị một cái hất ra ngoài. Kẻ nào suy nhược già yếu đứng không vững mà bị hất ra ngoài như thế khéo quý mồm phải cắn đất gặm cỏ!

Trên đây, những chuyện tôi kể chẳng qua là những thứ ra tấm ra miếng, còn những thứ vặt vãnh, kể ra cũng chưa hẳn là không gây kinh hoàng cho các quý ngài đâu!

Trích từ tập "Con sâu dậy sớm"


(Còn tiếp)
 
T

tranquang

Tầm nhìn bằng hạt đỗ

Mọi người đều nói Trung Quốc có năm nghìn năm văn hóa. Vâng, thì đúng là có năm nghìn năm văn hóa, nhưng tất cả vinh quang đều đã thuộc về quá khứ, đúng như vị danh tướng nước Ðức Luđentô sau khi đọc Tôn tử binh pháp nói: "Tôi khâm phục người Trung Quốc, nhưng tôi khâm phục người Trung Quốc cổ đại, không khâm phục người Trung Quốc hiện đại".

Lại nói ông Lutsige, quốc vụ khanh nước Mỹ quyết định không đến Ðài Bắc nữa, đối với lời mời hau háu của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, cách từ chối uyển chuyển không chê vào đâu được, nhưng sự thực của cái không muốn đến thì hùng hồn vô cùng. Ðiều đó khiến người ta liên tưởng đến một câu chuyện trước đây... Năm ấy ngài Kennơđi mới nhậm chức tổng thống, đi chu du khắp thiên hạ, ông Lutsige ngày ấy chỉ là một tiểu dân không mấy thân thiện với Dân Quốc chúng ta, tiểu dân mà dám bàn đến việc nước đã là chuyện hoang đường rồi, nhưng còn hoang đường hơn là ông ta dám viết thư cho một ông ủy viên lập pháp tại Ðài Bắc, yêu cầu sang thăm phỏng vấn Ðài Bắc, đúng là không biết điều. Ông ủy viên lập pháp nọ đưa bức thư sang bộ ngoại giao, sau đó có thật người ta cười rụng cả răng hay không, chúng ta không được biết, nhưng kết quả biết chắc là, nếu như đối với anh nào nói ngược cũng tỏ ra hoan nghênh thì chẳng phải tất cả đều nói ngược ? Cái ý mà ta đoán vậy, tất nhiên không lời giải đáp. Ai tưởng tượng được thời thế xoay vần, một ngày ngài Lutsige được bầu làm quốc vụ khanh, các quan lại của Trung Hoa Dân Quốc, không thể không cung trước kính sau, không biết có nên liệt vào một nét đẹp của văn hóa truyền thống?

Cho nên, người ta lại liên tưởng đến một câu chuyện khác, mười năm vế trước, ông Ngô Ðình Diệm với danh nghĩa thường dân đi qua Ðài Bắc về Việt Nam, ông Trương Quân Lệ có viết một lá thư gửi một vị cấp cao nhà nước, cho biết ông Ngô có khả năng nắm chính quyền ở Việt Nam, để đặt nền móng cho quan hệ hợp tác sau này, ông đề nghị chính phủ nên mở tiệc tiếp đãi. Song kết quả còn thê thảm hơn ông Lut-si-ge. Một là, mở tiệc chiêu đãi không có vấn đề gì, nhưng chẳng may tương lai của ông Ngô không sáng sủa thì chúng ta quan hệ với loại người này còn ra cái thể thống gì ? Hai là, dựa vào bức thư của một thường dân không có chức vụ gì, nếu tiếp đãi thịnh soạn, chẳng phải đi đề cao địa vị đối ngoại của anh thường dân này sao ? Do vậy, ông Ngô Ðình Diệm một mình một bóng ngồi lại trong sân bay Tùng Sơn, chờ cho hết giờ trung chuyển, không có một ma nào đến hỏi thăm ông cả.

Giờ đây, những con mắt vụ lợi chỉ còn cách cầu xin ảo giác của mình, hy vọng rằng các ông lớn đều có được một đức hạnh không thù dai. Các ông lớn không thù dai ư ? Có những ông lớn cố nhiên là rộng lòng cao thượng, nhưng cũng có ông không mấy dễ quên tình cũ nghĩa xưa. Sau này, ông Trương Quân Lệ sang Việt Nam giảng dạy, Việt Nam tiếp đãi ông bằng quốc lễ long trọng (nước ngoài thiết lễ đãi ngộ học giả Trung Quốc như vậy, trăm năm nay mới là lần đầu, là vinh hạnh lớn cho đất nước, nhưng báo chí Ðài Loan không nhắc đến một lời. Than ôi!).

Ðại sứ quán Trung Hoa Dân Quốc vì tình thế bắt buộc, không thể không mở tiệc tiếp xúc sứ giả các nước và một số nhân vật danh tiếng, họ đến rất đông, chỉ trừ có hai người không dự, một người là tổng thống Ngô Ðình Diệm, một người là ông Trương Quân Lệ, làm cho bữa tiệc lấn cấn mãi. Ðó còn chưa kể, nghe đâu Tổng thống Ngô ra lệnh xóa bỏ quốc tịch người Hoa là có yếu tố tình cảm riêng tây ở trong đó, ảnh hưởng ấy mới lớn làm sao!

Không cần bê nguyên học thuyết Khổng Mạnh ra lần nữa để chứng minh người Trung Quốc hiếu khách như thế nào, đối nhân xử thế ra làm sao. Bài ca ấy đã tuyệt chủng lâu rồi, nó và hành động tư tưởng của người hôm nay hoàn toàn là hai chuyện khác hẳn. Các quan viên còn hơn thế, mải xoay sở kiếm chác đến mức hiện thực như thế, nông nổi như thế, đối với người không tiền của, không quyền thế đều không coi ra gì, đợi đến khi coi ra gì rồi thì không kịp nữa. Lutsige đi qua mà không vào, trách thế nào được ông ta.

Trích từ tập "Con lợn hay"

Không bàn phải trái, chỉ bàn "chính lộ"

Ðặc điểm của chủ nghĩa "Thế lợi" là không bàn đến phải trái, chỉ lấy thế lực và lợi lộc làm thước đo đúng sai.

Ông bạn Ðồ Hồng có kể với tôi, chuyện xẩy ra ở Triết Giang quê ông ta : trong kháng chiến, có một người họ hàng in tiền giả lưu hành trong khu địch tạm chiếm, dùng để mua sắm vũ khí đạn dược thuốc men cho đội du kích đánh Nhật. Người họ hàng kia không may bị quân Nhật bắt, hành quyết trước ngày kháng chiến toàn thắng. Khi tin loan về đến quê nhà, các vị "chính nhân quân tử" nghe thấy không ngớt lắc đầu than phiền : "Thằng này tốt đủ mọi mặt, chỉ mỗi tội không chịu tìm việc làm chính đáng, đi con đường chính đáng, để bây giờ sa vào kết cục như vậy." Than ôi, đó là lời bình phẩm đánh giá từ thâm tâm người Trung Quốc đối với một vị hảo hán chống ngoại xâm : "không làm việc chính đáng", "không đi đường chính đáng", tỏ ra vô cùng nuối tiếc, nhưng không hề có chút kính cẩn. Ðó chính là một sự lạnh lùng, một sự tàn nhẫn. Trong văn hoá Vại tương, chỉ có công danh phú quý mới là "chính lộ" (con đường chính đáng). Phàm những hành vi không giành được công danh phú quý, thì đều là "không chịu làm việc chính đáng", đều là "không chịu đi đường chính đáng". Cho nên cái linh thiêng trong cõi người đã tiêu tan biệt tích, thước đo thị phi đã lẫn lộn nghịch đảo, sự khác biệt giữa người và thú gần như không thấy. Duy chỉ "Con mắt Thế lợi" trân trân tồn tại như ánh ngày.
...
Hỡi ôi, nếu mỗi một người Trung Quốc đều gắng gỏi đi con đường "chính lộ", thì xã hội Trung Quốc không biết sẽ trở thành ra sao ? Chẳng cần vào đền Quan thánh để bốc quẻ cũng thừa biết rồi. Nhưng cho đến giờ này, vẫn có hàng đống người đang hô hào đi theo "con đường chính đáng" công danh giàu sang, ông bảo như vậy có chết người không !

Ông Do Nhân Hoa, lưu học ở Trung Quốc, từng chỉ trích người Trung Quốc tuy giàu tình người nhưng thiếu công đức. Tôi cho rằng ông Do chỉ nhìn thấy bề mặt, mà không thấy trong cốt tủy của sự việc mà thôi. Nếu nhìn tận trong xương tuỷ, thì chắc chắn ông không còn thấy tình người của họ nữa, mà chỉ thấy toàn những ánh mắt Thế lợi - lạnh lùng, tàn nhẫn, nghi kỵ, hả hê và ngày ngày mong người ta đổ bể, vì công danh, vì sang giàu mà mất hết tính người, mà như say như ngố, mà như cuồng như điên.

Trích từ "Ðập mạnh vào vại tương"


Một chậu cát tơi

Bất kỳ một xã hội và bất cứ một người nào, đều có chút sùng bái quyền uy. Nhưng hầu như không có một xã hội nào, một dân tộc nào, sùng bái uy quyền đến chí cốt, đến cuồng dại như người Trung Quốc. Bất luận một xã hội hay bất kể một người nào, ít nhiều cũng có tính ích kỷ. Nhưng cũng không có một xã hội nào và một dân tộc nào tính ích kỷ bền vững như người Trung Quốc. Nói như vậy, nghe có vẻ hậm hực với đời, mà nói ra vậy, chưa biết chừng nguy cơ đến nơi, nếu chọc tức đội trọng tài yêu nước, họ sẽ huýt còi loạn cả lên chưa biết chừng. Nhưng đã là lý lẽ thì ta nên bàn bạc, chẳng nên tức tối làm gì.

Có một hiện tượng, chắc mọi người đều vui vẻ thừa nhận, rằng người Trung Quốc là một dân tộc thông minh. Lưu học sinh Trung Quốc ở nước ngoài, bất kỳ ở Mỹ, ở Anh, ở Pháp, ở Nhật, thành tích đều nổi trội so với học sinh bản xứ. Ông Cô Hồng Minh học trường hải quân ở Anh, điểm trội hơn cả lưu học sinh người Nhật - Y Ðằng Bác. Ông Tưởng Bách Lý học trường lục quân ở Nhật, môn học kiêm cả môn thuật, đều đứng đầu khóa học. Người Nhật hồi đó chưa được như bây giờ, còn nhỏ nhen lắm, không chịu được người ta hơn mình, tìm cách đè bẹp ông Lý. Ðấy là những thí dụ xa xôi, còn thí dụ gần mà lại kinh thiên động địa nữa là "Ðại vương" môn thể thao cờ vi Ngô Thanh Nguyên và "Tiểu vương" Lâm Hải Phong thi thố dọc ngang ở ngay nước Nhật, đối thủ đổ như rạ. Ðương nhiên là do môi trường ưu việt của môn cờ vi Nhật Bản, nhưng cũng do cả trí tuệ bẩm sinh của người Trung Quốc nữa chứ. Nếu khăng khăng nói người Trung Quốc thông minh hơn Tây đại nhân, quả là hơi khoác lác một chút, nhưng chí ít phải nói, thông minh của người Trung Quốc tuyệt nhiên không thua kém Tây đại nhân - Ðồng bào Trung quốc sẽ được vui mừng lây, đương nhiên là khỏi bàn cãi, đến Tây đại nhân, thậm chí đến đảng 3K, cũng không thể nói người Trung Quốc tính thông minh kém cỏi, cùng lắm chỉ phàn nàn người Trung Quốc tính tập thể kém cỏi mà thôi. Ông bạn Tây hay ví người Trung Quốc là Do Thái phương Ðông, tất nhiên là khinh miệt rồi, nhưng đồng thời cũng có ý sợ, nể. Người Do Thái nổi tiếng là xương xẩu, khó gặm, đừng hòng nhổ được tơ hào của họ. Nhưng về mặt cống hiến của họ, ví như tôn giáo, khoa học, nghệ thuật, chẳng tiếng tăm lẫy lừng sao. Thử coi, giờ nắm quyền kinh tế lớn nhất trên thế giới là người Do Thái chứ đâu? Ngài Giêsu khai sáng ra Cơ đốc giáo, chẳng phải là người Do Thái đó ư? Nhà khoa học cự phách Anhxtanh, cũng người Do Thái cả đấy !

Người Trung Quốc thông minh, nhưng sự thông minh ấy lại phải kèm theo một tiền đề hệ trọng, đó là "một chọi một". Trong cuộc đọ sức cá biệt, một người Trung Quốc đối chọi với một người phương Tây, người Trung Quốc thông minh là chắc chắn rồi. Cũng như ông Ngô Thanh Nguyên, và ông Lâm Hải Phong, đơn thương độc mã, triệt tiêu kỳ thủ vào bảy là ra cả bảy. Nhưng một khi đọ sức tập thể, hai người Trung Quốc đọ với hai ông Tây, hoặc hơn hai người Trung Quốc so đọ với hơn hai ông Tây thì người Trung Quốc không lại được, không chịu nổi. Ngài Tôn Trung Sơn từng than vãn, ví người Trung Quốc là: "Một chậu cát tơi"...

Một chậu cát tơi có nghĩa là không liên kết hợp tác. Ta nói không hợp tác chứ không nói rằng người Trung Quốc không biết cái hay của sự hợp tác. Ơ này, không những biết, mà còn biết một cách triệt để. Các con giòi tiên sinh ở trong vại tương bỗng tức khí, chúng có thể viết hẳn một cuốn sách, trích dẫn toàn kinh điển, rao bán hàng lô huấn thị về hợp tác của các thánh hiền xưa và thánh hiền nay. Ngài Bách Dương đây nếu mà cũng tức khí, cũng có thể viện dẫn kinh điển viết thành cuốn sách - không những viết được một cuốn sách, mà có thể viết hẳn một đoàn tàu sách. Nhưng vấn đề ở chỗ, dù rao giảng về hợp tác rôm rả đến mấy chăng nữa, thì rao giảng cũng chỉ dừng lại ở con chữ in trên trang sách mà thôi, còn hành động thì lại là chuyện khác hẳn.

Trích từ "Ðập mạnh vào vại tương"


(Còn tiếp)
 
S

shinichi5692

hjc, dài thế naj` làm sao đọc được hả anh Quang ?
anh cóa mj' bài thơ của Lý Bạch. post lên cho em đc ko?
 
1

123konica

shinichi5692 said:
hjc, dài thế naj` làm sao đọc được hả anh Quang ?
anh cóa mj' bài thơ của Lý Bạch. post lên cho em đc ko?
Không dài sao gọi là sách. Chú không đọc thì người khác đọc, ai lại đi kêu ca thế này í. :D
Mà này, "mấy bài thơ của Lý Bạch" cho vào thư viện được không? >:)
 
D

daohuong1992

thơ Lý Bạch cho shinichi5692 nè
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
 
T

tranquang

shinichi5692 said:
hjc, dài thế naj` làm sao đọc được hả anh Quang ?
anh cóa mj' bài thơ của Lý Bạch. post lên cho em đc ko?

Chỗ này, chỉ đưa sách thôi mà E! Và sách thì tất nhiên là không như truyện tranh hay truyện ngắn hoặc thơ rồi...

Anh cũng đã nói rất rõ từ đầu: Sách mang tính chia sẻ và mọi người có thể copy về máy của mình in ra để đọc. Ok?

Còn các tác phẩm của Lí Bạch thì em có thể chia sẻ trong sub-forum Văn học nước ngoài!

Chào thân ái và quyết thắng!
 
M

mimosa_769

anh Quang ơi nhưng nếu post sách kiểu này, khi đã post đc nhìu sẽ rất khó tìm theo mục đích
em nghĩ rằng nên mở hẳn một box làm thư viện sách, và mỗi cuốn sách tương ứng với một pic mà đầu sách là tên pic, như vậy sẽ dễ tìm hơn và việc post bài cũng đơn giản hơn, lại ko sợ trùng sách :D
 
T

tranquang

mimosa_769 said:
anh Quang ơi nhưng nếu post sách kiểu này, khi đã post đc nhìu sẽ rất khó tìm theo mục đích
em nghĩ rằng nên mở hẳn một box làm thư viện sách, và mỗi cuốn sách tương ứng với một pic mà đầu sách là tên pic, như vậy sẽ dễ tìm hơn và việc post bài cũng đơn giản hơn, lại ko sợ trùng sách :D

Ok! Thanks ý kiến đóng góp của E... Anh sẽ bàn bạc cùng 123konica xem thế nào?
@123konica: Em nghĩ sao?
 
1

123konica

Em thấy hay đấy ạ. Nên thế, cho nó có hệ thống. :D
À tiện thông báo luôn cả nhà, từ giờ không post bài trả lời chen vào giữa nội dung sách nữa nhé, để cho nó liền mạch và dễ theo dõi ấy mà. Sẽ có một chỗ cho mọi người xả xì trét sau khi "Đi nhẹ-nói khẽ-cười duyên" trong thư viện. ;))
Thế nhé! >:D<
 
B

bebu2412_2008

chỗ xả xì trét là chỗ nào thế hả Số 1 ? :D
mình đang muốn xả mà chả biết xả ở đâu cả :D
Đã nói là SẼ CÓ rồi mà >:). Thông báo lại một lần nữa, ko post bài giữa nội dung sách, ok? :-*
Kí tên: No 1 ;;)
 
T

tranquang

Phố người Tàu - ổ quỷ nuốt chửng người Trung Quốc

Ða số người Trung Quốc vẫn đang gắng sức "không mất gốc", gắng sức không đoàn kết, gắng sức đấu đá nhau. Bất cứ chân trời góc bể nào, chỉ cần thấy người Trung Quốc, là thấy đấu đá nhau ác liệt. Nghe đâu, ở nước Mỹ, có một cơ quan chuyên nghiên cứu những đặc trưng này của người Trung Hoa - vì sao đối với người da trắng họ thần phục đến thế, đối với đồng bào của mình lại như đao phủ ? Từ dạo Bang Hoa Thanh làm mưa làm gió, nhiều cửa hàng phố người Tàu gay go vì cơn lốc phương Ðông chuyển sang Tây này, bèn trả lương cao, mời hẳn một ông da trắng ngồi án ngay ở quầy hàng như dùng viên thuốc trừ tà ma, Bang Hoa Thanh không dám bén mảng nữa. Ðấy là phạm vi tầng lớp tri thức thấp. Còn ở tầng lớp tri thức cao, có lẽ gừng già vẫn cay hơn, biểu hiện càng nổi bật xuất chúng hơn. Cùng giảng dạy ở một trường đại học, lại cùng đến từ bản quán Trung Hoa, thói thường thì phải tương thân tương ái, như thể chân tay. Nhưng đến khi chính Bách lão lâm vào cảnh huống, mới phát hiện chuyện trên đời lại không tình không lý chút nào. Tên của trường Ðại học và tên của người đương sự ở đây không xưng ra nữa, xưng ra có thể lão bị chôn sống có ngày. Các vị "học giả chuyên gia" kiêm "chuyên gia học giả" này, khi viết văn hoặc khi diễn giảng, hô hào đoàn kết, cơn xúc động bốc lên, đến thượng đế cũng nước mắt lưng tròng. Nhưng kỳ thực, họ không đội trời chung ! Ông A mời lão tôi vào quán, quyết không mời ông B tham dự. Ông C nghe nói tôi ngả lưng ở nhà ông D thì lập tức tuyên bố không đánh bạn với loại "mắt thế lợi" (quan hệ với người có thế có lợi, ý nói ghê gớm - dịch giả) như tôi nữa. Từ cửa nhà ông E bước ra, toan tiện xe ông ta đi nhờ một quãng đến nhà F... Ông nói gì ? Ði tìm thằng cha ấy à ? Ông đi bộ cho khoẻ gân nhé !

Phố người Tàu đã trở thành ổ quỷ, nơi người Trung Quốc cắn xé, nuốt chửng người Trung Quốc, số bà già và trẻ em không được quyền cư trú đều bị tống vào xưởng may mặc ở đó, tiền lương hàng ngày chỉ đủ húp cháo. Chẳng khác bọn nô lệ da đen hồi xưa là bao, cả cuộc đời bị chôn vùi vào đó, không có chỗ để khóc than. Kể cả kiếm được chỗ để kêu khóc cũng không dám kêu khóc. Hầu như tất cả hắc điếm (tiệm, hãng lậu), là để ra oai với bà con người Hoa, nhưng với các ông da trắng thì chớp mắt cũng chẳng dám. Người Hoa trong các học đường và cả trong nha môn công sở cũng không ngoại lệ, nếu anh gặp phải ông sếp là người Trung Quốc, thì hãy cẩn thận đấy, chớ có mơ lên chức nữa nhé, đến khi giảm biên, khéo anh lại là người đầu tiên cuốn gói đấy, vì sếp của anh đang ra sức chứng tỏ với Tây đại nhân rằng : "Tôi hết sức vô tư". Sự thực thì "tư" của ông ta đựng bằng tàu vũ trụ cũng không hết. Vì muốn để lại ấn tượng tốt cho đại nhân da trắng, người Trung Quốc chém giết đồng bào của mình không tiếc tay, dùng xác của đồng bào làm bậc thang cho y thăng tiến. Tính sợ hãi mang chất thần kinh của truyền thống Trung Quốc, khiến bản thân họ khi đẻ ra đã phải chịu đựng đe nẹt, lừa gạt, đánh, chửi vô hạn độ. Chỉ nói riêng vụ án - bọn Liên bang kiêm ác ôn lừa gạt tài sản gần đây thôi, thoạt đầu mụ ta còn bám lấy tôi kể lể kêu oan, nhưng khi nghe nói tôi định viết ra vụ việc này, mụ ta bỗng hoảng hốt đến nỗi dung nhan không còn giọt máu, nước mắt nước mũi đầm đìa : "Ông hay thật đấy, ông vẫn còn ở Ðài Bắc, tất nhiên chẳng hề hấn gì đến cái cẳng chó của ông, nhưng cậu em tôi đang ở San Fransisco, ông muốn hại nó à, chỉ thích gây sự, cái ông lão chết tiệt !" Mụ ta còn quệt hết cả nước mũi lên người tôi rồi buộc tôi thề độc, nếu động đến giấy mực, lao xuống chén trà mà chết đuối.

Than ôi, trên đời này có lẽ chỉ người Trung Quốc thiên bẩm nhu nhược, chưa bao giờ dám "giành giật theo lý lẽ". Các cuộc giành giật như thế, đều bị các đấng giòi bọ vại tương tiền bối coi là phần tử quá khích, không chịu yên phận. Mọi người đều sống trong "thôi đi thôi đi, cái gì qua rồi thì cho qua đi", để rồi chờ đợi ông Ngọc Hoàng thượng đế đột nhiên mở hốc mắt, đưa lên tin tức thời sự đầu trang một : "Người ác sẽ có kẻ ác trị" - tráng sĩ khởi nghĩa chống cường bạo, bỗng đồng cân đồng lạng với "người ác". Sau rồi "người hiền" ư, chẳng qua thuộc loại bong bóng tức hơi và nhát chết, đã không có dũng khí, lại không có phẩm hạnh. Bang Hoa Thanh sở dĩ không dám động vào lão da trắng ngồi ở quầy hàng kia là vì họ thừa biết, bắt nạt người Trung Quốc như bắt nạt lũ kiến cỏ, họ nhát chết, quen nín nhịn, thấy bọn ngược ngạo im re như con ve sầu mùa đông. Nhưng một khi chạm lên ông Tây da trắng, luật sư xuất hiện thì xong thế nào được. Trước khi Bách lão sang Mỹ, bạn bè đưa tiễn chúc rằng : "Khi ông trở về, mong rằng ông đừng nói câu 'Người Trung Quốc ở đâu cũng là người Trung Quốc' đấy nhé". Mà giờ đây, dằn giữ mãi vẫn phải buột miệng thở ra câu nói này. Hỡi ôi, tính xấu gốc rễ đã tạo nên tiền đồ vô cùng khó khăn của người Trung Quốc. Trong xã hội nước Mỹ, dân đen trắng hỗn tạp như thế kia, mà người Trung Quốc thì đơn thương độc mã. Bởi không có sức mạnh tập thể, cho nên dù họ leo cao đến mức nào, nhưng rồi cũng tự nhiên bị kẹt lại, đừng nói là mãi mãi không thể đuổi kịp người Do Thái, chỉ nói đến khoảng cách với người Nhật, người Hàn Quốc thôi cũng phải quãng mười vạn năm ánh sáng. Di dân Nhật Bản ít hơn một nửa so với di dân Trung Quốc, nhưng họ bầu ra được hai nghị sĩ quốc hội. Bách lão có thể dự báo rằng (lại hành nghề bói toán mất thôi) thêm một trăm năm nữa di dân Trung Quốc cũng chẳng bầu ra được một vị nào, không tin thì ta đánh cược một đồng tiền nhé !

Tù trưởng người Anhđiêng - "Thượng úy Jack" từng nói một câu thật đau đớn : "Dân da trắng các người có đánh bại được tôi đâu, mà đánh bại tôi chính là dân tộc của chúng tôi đó". Người da trắng cũng không bài xích người Hoa, mà chính là người Trung Hoa đã khiến người Hoa lâm vào cảnh khốn khổ này.

Trích từ "Giẫm vào đuôi của hắn"


Xuân thu trách cứ hiền giả

Một hiện tượng trong văn hoá Trung Quốc khiến người ta đau lòng đứt ruột là "Xuân thu trách cứ hiền giả", đề xướng môn học thuyết này là ngài Khổng Khâu. Ngài hiểu biết sâu sắc về đời sống, đối với đạo lý làm người, đều có cống hiến không thể phai mờ, toàn bộ Luận ngữ của ngài chất đầy cách ngôn. Ngài kiến nghị nhà đương quyền sử dụng thuật "Thống ngự", còn cam đoan rằng nếu dùng thuật này thống trị bàn dân, giang sơn sẽ vững chắc như sắt thép.

Luận thuyết này ở vào thời điểm đó chẳng nhằm nhè gì, nhưng được ông Ðổng Trọng Thư ra sức hô hào tuyên truyền, và sau kết quả ứng dụng của hoàng đế Tây Hán Lưu Triệt nữa, quả nhiên có tác dụng mạnh mẽ. Nhưng trong lý luận của ngài, điều quái gở nhất là "trách cứ hiền giả". Tại sao ngài ấy lại có những quan niệm méo mó đến vậy, thật tình không hiểu nổi, hay là ngài muốn khích lệ "hiền giả" cánh thượng nhất tầng lâu (leo lên một tầng cao nữa - dịch giả).

Các vị không nhìn thấy cha mẹ đánh con sao, con thì khóc đến đứt cả hơi, mà ông bố lại ra vẻ khí phách : "Mày là con tao thì tao mới đánh chứ, con của người ta có ba quỳ chín lạy đòi tao đánh, tao còn chẳng thèm, rỗi hơi". Không chỉ có ông ta, tục ngữ chẳng cũng nói thế sao : "Ðả thị thân, mạ thị ân, bất đả bất mạ thị thù nhân" (Có thân mật mới đánh, có yêu thương mới chửi, không đánh không chửi mới là kẻ thù - dịch giả). Vị là hiền giả ư, thì ta mới thoải mái chứng tỏ tấm lòng vô tư, cùng với luận điểm ham muốn trừng phạt, nếu vị không phải hiền giả, mà là bọn lưu manh côn đồ đầu đường xó chợ kia, có thỉnh ta đến trách cứ, ta cũng chẳng hơi đâu.

Trách cứ hiền giả có sẵn ý nghĩa như thế hay không, chưa dám khẳng định, mà cứ cho là như thế đi, rốt cuộc cũng không thoát được vận đen đủi "trên đời không có một người nào là tốt cả". Khuyến khích "hiền giả" leo thêm tầng cao mới đương nhiên là thiện chí. Nhưng trên thực tế, thoải mái bầy tỏ tấm lòng cộng với luận điểm ham muốn trừng phạt bùng nổ cùng lúc, chắc chắn sinh ra chứng bệnh khó chữa "trách nhân vô tỵ thì" (Chê bai người ta không biết giờ giấc mà dừng - dịch giả). Chứng bệnh nan y này là tật bới móc không thôi, giống như chiếc răng nọc của con rắn hổ mang, cắn phải người nào là người nấy chân tay lạnh toát, chỉ còn có khiêng vào nhà vĩnh biệt mà lo làm lễ.

Nói chung, con người vốn tính mềm yếu, đều có lúc phạm sai lầm, đều có khả năng mắc phải tội tầy trời, đều có những phút giây không vững tâm, ngài Liễu Hạ Huệ cũng có lúc tơ tưởng đến những người đàn bà khác, ngài Mạnh Kha cũng có lúc không tiếc thủ đoạn để đạt mục đích cơ mà.

Ðối với bọn côn đồ, một tiếng húng hắng cũng chẳng dám (quân tử nào quen đắp vàng lên mặt mình thì ngại, không tiện nói "không dám", mà đành nói "không hơi đâu"), nhưng đối với "hiền giả" thì móc máy, tỉa tót không ngớt lời.

Con người là loài động vật có thể phạm sai lầm, cũng là loài động vật có thể làm những việc không dám phơi bầy trước mọi người, hiệu quả sự bới móc quá hăng hái, đã dồn mọi người thành hổ, báo, lang, sói.

Thế cho nên, những ông bạn rắp tâm hư đốn thì thật phúc tổ, mãi mãi chẳng có ai chê trách y cả, không những không chê trách, khi gặp phải phường "trộm cắp đức độ" còn tha thứ y, còn ngăn cản những người trách cứ y : "Vừa vừa thôi". Ngược lại, những bạn nào mà phấn đấu vươn lên, thì bị công kích tới tấp. Chiếc răng nọc độc địa trách cứ không thôi kia, chỉ có thể mang lại một hậu quả : khiến người ta cảm giác làm một người tốt vô cùng khó khăn so với làm một thằng côn đồ.

Xã hội Trung Quốc là một xã hội hốt hoảng đến muôn hình vạn trạng, có lúc hốt hoảng đến mức ngay chính mình đùn ra thứ phân gì cũng không biết nữa. Cuốn Hoài nam tử có câu chuyện, chỉ vài câu đơn giản thôi, xin chép ra đây để hầu các vị : "Một bà có con gái sắp gả chồng, nói rằng : 'Con mà ăn ở hiền lành thì dễ bị bắt nạt lắm'. Con gái thưa : 'Thế thì con sẽ không hiền lành nữa, được chứ ạ ?' Bà lại nói : 'Hiền lành còn chưa làm được gì nữa là không hiền lành'". Trong cuốn "Thế thuyết tân ngữ" cũng có mẩu chuyện, cũng chỉ vài câu đơn giản, cũng xin chép hầu các vị như sau : "Bà Triệu gả con gái, trước khi con về nhà chồng, bà dạy : 'Sống phải thận trọng, đừng tốt quá với người ta nghe con.' Con gái hỏi : 'Không sống tốt thì sống ác hở mẹ ?' Bà mẹ trách : 'Tốt còn không sống nổi, huống hồ ác ?'"

Nghe truyện rồi có cảm tưởng, thà đừng nghe đỡ rắc rối hơn. Nói đến nửa ngày giời, cuối cùng là nói cái gì ? Người nào hiểu được xin giơ tay, tôi sẵn sàng chịu thua một đồng tiền đây. Ấy thế mà bà vợ bé của ngài Tư Mã Ty - Huy Du nữ sĩ (trong sách sử xưng là "Cảnh Dương hoàng hậu", "Hoằng huấn thái hậu") lại than rằng : "Lời nói tuy đớn hèn, nhưng có thể truyền răn hậu thế." Ðã là đớn hèn, thì không thể truyền răn hậu thế. Mà đã truyền răn hậu thế, là phải danh ngôn chí lý, không thể cho là đớn hèn. Nhưng bất luận thế nào, kết quả mà bà lão bảo ban con gái, lại không hề chỉ rõ một con đường đáng theo. Tôi cho rằng trạng thái tâm lý không biết ỵ ra thứ cứt gì, hình như có liên quan đến "trách cứ hiền giả". Người già dạy dỗ con cái, tất nhiên không tiện khuyến khích chúng độc địa, tàn bạo. Nhưng cũng không thể che giấu lương tri mà cổ vũ chúng một mực phấn đấu vươn lên. Anh có hiền thế, hiền nữa cũng chẳng ăn thua, ta có thể thò tay vào chăn đắp của anh, hí hửng gào lên : "Mông đít nó có cái sẹo chúng mày ơi". Rốt cuộc không những anh không thể hiền nổi, mà còn bị lôi vào trận làm cho ươn cả người.

"Trách cứ hiền giả" và "đố kị" về bản chất giống nhau, đều đi bới xương trong quả trứng gà, nhưng về hình thức thì khác nhau hoàn toàn. "Trách cứ hiền giả" vì được khoác lên một bộ cánh đẹp đẽ, nên hiểm độc hơn, tai hại hơn. Than ôi, chúng ta dành cho "hiền giả" niềm yêu thiếu thốn quá, mà chỉ biết trách cứ, trách cứ, trách cứ, trách cứ.
***

Ngài Tôn Quan Hán từng nói một câu rất xúc động là : trong xã hội Trung Quốc, lời khen ngợi đều chờ đến khi người ta chết rồi mới nói. Tóm lại ở xã hội Trung Quốc, lời khen cho người đang sống hầu như tuyệt tích. Ôi, hoá ra trên đời này việc dễ nhất chẳng qua là việc chê bai, móc máy người khác. Chỉ cần mở mồm là như chiếc xe lao từ vách núi xuống vực, không dừng được, không phanh được nữa.

Các vị có xem qua bộ phim Kho báu của Sôlômôn chưa, hai tên hám vàng bị đám thổ dân bắt được, giải đến quảng trường, chờ biểu diễn chém đầu. Tên A này biết được khoảng một giờ đồng hồ nữa là xẩy ra hiện tượng nhật thực, bèn hù dọa lão tù trưởng bộ lạc nọ, tự khoe mình có phép lạ vô biên, có thể nuốt cả mặt trời vào bụng, nếu giết hắn rồi thì trái đất vĩnh viễn không còn thấy mặt trời nữa. Lão tù trưởng nửa tin nửa ngờ, tên A nói, hắn có thể lộ một chưởng cho thiên hạ biết tay. Tù trưởng ra lệnh tạm hoãn thi hành án, xem thử tài năng hắn ra sao, thế là hắn bắt đầu niệm thần chú. Trời ơi, niệm thần chú gì đâu ! Hắn chẳng qua xuất thân từ nghề thuỷ thủ, có thể chửi càn liên tục ba ngày ba đêm không lặp lại một chữ. Các vị thấy hắn không che mồm, nén âm dương chịu đựng một tiềng đồng hồ liền, đất trời bỗng u ám, mặt trời quả nhiên bị hắn nuốt chửng, không những cứu được mạng già, còn vét thêm được bao nhiêu của báu.

Mọi chứng bệnh đều bắt nguồn từ niềm yêu quá ít ỏi trong văn hoá Trung Hoa, đạo của ngài Khổng Khâu, chẳng qua là "Trung" và "Thứ" (tha thứ) mà thôi, chỉ thiếu mỗi "Yêu" - tất nhiên, khi công kênh nhau lên, không những trong đó có yêu, còn yêu đến chịu không nổi nữa. Song, hàm lượng lý trí trong "Trung" và "Thứ" nồng nặc hơn, còn hàm lượng yêu thì nhạt nhoà như khói mây vậy.

Trích từ "Ðập mạnh vào vại tương"

(Còn tiếp)
 
T

tranquang

Kiêu ngạo hão

Có một số người mắc phải bệnh cong đuôi, hễ nghe nhắc đến nước Mỹ, đuôi lại ngóc lên, phán: "Văn hoá Mỹ nông lắm" (người phán "không có gốc", người phán "không có chiều sâu", tóm lại đó là ngón nghề của họ, chẳng sao). Văn hoá Mỹ có nông hay không, đó là chuyện khác, cứ cho là nó nông đi, ta mới càng thấy ngượng ngùng. Chẳng khác gì hình ảnh sa sút của một dòng họ có dính líu đến bút nghiên, khoác tấm áo gai, co ro ở một ngôi chùa bỏ phế, dựa vào cơm thừa canh cặn người ta sống qua ngày, nhưng lại tru lên: "Ông nội của ta từng làm tể tướng, còn ông nội hắn chẳng qua làm nghề móc cống ngầm."

Không những không biết xấu hổ, nghĩ thử xem tại sao mình nghèo, mà lại dương dương đắc ý vì đối phương xuất thân không mấy khá giả. Ôi, đúng là chuyện lạ khắp thiên hạ, nhưng chỉ Trung Quốc là lắm, câu nói này lẽ ra người ngoài dùng để móc máy ta, và ai mà nhắc đến, là cho nó một trận tức thì. Khốn nỗi bây giờ lại tự ta nhô đầu ra, nghênh ngang không phải lối, đúng là kiêu hão quá mức, giờ quay ngoắt lại không được nữa.
Kiêu ngạo hão chỉ là tự mãn một cách u mê - tự say sưa mình, tự mê mẩn mình, trùm kín chăn nghĩ ngợi lung tung. Ngài Khổng Khâu năm đó phí rất nhiều công sức mới phát minh ra các loại "cổ", rồi nhờ "cổ" để cải cách chế độ. Bây giờ, đồng bào ta không cần dùng đến hơi sức thổi tàn tro, thì đã có sẵn Hợp chúng quốc A-me-ri-ca ngay trước mắt, nhìn thấy được, sờ thấy được, còn có thể chui vào trong được, để nghiên cứu, nghiên cứu, thể nghiệm, thể nghiệm. Tại sao cứ phải tốn hơi kiêu hão, đẩy tấm gương sống sờ sờ đó ra ngoài vạn lý ?

Ta không nói nước Mỹ tốt đẹp như hoa, giả sử nước Mỹ tốt đẹp như hoa thật, thì họ còn cần gì đến thẻ Tam tác và trại giam ? Có một điều rất đáng để chúng ta học tập, là phương thức sinh hoạt của họ. Người Mỹ có một thứ vũ khí lợi hại nhất, để bịt miệng mấy anh lưu học sinh bất kỳ quốc tịch nào (kể cả từ hầm hố lưu huỳnh chui ra), chỉ bằng một câu hỏi : "Anh cho rằng nước Mỹ cái này không hay cái kia không hay, nhưng anh thử nhận xét xem, cách sinh hoạt ở nước Mỹ như thế nào ?" Nói tóm lại, nước Mỹ là một xã hội tự do, dân chủ, có sự công bằng rộng rãi, vững mạnh.

Ðiều dở nhất của tính kiêu ngạo hão là tự mình xây bức tường chắn mình. Tự cô lập mình trong thùng nước, nước vào bụng trương phình như cái bụng phệ Bách Dương tiên sinh đây, đến nỗi chẳng nhét thêm được thứ khác nữa, cố lắm cũng chỉ nốc thêm được vài khẩu súng Tây, vài cỗ pháo Tây, vài chiếc tàu sắt Tây. Còn văn hoá cơ bản nhất, lợi hại nhất - giáo dục, nghệ thuật, nghi lễ, đạo lý làm người, và tinh thần xử thế... thôi không kể nữa, kể nữa cũng chẳng nốc vào được, liếc bằng mắt còn bị dị ứng ngoài da nữa là.

Chúng ta chẳng cần thiết phải bắt chước nước Mỹ, bắt chước Pháp, Ðức, Nhật Bản, đó là con đường tự cứu. Sau thế chiến thứ hai, Ðức và Nhật khôi phục rất nhanh, nhanh đến phát sợ. Bà con Trung Quốc bèn nghiên cứu, phát hiện sở dĩ họ chồm dậy với tốc độ nhanh như thế, là do nhiều nguyên nhân. Ví dụ như điều bốn trong kế hoạch của Mácsan này, ví dụ chiến tranh Hàn Quốc này, ví dụ nền móng công nghiệp của họ này. Nghe ra đều gây ấn tượng, hình như công cuộc phục hưng của họ toàn nhờ vào vận may mắn. Than ôi, chúng ta quên hẳn một điều rằng, sau khi thua trận, nước Ðức, nước Nhật trở thành những nước loại ba là tất nhiên, nhưng quốc dân của họ vẫn nguyên là quốc dân loại một, vẫn còn nguyên tiềm lực văn hoá rộng và sâu. Tựa như một chàng hảo hán ba đầu sáu tay, đùng một cái tuy bị đánh ngất xỉu, nhưng đến khi tỉnh dần lại, bò dậy phủi bụi hai bên mông vài cái, vẫn nguyên là một trang hảo hán. Còn anh chàng Trung Quốc mắc bệnh phổi giai đoạn cuối của ta, một khi (không thể một đời) đứng trên vũ đài thế giới, gặp phải cơn gió lạnh, lập tức hắt hơi liền ba cái, sổ ra nước mũi vĩ đại, có ai khuyên ta uống aspirin, thì lập tức quy kết họ tư tưởng quá khích, nền tảng nhà nước bị lung lay, cuối cùng đầu lộn như củ hành cắm đất, hai người khiêng cũng không nổi.
***

Nhắc đến việc học hỏi người khác, là da bì trên mặt cảm giác không yên - Ðại trượng phu vốn chân đạp đất đầu đội trời, oanh liệt lắm, để chúng nó phải kỵ, phải nể chứ. Phải thừa nhận rằng, cục diện này đã từng xuất hiện vào triều đại nhà Hán, nhà Ðường. Nhưng thời vận chỉ đến vậy, vật đổi sao dời, rồi Tây đại nhân nổi lên rầm rộ, đánh không thắng nổi, chửi không hơn được, đành để cái ngày xưa theo mây khói... Giờ đây, biện pháp duy nhất chỉ có thể là học cách của họ, mà cũng chỉ có thể bằng mỗi con đường này. Nếu cứ một mực trông cậy vào tính kiêu ngạo hão, lại như bà già ở vùng Hành lang Hà tây (phía tây sông Hoàng hà), cứ duỗi mãi đôi chân bé tẹo vừa xấu xí vừa nặng mùi lên thành giường, để khoe ngày xưa bó chân giỏi, bó chân đẹp, thì chỉ còn đi mãi một con đường khác, con đường có sức đề kháng yếu ớt nhất, con đường dẫn đến vực thẳm.

Tính kiêu hão khiến chúng ta nẩy sinh một cảm giác lầm lẫn, cho rằng Trung Quốc không thể bị diệt vong. Lý do là dân tộc Trung Hoa có sức mạnh đồng hoá, chứng cớ là ta đã từng hai lần bị mất nước rồi còn gì, một lần mất cho Mông Cổ, một lần nữa mất cho Mãn Châu, nhưng cuối cùng chẳng phải lộn một phát như chiếc diều lật ngửa, đánh cho bọn xâm lăng chạy cụp cả đuôi là gì ? - Mãn Châu còn thảm hại đến mức cái đuôi còn chẳng có chỗ mà cụp nữa. Những lý thuyết và bằng chứng đó đã tăng thêm lòng tự tin cho chúng ta, song không thể bảo đảm rằng sau này sẽ không bị mất nước. Còn một điều mà ta phải lưu tâm là một dân tộc có vĩ đại đến mấy, trước khi bị diệt vong, chưa từng bị diệt vong bao giờ. Một dân tộc trước khi bị tuyệt chủng cũng chưa bị tuyệt chủng lần nào. Nhưng rồi họ vẫn bị diệt vong, vẫn bị tuyệt chủng. Tính khí kiêu ngạo hão đã bưng bít tầm mắt, đã mê hoặc con tim, đối mặt với mối nguy cơ cả trong lẫn ngoài, lại có người liên tưởng như mối thắt bện giữa tình và ý theo quan niệm của ngài Diệp Minh Sâm, cho rằng nguy cơ vốn dĩ không phải nguy cơ, thế là nguy cơ được đổi chác, rơi nước mắt chẳng phải ai khác mà là triệu triệu dân đen và con cháu của họ sau này.

Khi tổ tiên của Hy Lạp vừa mới đặt chân đến Hy Lạp, còn để truồng, còn trơ nanh vuốt, thì ở đảo Cret đã có một nến văn minh huy hoàng, dân ở đảo không chỉ biết dùng đồ sắt, còn có những thành tựu nghệ thuật cao. Nhưng thực trạng không quá hai trăm năm, dân Cret hoàn toàn mất tích dưới sự chinh phục của kẻ đến sau - người Hy Lạp ưu tú. Ở một vùng núi của đất nước Pêru, gần đây người ta phát hiện những cung điện cuả đế quốc Inca 5000 năm về trước của châu lục Nam Mỹ, từ những công trình kiến trúc tráng lệ, có thể thấy được nền văn hoá của họ đã đạt đến trình độ cao (trong lúc đế quốc Inca đăng tin gọi thầu xây toà nhà cao cấp như thế này thì người Trung Quốc còn là dân tộc mọi, ăn lông ở lỗ), thế mà giờ đây họ đã yên nghỉ tại đẩu đâu rồi.

Bách Dương tiên sinh kể những điều này, không phải để làm nhụt chí, mà chúng ta cần nhận rõ, cạnh tranh vốn hết sức lạnh lùng. Ông trời, không lẽ vì Trung Quốc vốn có năm nghìn năm văn hoá mà cử lục đinh, lục giáp, để bảo vệ Trung Quốc như hộ tống Ðường Tăng. Nhân còn sống ở trên đời này, hãy mau chóng rèn giũa, tôi luyện, thổ hết nước thối ở trong quý bụng ra (nuốt tẹo muối tẩy để hạ tả cũng được) ăn thêm một chút đồ bổ dưỡng. Giờ này chúng ta ai điếu cho những dân tộc bị diệt vong, bị tuyệt chủng trong lịch sử, không hy vọng rằng một ngày nào đó, hậu sinh của người khác lại ai điếu chúng ta, ngàn vạn lời nói thâu tóm vào một câu này : "Ðừng để ngưới đời sau lại khóc cho người đời sau đó".

Trích từ "Ðâm mạnh vào vại tương"

Loại nhân vật khủng long

Nhảy ra khỏi cái bóng của mình, có lẽ là việc quan trọng bậc nhất của người Trung Quốc.

Triệu Ninh bạn tôi từng phát biểu ở chuyên mục của ông ta rằng đa số người Trung Quốc đều sống trong cái bóng của mình. Rõ ràng chỉ là một con mèo, bỗng thấy cái bóng to lớn thế, thì tưởng mình là một con hùm vậy. Ra là ông Triệu có đôi mắt sáng như ánh đuốc thật đấy, nhưng Bách lão vẫn phải bổ sung. Nếu chỉ tưởng mình là con hùm, là vì cái bóng còn đang giữa trưa, giá mà cái bóng vào lúc mặt trời xế tây, thì không chỉ là con hùm, mà hắn tưởng mình là khủng long chứ lị. Một cái hắt hơi thôi, quả đất phải rung chuyển cơ đấy. Loại nhân vật khủng long này, hang hốc nào cũng thấy. Trên đường cái, vào cửa hàng, lên công sở, bất cứ ngành nghề, ngóc ngách nào cũng đụng phải. Ðụng nặng thì mạng toi chín suối, va nhẹ thì đau thắt bọng đái, mót đi suốt cả ngày.

Mười hai năm trước, ở Ðài Bắc chiếu bộ phim của Holywood (Mang tên Chiếc cốc thánh thì phải, không nhớ lắm). Ðoạn phim tuyệt vời nhất là màn biểu diễn người bay của một gã giang hồ. Gã ta sẵn có một bộ thiết bị tinh vi là một đôi cánh làm bằng chất kim loại nhẹ, cứng cáp, buộc vào hai vai là có thể như con chim, liệng bay trên không trung. Ðến khi gã lên khán đài, trước lời giới thiệu long trọng của nhà vua và tiếng tung hô như sấm vang của một biển người đen ngòm ở dưới, bỗng nhiên cái đuôi của hắn nở ra, không nghĩ gì đến đôi cánh nữa. Gã lao thẳng đến chân tháp, và trèo một mạch lên đỉnh. Cô vợ xinh đẹp của gã quá sợ hãi, vừa chạy theo vừa van vỉ, cho gã biết không thể bỏ đôi cánh như thế. Gã lãng tử này không những không nghe lời khuyên can của vợ, còn nghĩ rằng nàng phản mình, làm bẽ mặt mình, không chịu nổi, liền lấy chân đạp mạnh lên bàn tay ngọc ngà của nàng đang bám lên theo, suýt nữa nàng ngã lộn xuống chân tháp. Song cô nàng vẫn không nỡ bỏ mặc, vẫn theo lên tận cùng, gã lãng tử đóng sầm nắp đỉnh tháp lại, cô vợ đành ôm mặt nức nở ở dưới. Tiếp theo là cảnh tượng anh chàng sừng sững trên chót vót, sự cuồng nhiệt của dân chúng như trời long đất lở, càng làm cho chàng lòng tin như thiêu như cháy, dang rộng hai cánh tay, vác mặt lên trời, dõng dạc tuyên bố : "Không có đôi cánh, vẫn bay..." Thế rồi, dáng vẻ thật hấp hẫn, cao vút từ trên trời rơi độp xuống đất, nát như tương.

Hậu quả nát như tương ấy lại khốn khổ sang vợ, từ nhà vua đến khán giả đều cho rằng bị gã lừa gạt, tiết mục nhẩy tự tử ấy ai mà không làm được, có gì mà xem. Họ ầm ỹ lên suýt nữa thành cuộc bạo loạn, ông vua bắt buộc ra lệnh cho cô vợ phải thay chồng tiếp tục bay. Ðương nhiên là không biết bay, nhưng đứng trước họng súng, nàng đành phải gạt nước mắt trèo lên tháp, và thân nàng cũng lại nát như tương, trả giá cho sự ngông ngạo của chồng.

Ðó vẫn là câu chuyện của ngày xưa, còn thực tế gần đây nhất là: tháng hai năm nay (1980), một máy bay Hãng hàng không Trung Hoa khi hạ cánh xuống Manila, trưởng tổ lái Ngô Z, cũng lặp lại một pha diễn ngông cuồng kiểu như vậy. Ông Văn Kiến Tư có viết trên tờ Trung ương nhật báo của Ðài Bắc rằng : "Tay nghề không cao nhưng to gan", e rằng khách quan quá. Nhìn từ góc độ chủ quan, ông Ngô đã đạt tới giai đoạn của gã giang hồ nọ rồi đó, cho rằng có cánh và không có cánh chẳng khác gì nhau, chỉ cần có lòng tin kiên định, tức là có võ công cao cường rồi. Ông ta đã sớm phát hiện độ cao không ổn trước lúc hạ cánh, nhưng tính sĩ diện đã ngăn cản ông làm lại từ đầu. Mà lại còn rú ga, thả lá cánh và giá đỡ, sử dụng phanh giảm tốc nữa, khiến tốc độ hạ cánh tăng nhanh. Khi gần tới cuối đường băng, xu thế hạ cánh không hãm được nữa, bánh xe đằng mũi và hai bánh xe chính, ba điểm đó đồng thời chạm mặt đất. Một tiếng nổ gẫy cánh, máy bay bốc cháy. Chết bỏng ba hành khách, trọng thương ba mươi chín người. Tinh kiêu ngạo hão của một mình ông Ngô dẫn đến việc hơn bốn mươi người lâm nạn. So với gã giang hồ kia (chỉ đi đời có hai vợ chồng) thì giá trị hơn nhiều.

Một tháng sau cuộc biểu diễn của ông Ngô, tay lái lão làng Hứa Vạn Chi cũng có một cuộc trình diễn. Ông ta lái ô-tô du lịch, trên xe chở đầy sinh viên khoá tốt nghiệp trường đại học sư phạm Ðài Loan năm ấy. Dọc đường, cô hướng dẫn giới thiệu ông Hứa là lái xe bậc nhất của công ty. Hứa công bụng rồng khoái chí, và để chứng tỏ mình đích thị không giống mọi người, ông buông bánh lái, giữa lúc xe lăn bánh trên sườn núi hiểm trở. Ông chắp hai tay giơ cao, vừa ra hiệu cám ơn lời tuyên dương của cô hướng dẫn, vừa ra điều khoe tay lái lụa của mình điêu luyện tới mức thần kỳ, khỏi cần vô-lăng xe vẫn bon bon trên dặm đường. Trong giây phút ông ta nắm hai bàn tay, cả đoàn người trên xe thắt tim lại, có người kêu lên. Nhưng Hứa công ta vẫn bình chân như vại, còn đằng hắng bằng mũi mấy tiếng để tỏ ý dẹp mấy đứa phát ra tiếng kêu nhút nhát kia (có dùng chân đạp mấy cậu hành khách như gã giang hồ đạp tay vợ hay không, trên báo không thấy đăng, chớ có đoán mò), nếu thế thì tổn thương đến lòng tự trọng của ông ta quá. Khi đến gần núi Lê, đâm phải rồi lại đâm trái, cuối cùng đâm cả xe xuống vực thẳm, mười bẩy cậu sinh viên tử nạn.

Nhưng nói kiểu gì đi nữa, ông Hứa Vạn Chi vẫn là tay lái loại hai. Ông ta không giống ông Ngô Z, tính kiêu hão của ông Ngô chỉ mất mạng người khác. Mà tính kiêu hão của ông Hứa lại bị vùi chôn bằng chính mạng của mình.

Mấy sự kiện oanh liện kể trên, lão Bách Dương không tham trận, chỉ có một lần, lão lại trở thành nhân vật chính. Ðó là lão tôi nhờ ông Ngô Cơ Phúc chữa bệnh mắt cho, mấy tháng đầu ngày nào cũng phải tiêm vào tĩnh mạch. Tôi thấy ngại khi mỗi ngày phải đi đi về về tám trăm cây số, tới tiêm thuốc ở Cao Sung. Tôi đành đem thuốc tiêm về Ðài Bắc, tìm một phòng khám tư ở gần Bách phủ, hàng ngày đến để cho người ta đâm chích. Cô y tá ở phòng khám trông ngon lành lắm, để một ả ngon lành như thế cầm nắn tay loạn cả lên, cũng thấy cam lòng. Nhưng công lực của cô nàng này cũng ngang hàng với ông Hứa Vạn Chi, đều là bậc cao thủ cả. Hứa tiên sinh có thể không cần vô-lăng mà lái xe, y tá tiểu thư này có thể không cần để mắt mà tiêm chích. Cô ta cứ vừa tiêm vừa chuyện trò với bạn trai rôm rả, chuyện đến đoạn hứng chí còn khanh khách, khanh khách, gập đằng trước ngả đằng sau. Tôi khẩn khoản: "Cô ơi, xin nhìn vào đây hộ tôi, không phải trò chơi đâu". Dung nhan cô ta giống như tấm rèm cửa sổ, soạt một cái kéo tụt xuống khó chịu: "Qu...an trọng ! Nhắm mắt tôi cũng tiêm được". Tự nhiên bị một cú đau điếng, tôi kêu giời kêu đất lên, cô nói : "Tôi làm nghề tiêm cũng đã chục năm nay, chưa bị sai sót bao giờ, cái ông già này, cứ như trẻ con ấy, đến là khó chiều". Về đến nhà, bầm tím một mảng cánh tay trái. Ngày hôm sau đến chỉ cho cô ta xem, cô ta nói: "Không sao, không sao, dùng khăn mặt nóng chườm một cái hết ngay đấy mà". Ðành đổi tiêm sang tay phải, về đến nhà, cánh tay phải chết tiệt kia cũng thâm tím thành tảng. Một tháng ròng rã, cô ta không ngớt cười tươi hớn hở, trong khi lão gia tôi, hai cánh tay thành hai khúc than hoa.

Chỉ do kiêu ngạo hão của một cô gái thôi, mà Bách Dương tiên sinh đây phải thay cô ta chuộc tội. May cho tôi, tiêm loại thuốc không phải độc dược như 606 đấy, nếu là 606 thì ngay lúc ấy đã lăn lên lộn xuống, bò lê bò toài dưới chân cô ấy rồi.

Nhân vật kiểu khủng long có đặc trưng lớn nhất là sống trong cái bóng xế chiều đó. Biết rõ rằng mặt trời sắp lặn rồi, cái bóng sắp mất rồi, nhưng vẫn cảm tưởng mọi thứ đều vĩnh hằng. Chỉ cần ngồi lên máy bay, lượn một lúc, thì cứ tưởng mình có thể cho máy bay lên ngay xuống ngay được. Chỉ cần bẻ lái một lúc trên ô-tô, là cứ tưởng rằng có thể hai tay xuôi ngược, lượn lách đông tây. Chỉ cần làm mấy năm y tá, là tưởng có thể nhắm mắt mà chọc đúng tĩnh mạch.

Cho nên, chỉ cần có chút tiền bạc, là những tưởng mình quảng đại thần thông, tất cả mọi người đều phải bái phục. Chỉ cần trong tay có được chút quyền hành, là gườm gườm như mắt hổ, chỉ chực để cho thiên hạ nếm trải các miếng võ của mình. Chỉ cần xuất bản hai cuốn sách, là trở thành đại văn hào, cả thế giới phải tung hô. Chỉ cần được làm chủ quản, bất cứ quản người loại một, hai, ba, hay người loại bốn, năm, sáu, là trình độ năng lực của mình sẽ được dâng cao như thủy triều, những tay kém chức vụ, đều trở thành cột sống của Trư Bát Giới - vô tích sự hết. Chỉ cần kiếm được một cái học vị, không cần biết học vị ếch nhái hay học vị chấy rận gì, là cứ tưởng có thể ra oai cả với bọn đồng tính luyến ái. Chỉ cần biết vài câu tiếng Anh, nếu trong khi chuyện trò không kẹp vào mấy chữ, là lỗ đít khéo bị bục ra khói um. Chỉ cần quen biết mấy ông Tây đại nhân thôi, thì còn nguy to nữa, bất cứ lúc nào cũng có thể đem chiêu bài ra lắc lư.
...
Trung Quốc có năm nghìn năm lịch sử và đất đai mênh mông, người Trung Quốc lẽ ra nhìn xa trông rộng, hiểu biết thâm sâu, tấm lòng nồng hậu khí khái. Tại sao lại có nhiều nhân vật loại khủng long lượn ra lượn vào, như là đến dự hội thi khủng long vậy. Hoàn toàn đối nghịch với nền văn hoá thâm sâu của chúng ta, sự thật càng nghĩ càng khó hiểu. Dương dương tự đắc, khoa trương nông cạn, suốt ngày say xỉn trong cái bóng của mình, làm cho người ta chán, người ta sợ, bản thân không hấp thụ được cái mới, thì làm sao tiến bộ, tiến xa được. Ðại đa số người đều như thế, Trung Quốc nguy rồi.

Dễ thường một trăm năm nay, người Trung Quốc chạy theo hai cực đoan. Không chán nản tự ti, thì kiêu ngạo mù quáng, không mấy khi biết được tự trọng. Ôi, nhảy ra khỏi cái bóng, chớ làm khủng long, bài trừ kiêu hão, là công việc quan trọng bậc nhất của người Trung Quốc hiện nay.

Trích từ "Con sâu dậy sớm"

(Còn tiếp)
 
T

tranquang

Sùng Tây nhưng không xiểm ngoại

Bảng phong thần là Iliát của Trung Quốc, toàn miêu tả thần tiên yêu quái thần thông biến hoá như mây như gió, câu chuyện rút cuộc vẫn là chính thắng tà, nhưng quá trình huyết chiến của hai bên thì đủ các võ nghệ, thuật phép, oai phong lẫm liệt. Các bậc trong Bảng phong thần lợi hại hơn cả vẫn là Ân Giao tiên sinh, miếng võ "phiên thiên ấn" của ông vẫn là bảo bối kỳ khu bậc nhất dười gầm trời. Chỉ cần miệng khấn ra câu ra cú, hét một tiếng "hịch" thì báu vật kia được phóng lên trời, lộn một phát giáng xuống đất, khỏi bàn đến xương thịt con người, ngay cả núi Himalaya cũng bị bổ đôi. Ðấy còn chưa đáng gọi là ngoạn mục, ngoạn mục là đem cả bảo bối này truyền cho sư phụ - Quảng Thành Tử cũng không ăn thua, một khi Ân Giao giở mặt, khấn trò bảo bối này thì lập tức sư phụ cũng bỏ chạy vãi cả linh hồn.

Bách Dương giờ này được cung sao tốt chiếu rọi, nhưng bất chợt cũng gặp phải bảo bối lợi hại này, song thời đại đã đổi khác, bây giờ người ta không gọi "phiên thiên ấn" nữa, mà thay tên đổi họ, chuyển nghề tu luyện, gọi tên "sùng tây xiểm ngoại" (sùng bái phương tây xiểm nịnh nước ngoài - dịch giả). Câu sùng tây xiểm ngoại này mà được ngài Ân Giao thời hiện đại này oang oang khấn khứa thì còn lôi đình hơn cả "phiên thiên ấn" ba nghìn năm về trước.

Lần gặp mặt ở Lốtx Angiơletx, tôi đang đầu đội cối đá, đang diễn xướng hăng say, đột nhiên có ông thính giả đưa lên một mảnh giấy có ghi: "Ông nội ơi, không ngờ ông sùng tây xiểm ngoại đến thế này, ông cho rằng nước Mỹ tất cả đều tốt đẹp, nhưng nước Mỹ hoàn toàn không tốt đẹp như ông tưởng đâu". Thời báo Hoa Nam ở Lốtx Angiơletx đăng một bài văn của ông Ðạc Dân, trong có đoạn viết: "Quan niệm sùng tây xiểm ngoại, phải được phê phán kịch liệt. Ông Bách Dương cũng giống như một số ông già Trung Quốc mới chân ướt chân ráo đến nước Mỹ, bị mất phương hướng trong cái tốt đẹp bề mặt của xã hội Mỹ, đầu tiên thì tự thấy mình dơ dáy xấu hổ, sau đó tự mạt sát mình. Giả dụ họ được ở lại dăm ba năm, tin rằng cảm quan sẽ không như thế này".

Trùm bảo bối "Sùng tây xiểm ngoại" này, sau "Chiến tranh Nha phiến" khoảng thập kỷ bốn mươi, mới luyện thành chính quả chuyên để hại người. Nội dung vật báu này có thể lấy tiếng gầm rú của ông bạn già này làm tiêu biểu : "Cái lũ sùng tây xiểm ngoại chúng mày (thế là còn khách khí đấy, có lúc còn gọi thẳng là Hán gian, Bồi tây, Quân bán nước), nói xa nói gần chung quy chỉ một câu, bất cứ cái gì của Mỹ cũng tốt chứ gì ? Nếu nói khoa học công nghệ của Mỹ tốt, còn nghe được, nói cả văn hoá nước Mỹ cũng tốt hơn ta thì tôi không phục tí nào, chẳng lẽ ngay cả việc ứng xử làm người cũng phải học Mỹ chăng ?" - Gầm gào không chỉ mỗi ông bạn già này, mà rất nhiều ông già, thực tế còn rất nhiều ông trẻ nữa, cũng gầm lên như vậy, làm cho lão Bách tăng vọt huyết áp.

Ở đây, có người nghiễm nhiên dùng nước bọt dính kết vào hai vấn đề khác hẳn nhau, hai hành vi không hề có mối liên hệ nhân quả, và cũng không thông qua bộ óc nữa, đúng là nhân viên kỹ thuật bậc cao ! "Sùng tây" và "xiểm ngoại" xa nhau những mười vạn tám ngàn dặm, tựa như gió, ngựa, bò không thể gán ghép, mà đã gán ghép, dính kết cứng nhắc như vậy, lại động tí là bới nó ra để đấu tố, thì tai hoạ ắt chẳng còn xa xôi nữa. Nhưng chịu tổn hại không phải lớp người "sùng tây xiểm ngoại" bị mắng mỏ kia, mà là nhân dân của chúng ta, vì sợ mang tội "xiểm nịnh nước ngoài" nên không dám "sùng bái phương Tây" nữa.

Ý của Bách lão không có nghĩa là loại người sùng tây xiểm ngoại tuyệt nhiên không có, loài động vật này nhiều đến mức cần bao nhiêu sọt là có bấy nhiêu sọt. Chỉ muốn nói rằng, còn rất nhiều người khác nữa, họ đúng là sùng tây, nhưng không siểm ngoại chút nào. Tại hội trường Lốtx Angiơletx, lúc tôi hăng máu quá, quên mất tư cách khách mời của mình, quệt vào mặt một cái lộ hết cả chân tướng, tra khảo luôn các vị thân sĩ thục nữ ngay trong hội trường : tại sao các vị không đến gặp lão già này bằng xe một bánh mà lại bằng xe ô-tô ? Lái ô tô tức là sùng Tây rồi. Tại sao không bện tóc đuôi sam, không búi tó lên đỉnh đầu mà lại gạt tóc thành bên phải bên trái như kiểu này ? Rẽ tóc kiểu bên trái bên phải tức là sùng Tây rồi. Tại sao chư vị nữ sĩ không bó gót sen ba tấc, khi đi cứ vẹo bên này vẹo bên nọ, mà bàn chân ngọc ngà lại đi giầy cao gót ? Ði giầy cao gót tức là sùng Tây rồi. Tại sao đàn ông không mặc áo dài khoác yếm ngựa, hoặc cổ hơn nữa, mặc kiểu áo rộng, tay thùng thình như trong vở kinh kịch ấy, mà lại vận com-lê ? Vận com-lê tức là sùng Tây rồi. Tại sao không hút ống điếu nước, ống điếu khô, mà lại hút thuốc cuộn giấy, xì gà ? Hút thuốc cuộn giấy, xì gà tức là sùng Tây rồi. Tại sao nấu cơm không đun bằng than, củi, rơm rạ, bò xuống thổi lửa, mà dùng lò điện bếp ga ? Dùng lò điện bếp ga tức là sùng Tây rồi. Tại sao không nằm bục đất, mà nằm giường gỗ, giường lò xo? Giường gỗ, giường lò xo tức là sùng Tây rồi. Tại sao gặp thủ trưởng không gục đầu xuống đất cốc một cái để cúi lạy, mà chỉ bắt tay nói "chào" ? Bắt tay nói "chào" tức là sùng Tây rồi. Tại sao không đốt dầu lạc, dầu đỗ cho sáng, khêu bấc để đọc sách đêm, mà dùng đèn điện ? Dùng đèn điện là sùng Tây rồi. Tại sao gửi thư không nhờ bạn bè tiện đường đưa giúp, mà lại dán con tem rồi quẳng vào thùng kín ? Dán tem quẳng thùng thư tức là sùng Tây rồi. Tại sao không xem múa rối bóng (hình bóng của các con rối trổ bằng da thuộc - dịch giả) mà lại xem phim điện ảnh ? Xem điện ảnh tức là sùng Tây rồi. Tại sao không kéo dài cổ họng để gào thật xa, mà lại bấm điện thoại ? Bấm điện thoại tức là sùng Tây rồi. Nhưng, tôi không tin các vị nữ sĩ thân sĩ xiểm ngoại !

Về nước rồi, trong lòng nặng chịch như quả cân treo, thấy cần phải làm cho ra môn ra khoai, mới khỏi dằn vặt lương tâm, mới không sợ ma đến đập cửa.

Cuộc đại lễ duyệt binh mừng quốc khánh vừa qua, các vị độc giả chắc trí nhớ còn tươi rói, nào là súng Tây pháo Tây, trống Tây kèn Tây, gậy chỉ huy Tây, đội quân nhạc Tây, có thứ gì không phải sản phẩm của Tây ? Nhưng có cái nào xiểm ngoại đâu ? Từ kiểu tách hàng lối dưới mặt đất, đến cách chia đường bay ở trên trời, đúng là sản phẩm của Tây rồi, thế thì dính gì đến họ hàng "xiểm ngoại" cơ chứ ? Thử làm cuộc thâm nhập thực tế trong nhà xem nào, không khéo biến ngay thành "kinh cung chi điểu" (hễ nhìn thấy mũi tên là con chim sợ hãi - dịch giả) : viết thư cũng vậy, viết văn cũng vậy, viết thư kín để tố giác ông Bách Dương chia rẽ tình cảm giữa "nhân dân" và "chính trị" cũng vậy, đều sử dụng bút bi, bút máy, mà không chịu dùng bút lông. Bút bi, bút máy (cộng thêm cả đánh máy, photo nữa) cố gắng sùng Tây như thế đấy, thì liên quan gì đến xiểm ngoại ? Phòng khách này, phòng ngủ này, phòng làm việc này, công sở này, toàn ngồi ghế sô-fa vừa mềm vừa êm mà không chịu ngồi ghế đẩu ghế băng cứng queo kia nữa. Ngồi ghế sô-fa vừa mềm vừa êm cố nhiên là sùng Tây rồi, nhưng lại dính gì đến xiểm ngoại cơ chứ ?

Mới tuần trước, tôi đến chơi nhà người bạn, ông ta quát tháo "sùng Tây xiểm ngoại" ngay trước mặt, đến nỗi tôi phát khùng như rượu say, lấy luôn chiếc búa đòi ghè tan cái hố xí giật nước của lão. Vợ lão lạy van mãi tôi cũng kệ thây, thề quyết không đội trời chung với cái hố xí giật nước sùng tây xiểm ngoại này. Ðập xong hố xí tôi đòi đập tiếp ti- vi, ra-đi-ô, tủ lạnh, bếp ga, đập điện thoại, bóng đèn... Cuối cùng là do cô con gái nhà lão, sinh viên tốt nghiệp đại học, bị nhiễm nặng chất độc "sùng Tây", không biết kính lão trọng hiền, không biết nhún nhường lễ phép, mà dám tố cáo gọi cảnh sát, quẳng tôi ra khỏi cửa, mới tạm gọi là kết thúc vở kịch náo loạn. Bằng không, cứ búa này giáng xuống, mà họ lại ở tầng mười hai mới khổ chứ, khéo cả nhà nhà ấy không còn chỗ để đặt mông. Nghĩ đi nghĩ lại đến nửa ngày cũng nghĩ không ra : cô gái này có chỗ nào xiểm... ngoại ?

Than ôi, thật không dám tưởng tượng, nếu một khi ông thượng đế ra oai, đem hết đồ đạc do "sùng Tây" mà có được của dân Trung Quốc rút về thiên cung, thì không hiểu Trung Quốc còn lại thứ gì đây ? Lỗ mũi của ông bạn Phiên thiên ấn lại bốc khói : "Không nhẽ cả cách làm người, cách xử thế, chúng ta cũng phải học Tây hay sao ?" Chao ôi ! Z đúng là một lọ tương, còn phải hỏi nữa, về cách làm người xử thế, tất nhiên chúng ta phải bái phục phương Tây rồi, còn phải học tập ưu điểm của phương Tây nữa, nhưng cái điều đó lại dây dưa gì đến xiểm nịnh nước ngoài ?

Về chế độ chính trị của Trung Quốc, sùng Tây sùng đến quá mức đấy thôi, trước tiên là xoá sạch truyền thống thế tập đế vương năm nghìn năm qua, học bằng được cách bỏ phiếu bầu cử của Tây đại nhân. Tiếp đến là đá phăng cả nền chuyên chế phong kiến, học bằng được chính trị dân chủ của Tây đại nhân. Trong lĩnh vực kinh tế, vứt bỏ quan niệm coi trọng nông nghiệp, xem nhẹ thương nghiệp, học bằng được cách đặt công thương lên hàng đầu của Tây đại nhân. Còn vứt bỏ cả nhân sinh quan - bằng con đường duy nhất là làm quan suốt năm nghìn năm nay, để học bằng được một cơ chế đa phương đa tầng của Tây đại nhân. Trong lĩnh vực văn hoá, toàn bộ công cụ truyền thông đại chúng, bao gồm báo chí, phát thanh, truyền hình; toàn bộ sáng tác nghệ thuật, bao gồm tiểu thuyết, thơ ca, kịch nói, hội hoạ, âm nhạc, có mặt nào mà không sùng Tây sùng đến chóng cả mặt ? Nhưng, cả nước trên trên dưới dưới đâu có chịu một sống hai chết để nịnh bợ nước ngoài?

"Sùng tây xiểm ngoại", cái Phiên thiên ấn đầy cảm tính này, là sự lệch lạc của ngữ nghĩa học, chịu không nổi sự suy ngẫm, chịu không nổi sự phân tích.

Ông Ðạc Dân nói : "Nếu ở nước Mỹ khoảng dăm ba năm, tin rằng suy nghĩ sẽ khác đi". Cũng có thể, nhưng cũng chưa chắc.

Chúng ta mong muốn vũ khí TQ ngày càng tinh vi, cần phải học tập phương Tây. Chúng ta mong muốn ngành quản lý công thương của TQ ngày càng hiệu quả, cần phải học tập phương Tây. Chúng ta mong muốn người TQ thành một khối chan hoà, cần học phương Tây nói câu "xin lỗi", "cám ơn". Chúng ta mong muốn người TQ xếp hàng, cần học đứng thành một lối như người phương Tây. Chúng ta mong muốn người TQ tôn trọng vạch chỉ sang đường, cần học tập cách tuân thủ quy tắc giao thông của phương Tây. Chúng ta mong muốn người TQ đi khỏi cánh cửa lò xo phải buông tay từ từ, để người đi sau không bị chấn thương sọ não, cần phải học tập cách đứng lại đỡ cửa của người phương Tây. Chúng ta mong muốn người TQ có tình cảm hào hiệp, cần học tập người phương Tây sẵn lòng trợ giúp, nét mặt tươi cười. Chúng ta mong muốn người TQ thân thể khoẻ như trâu, cần học tập người phương Tây phí thời gian vào thể thao, vào vận động, đừng bỏ thời gian vào việc đấu đá, xâu xé nhau - Hàng loạt những thứ này, tại sao lại lôi tuột ngay sang xiểm ngoại?

Gặp một ông Tây lịch sự lễ phép, chẳng nhẽ chúng ta không ngượng nghịu hay sao ? Ngược lại còn phản ứng "không mất gốc" đến cùng, trợn trừng mắt mũi, cau có mặt mày đến cùng. Sách cổ có câu "tri sỉ cận hô dũng" (biết liêm sỉ tức là gần với dũng cảm - dịch giả), chết cũng không nhận lỗi, chỉ cần nổi xung, đấm ngực, lăn ra đường, là có thể vẹn toàn công đức. Mà để biết thế nào là sỉ nhục, không những cần dũng cảm, còn cần cả trí tuệ nữa.

Ông Ðạc Dân sau khi "tự thấy xấu hổ", tiếp ngay đến "tự mạt sát mình", hai câu nói này cũng không có can hệ nhân quả tất yếu. Tự thấy xấu hổ đương nhiên có thể dẫn đến tự mạt sát mình, cũng có thể dẫn đến hốt nhiên tỉnh ngộ, quyết chí vươn lên. Nhật bản Minh Trị duy tân, là bắt đầu từ chỗ như thế đấy. Sự bó buộc của tính nổi xung là chiến thuật "phong hoả luân", một trong những đặc điểm người TQ.

Một vị giáo sư ở nước Mỹ viết cuốn Nhật Bản số một, không hề có một người Mỹ nào chửi rủa ông ta sùng tây xiểm ngoại. Còn Bách lão này chẳng qua viết được mấy trang, chỉ đề cập ấn tượng lông lá ở ngoài biểu bì, mà Phiên thiên ấn đã bay tứ tung. Trời ôi, ông có bóp cổ tôi nữa, tôi vẫn cứ la : "Sùng Tây tuyệt đối, nhưng không xiểm ngoại". Còn kính mong các ông độc giả ngẫm nghĩ.

Trích từ "Giẫm phải cái đuôi của hắn"

(Còn tiếp)
 
T

tranquang

Kỳ thị chủng tộc

Trên thế giới, chuyện thâm thù, kỳ thị chủng tộc giữa người da đen, da trắng, nay đã được khắc phục một cách tỉnh táo bằng tấm lòng rộng mở và ý nghĩa nhân quyền. Nhưng giờ này đây, người Trung Quốc vốn thông minh tuyệt đỉnh là vậy mà vẫn ngâm mình trong vại tương quan niệm địa vực hết sức cảm tính, chuyện chẳng đáng gì lại tính toán so đo, nghĩ mà thương cho số phận mong manh của mình.

Về căn bản, người Trung Quốc không đủ tư cách để phê phán, công kích sự kỳ thị chủng tộc của nước Mỹ. Hiện nay - thập niên tám mươi của thế kỷ hai mươi, nước Mỹ là một trong những quốc gia có tình trạng kỳ thị chủng tộc nhẹ nhất thế giới. Thử vòng quanh vũ trụ mà xem, nước lớn nước bé, nước mạnh nước yếu, hai chục cái bàn tay cũng đếm không xuể, e rằng chỉ còn mỗi nước Mỹ là vẫn còn tiếp nhận người Trung Quốc. Nếu không có nước Mỹ, thử hỏi những đồng bào mong di cư, muốn ra nước ngoài đến phát rồ phát dại ở đất mẹ Trung Quốc kia, còn chỗ nào để nương thân ?

Ðây không muốn nói là người da trắng ở nước Mỹ thật sự trong ngoài như một, không có kỳ thị chủng tộc; cũng không hẳn muốn nói là họ không kỳ thị dân tộc TQ. Mà muốn nói rằng nếu so sánh kỳ thị chủng tộc của người Mỹ thì không những kỳ thị khu vực của người TQ ở mức thấp kém hơn - trong bất cứ quốc gia nào có nền văn minh phát triển, quan niệm khu vực ngày một bị triệt tiêu, thay thế bằng lợi ích của các chính đảng ! Các vị có từng nghe nói người Virginia bài xích người Arizona (hai tiểu bang ở Mỹ - dịch giả) ? Và từng nghe nói người đảo Honshu bài xích người đảo Shikoku (Hai hòn đảo ở Nhật - dịch giả) ? Hơn nữa, kỳ thị chủng tộc của người TQ, so với kỳ thị chủng tộc của người Mỹ còn khủng khiếp hơn, bởi vì bản chất đã bị biến đổi. "Viêm Hoàng tử tôn" (con cháu dòng dõi Viêm đế, Hoàng đế - dịch giả) cộng với "Ðại Hán thiên uy" (tiếng tăm oai liệt của Ðại Hán - dịch giả), "Phi ngã tộc loại" (không phải giống nòi của chúng ta - dịch giả) cộng với "Kỳ tâm tất dị" (lòng dạ chắc là khác - dịch giả), thế là, chẳng còn đường sống cho thiên hạ nữa.

Mấy người bạn TQ cư trú ở nước Mỹ, rõ ràng đang ngang tầm địa vị với dân da đen, nhưng thâm tâm lại khó chấp nhận người da đen. Mỗi khi nhắc đến các bạn da đen, là cái đầu cứ nguây nguẩy như mắc bệnh sài lắc từ bao giờ, thái độ "ta không hơi đâu" kiểu như thế, không khéo làm người ta bị co giật mà chết. Không thể nào tưởng tượng, nếu trong số người TQ có mười một phần trăm là người da đen hoặc người da đỏ, thì anh em da vàng của chúng ta không biết sốt đến bao nhiêu độ ? Người ở khác tỉnh còn khó mà dung nạp, nữa là khác giống nòi.

Kỳ thị chủng tộc là căn bệnh hắc lào dai dẳng, không cần phải kinh ngạc đến thế, cái đáng kinh ngạc là cách xử lý bệnh hắc lào ngoan cố này của người Mỹ kia. Khác hẳn nước Mỹ, cách xử lý của TQ là "Huý tật kỵ y" (giấu bệnh không chạy chữa - dịch giả), kèm theo "Gia tu bất xuất ngoại truyền" (chuyện dơ dáy xấu xa trong nhà không lộ ra ngoài - dịch giả). Nhưng thật ra đó chỉ là nguyên lý, chưa phải phương pháp. Phương pháp đích thực là vừa đi ngoài ra máu vừa dùng hai tay bịt lỗ hậu môn nói tướng : "Ta có mắc bệnh trĩ đâu". Ai mà nói ta mắc bệnh trĩ thì người đó chắc là "có ý đồ", và kèm theo "ý đồ gì đây". Còn "ý đồ thứ hai" là phép bảo bối truyền thống, chỉ cần lầm rầm vài câu, khấn ra phép bảo bối này, thì đối thủ khó lòng thoát nạn, mụn trĩ tự nhiên nó khỏi - Chết, lại sẩy miệng rồi, không phải mụn trĩ tự nhiên nó khỏi, mà là bản thân mình từ có bệnh trĩ bỗng thành hết bệnh trĩ. Sự nỗ lực của những con bọ tương, bọn người méo mó, chỉ là bưng bít lỗ trôn, không phải chữa trị bệnh trĩ.

Nước Mỹ là một xã hội lành mạnh, còn là một xã hội rất cường tráng nữa, cường tráng đến mức có thể tự điều chỉnh bản thân mình. Nên phản ứng của họ không phải bưng bít hậu môn, mà lại rêu rao khắp nơi : nguy to rồi, mụn trĩ sưng tấy lên rồi, một ngày mất đến tám ngàn gallon máu đấy, phải nghe ngóng giá cả cỗ quan tài xem nào... Thiên hạ ai cũng biết chuyện, ai cũng giật nẩy mình, thót tim gan, rồi uống thuốc, tiêm, mổ, rồi thay ghế đẩu cứng bằng ghế sôfa mềm, thay lưng gù bằng sống lưng ngay thẳng.

Sử dụng văn học và công cụ truyền thông để phanh phui kỳ thị chủng tộc, làm rùm beng cho thiên hạ đều biết, khiến mọi người rùng mình thót tim. Một xã hội lành mạnh khoẻ khoắn, chỉ có thể xây dựng trên nền tảng tâm lý lành mạnh khoẻ khoắn của dân chúng, họ có trí tuệ để tôn trọng sự thực, đủ can đảm để thừa nhận sai lầm, đầy năng lực để sửa đổi chữa trị. Kỳ thị chủng tộc là một mớ thực tế, cũng là một mớ sai lầm. Người Mỹ đã dựa dẫm trí tuệ và lòng dũng cảm, tìm kiếm con đường giải quyết ổn thoả, áp dụng các bước đi tỉnh táo, khiến tình trạng kỳ thị chủng tộc thu nhỏ dần, cho đến triệt tận gốc.

Trích từ "Giẫm phải đuôi của hắn"

(Còn tiếp)
 
T

tranquang

Nói về người Trung Quốc xấu xa (thư cuả Trần Văn Hoà)

Kính gửi : Ông Bách Dương
Sau khi đọc bài "Người Trung Quốc xấu xa" của ông đăng trên tờ Tự lập văn báo, có những điều tôi không thể giữ trong mình mà buộc phải thổ lộ cùng ông. Thiết nghĩ, có thể dùng làm một phần tham khảo cho ông.

Ông mong rằng người Trung Quốc phải biết thẩm định, phải có năng lực thẩm định, thì tôi chẳng kịp tán thành nữa. Trước khi có nhà thẩm định để mà thẩm định, tôi có cảm giác người Trung Quốc thật bủn xỉn khi cho ra lời khen ngợi. Ngoại trừ khen ngợi mình, còn người ta là cứt chó cả ! Văn nhân tương khinh (nhà văn coi thường nhau - dịch giả), đồng hàng tương kị (trong ngành nghi kị nhau - dịch giả), đồng tính tương xích (trong giới bài xích nhau - dịch giả)... đã trở thành những chữ nghĩa Trung Quốc vĩ đại, không sao kể hết. Nếu người nào cũng chịu khen ngợi, mà lại công khai khen ngợi, thì đương nhiên có sự thưởng thức, có sự thẩm định. Ngạn ngữ phương tây nói : "Không nhìn thấy cái thiện của kẻ thù, mới là kẻ thù lớn nhất." Người Trung Quốc là người không nhìn thấy người ta tốt bao giờ. Người ta tốt, y lờ đi. Người ta tốt thật, y lại tìm cách chơi xỏ.

Tại sao người Trung Quốc không hay khen ngợi, không hay ngắm nghía, thưởng thức ? Tôi cho rằng liên quan đến điều : nói không thật lòng của họ. Hơn nữa, người Trung Quốc không dám tức giận công khai, cho nên mới không dám công khai để ngợi khen. Không dám yêu, cũng chẳng dám giận.

Không dám và không thể công khai ca ngợi, xuất phát từ "lòng cảm kích" vốn túng thiếu của họ. Người Trung Quốc thành đạt rồi, họ cho rằng đó là kết quả phấn đấu nỗ lực của bản thân, không liên quan đến nhân dân và xã hội gì cả. Họ cho rằng tự mình giỏi giang, chẳng bao giờ mang lòng biết ơn và nghĩ đến cơ hội do chính xã hội, đại chúng đưa đến sự thành công ấy. Do vậy họ cũng chẳng quan niệm đến trách nhiệm đối với xã hội phải ra sao.

Mặt khác, người Trung Quốc thành đạt, vinh hiển chỉ thuộc về gia đình ấy, gia tộc ấy, dòng họ ấy. Người bên cạnh chẳng được chia sẻ phần vẻ vang này. Nó thành đạt là việc của nó, mai sau ta thành công là việc của ta, không can gì đến kẻ kế bên, không can gì đến người khác.

Không có đại chúng, thì không có nhu cầu của thể chế, không có thể chế, làm sao có thể cộng tác, hiệp đồng ?

Không chịu ngợi khen, chẳng dám tức giận, hay giả tạo, thích nói dối, rất có thể dính dáng đến việc ra sức nhấn mạnh "nội tỉnh" (tỉnh nhà - dịch giả) của văn hoá Trung Quốc. Người Trung Quốc bị nền văn hoá Trung Hoa hun đúc, thấm đẫm tính cách "nhợt nhạt", tính cách đó khiến họ không dám yêu, không dám ghét, không biết cảm kích, không chịu hy sinh (vì hy sinh đến rốt cuộc phát hiện mình vẫn cứ hy sinh, mà hy sinh lại tạo nên sự thành công của người khác, sự thành công của người khác lại không thể biến thành sự thành công của mọi người, thành công không thể trở thành kết quả vượt khó, cho nên tất cả chẳng ai chịu hy sinh. Nhưng điều tệ hại là bản thân không chịu hy sinh, lại bắt người khác phải hy sinh, tôi gọi đấy là "mối tình liệt sĩ"). Nỗi khốn khổ đang tuần hoàn theo lối ác tính của người Trung Quốc là như vậy đó.

Ông chỉ ra ngần ấy thói hư tật xấu của người Trung Quốc, tôi hiểu nỗi hận "sắt không luyện thành thép" của ông. Ðiều mà tôi kỳ vọng, ngoài địa vị, thanh danh nơi hải ngoại và sự hiểu biết sâu sắc văn hoá Trung Quốc, cộng với cách soi xét tính con người một cách tỷ mẩn tinh tế của ông, ông còn phải làm sao tìm ra được cách thức và con đường cho người Trung Quốc khốn khổ, động viên thế nào để họ chịu khen ngợi, thưởng thức và thẩm định. Dân chúng quảng đại cần có người hướng dẫn, bảo ban, chỉ rõ con đường bằng phương pháp tuy thâm sâu nhưng phải dễ hiểu, có phương pháp mới có thực tiễn.

Ðương nhiên, đó hẳn là một công trình trùng tu của thế kỷ. Ông có thể hô hào bạn hữu, dốc lòng vì người Trung Quốc khốn khổ mà nghĩ ngợi, mà đề xuất những cách thức thực tế, hiệu quả, có thể mang tính giai đoạn, từng thời điểm, phân chia theo các cấp các ngành : giáo dục, văn hoá... chẳng hạn.

Ông đã đập vỡ vại tương thì ông phải hướng dẫn chúng tôi (ông xem, tôi lại mắc bệnh " mối tình liệt sĩ " rồi đấy), đành rằng, tôi cũng cố tìm cách để ảnh hưởng, truyền bá những phương pháp, ý niệm đẹp đẽ của người Trung Quốc hết khả năng của mình.

Thư viết lộn xộn, vụn vặt như vậy, tiêu hao không ít tinh thần của ông. Tóm lại, thứ cần nói tôi cũng nói hết ra rồi, tôi hy vọng có thể làm người bạn nhỏ của ông.


Kính gửi: Ông Trần Văn Hòa
Sự phân tích của ông làm tôi khâm phục, muốn nghe được một câu khen ngợi người khác từ miệng của người Trung Quốc thật tình còn khó hơn cả leo lên trời. Ðương nhiên cũng có thấy nhiều trường hợp ca ngợi người khác, nhưng mang ý nghĩa chính trị - nếu không là lời ngoa ngôn dối lòng, hoặc lời khó theo ý muốn, thì là không biết mình nói gì - chúi mũi vào ca ngợi cái sừng của con ngựa sao mà khả ái nhường kia ! Ðại đa số người Trung Quốc đều sống trong tình trạng tự ti đến buồn nôn như thế, không còn năng lực để đào bới ưu điểm của người khác, cũng chẳng còn khả năng để ngắm nghía người ta khác mình ở chỗ nào. Giả dụ trót khen ngợi ai đó, thì ngay lập tức nhận được hàng loạt phản ứng đại để như sau :
1. Ðối phương có chút địa vị - "Sao, mày nịnh bợ nó à ?".

2. Ðối phương không bằng mình - "Sao, mày mua chuộc nó à ?".

3. Ðối phương là họ hàng, là bạn bè mình - "Quan hệ chúng mày, đương nhiên là mày bênh nó rồi".

4. Ðối phương xa lạ, chẳng dính líu với mình - " Ngay cả nó làm gì mày cũng chẳng biết nữa là ! Giá mày hiểu được ngọn ngành về nó, thì chẳng loa cái miệng thế này đâu".
Tóm lại, thế nào cũng không ổn. Muốn ổn chỉ có lăng mạ nhau, người Trung Quốc mà ngồi tụ bạ, đến câu thứ ba mà không tỉa tót thị phi người khác thì trăm phần trăm không phải cháu con Hoàng đế, dòng dõi con rồng ! Cái gọi là "đại Hán thiên thanh", thiên thanh (tiếng trời - dịch giả)) là thứ gì ? Là thứ tiếng người túm năm tụm ba, say sưa công kích đời tư của người khác đến không còn mảnh giáp kia. Thực ra kiểu công kích như thế không hẳn nẩy sinh từ ác ý, mà là phản ứng tự nhiên của nọc bệnh được chắt lọc lại lên cơn tái phát. Anh không thấy các ngài chó sao ? Các ngài chó mỗi khi gặp mặt, ngài này ngửi ngửi đít ngài nọ, ngài nọ hít hít trôn ngài kia, mùi vị hợp nhau rồi thì vô cùng hân hoan hứng khởi. Người Trung Quốc tụ tập, chủ yếu là để chê trách người khác. Một khi đối phương vỗ tay hoạ theo, thì tựa như ngửi đúng mùi hậu môn của nhau, rồi mới được chấp nhận cùng thuyền.

Ông Lỗ Tấn khuyến khích chúng ta dám yêu dám ghét, "yêu" và "ghét" đều là thứ năng lực. Sợ sệt đậm chất thần kinh đã khiến năng lực yêu ghét của người Trung Quốc gần như bị hủy hoại toàn bộ. Yêu thì sợ người chê cười, ghét lại lo người trả thù. Cho nên ghét và yêu đã nung chảy thành một lực lượng tà ác. Mười năm nhiễu loạn - Cách mạng Văn hoá của Ðại lục, là tổng bộc phá của sức mạnh ác tà đã bị tích tụ lâu ngày; tính dã man, hung bạo, xảo trá, đố kị, tàn nhẫn đến tận xương tuỷ bị dồn nén bấy lâu nay, lặn sâu trong lòng người Trung Quốc, nay bộc lộ hết thảy, khiến phẩm cách người Trung Quốc xuống cấp ghê gớm. Ðừng bàn đến nâng cao, chỉ mong khôi phục được bằng mức ba mươi năm về trước thôi, e cũng phải mất chừng năm mươi năm - thời gian để xây dựng lại, thường phải tốn gấp năm lần so với phá hoại.

Chúng ta không thể trút hết gánh nặng cứu vớt dân tộc xuống đôi vai của các nhà chức trách, mà mỗi người dân Trung Quốc đều phải chia sẻ. Quốc dân loại ba tuyệt nhiên không thể sản sinh ra chính phủ loại một, nhưng chính phủ loại ba lại có sẵn những quốc dân loại một kia. Chúng ta - cả ông bạn nhỏ và già lão này nữa, hãy bắt đầu từ một chấm một phẩy trong con người chúng ta (chúng ta không thể bỗng một lúc thay da đổi thịt, nhưng có khả năng thay đổi tế bào nào, thì thay đổi ngay tế bào đó) ông thấy khả dĩ chứ ?

Trích từ "Thông giám quảng trường"

(Còn tiếpp)
 
T

tranquang

Bách Dương* trong hình dung của tôi (Lý Trình)
1. Cách đây không lâu, trong một cuộc họp mặt giới văn nghệ ở Niu-Oóc, tôi ngẫu nhiên được gặp người mà tôi kính trọng đã lâu, là ngài Bách Dương và phu nhân Trương Hương Hoa nữ sĩ.

Trong trí tưởng tượng cuả tôi, Bách Dương xanh xao gầy yếu, tóc tai bạc trắng, vẻ mặt khinh bạc, ngồi xổm trong xó nhà giam như cái lò nướng ấy, miệt mài cày bút trên những mảnh giấy vụn nát nhầu...

Nhưng, đứng trước mặt tôi lại là một Bách Dương phong độ hào hoa, tinh thần kiên định, khỏe khoắn và cứng cỏi, trông ra chỉ độ ngoài năm mươi tuổi.

Ông là một người hay chuyện. Khi cất lời, tiếng quốc ngữ sặc giọng Hồ Nam, và thái độ thành khẩn của ông có sức hút rất tự nhiên, điều đó vô tình làm thu nhỏ khoảng cách giữa ông và những người xa lạ. Nếu bà Trương Hương Hoa không cho biết là ông đã nhuộm tóc sau ngày ra tù vào năm 1977, thì chúng tôi đâu hay bây giờ ông đã là ông già sáu mươi lăm ...

Ðầu tiên, ông bị kết án tử hình, sau đó sửa lại thành án tù có hạn. Chín năm lẻ hai mươi sáu ngày giam trong nhà tù Ðảo Xanh, ông bị gẫy mất một chân, nhưng khi ra tù sống lưng của ông lại ngay thẳng hơn, trong tay còn bưng một chồng bản thảo của ba cuốn sách (Trung Quốc nhân sử cương, Trung Quốc lịch đại Ðế vương Hoàng hậu Thân vương Công chúa thế hệ toàn tập, Trung Quốc lịch sử niên biểu). Vừa ra khỏi tù, ông trở lại ngay công việc viết chuyên mục.

Ông là một nhân vật luôn đặt mình trên đường phân giới giữa thị phi, những bài viết của ông bút pháp buông thả, tự do thoải mái, bề ngoài cười cợt mỉa mai, thóa mạ dữ dằn, nhưng trong lòng đau đáu thế sự, yêu nước thương nòi, mượn lời của Bách phu nhân mà nói : "Tính cách của ông vừa phức tạp lại vừa thống nhất." Ðường đời khúc khuỷu mà ông đã vượt qua khiến ông thấu hiểu muôn dạng chúng sinh, nhưng lại giữ được bản sắc ngây thơ, hào phóng. Trong một bài viết, ông đã tự nhận là nhân vật hảo hán chốn Lương Sơn Bạc. Vừa gặp gỡ ông, tôi liên tưởng ngay đến ví dụ trên, quả nhiên xác đáng.

Ông kể sau ngày ra tù, có lần trong một cảnh huống công khai, gặp lại một nhân viên điều tra xét hỏi của trại giam trước đây đã cố ý bóp nặn sự thực ép cung ông. Khi ông chất vấn tại sao làm như vậy, thì người đó thú nhận và thành khẩn xin lỗi ngay tức khắc. Nhắc đến chuyện này, Bách Dương nói : "Dẫu rằng tôi phải chịu nhiều cực khổ vì hắn, nhưng trong lòng tôi vẫn thích hắn, vì hắn dám nhận sai lầm trước công chúng, chứng tỏ cái tử tế ở đời vẫn còn đó".

Ông là một con người quá nặng lòng, giàu tình cảm, ngay thẳng quá không quản nặng nhẹ, chính khí quá chẳng tính thiệt hơn, ông là một thành quách không võ bị. Ông bắt đầu viết tản văn từ năm 1960, trong tám năm cho ra hai mươi ba cuốn sách, đa phần là tạp văn, tùy bút, nội dung về nhân sinh, văn hóa, chính trị, văn học, giáo dục, lịch sử, xã hội, tôn giáo, gia đình, tình yêu... không thiếu thứ gì. Ông là người đầu tiên đặt ra thuyết "Vại tương", đối mặt với nếp nghĩ đường mòn, bản tính lười nhác cẩu thả không chút thuyên giảm suốt năm nghìn năm trong xã hội người Trung Hoa, và tính khí lên men kiểu đấu đá nội bộ, cùng với phản ứng thói thường để bài xích, triệt hại nhau trong cả một nền văn hóa nữa... ông chỉ trích cay nghiệt đến nơi đến chốn. Không ngại bàn tán, không sợ quyền quý, là nguyên nhân thành công, cũng là nguyên do mắc tội của ông.

Ðài Loan có hơn mười triệu người, cuốn sách Dị thành (Thành phố lạ) của ông tiêu thụ được hơn triệu bản, một tỷ lệ như thế thật hiếm có.

Là một nhân vật truyền kỳ, người yêu quý thì say mê ông, tôn vinh thiên tài, ví như một trái núi lớn, vừa có kho báu lại vừa có cảnh quan. Nhà vật lý học nguyên tử lưu trú ở Mỹ, cũng là người bạn thân của Bách Dương - ông Tôn Quan Hán khen rằng : "Năm nghìn năm nay chỉ một người này". Bởi vì con người ông tập hợp cả nhà thơ, nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà viết chuyên mục, nhà lịch sử... vào nhất thể. Người ghen ghét thì cho rằng ngòi bút ông sắc nhọn cay nghiệt, hay chửi rủa, chỉ có thể xếp vào loại "Nhà Tục văn học", không được phép bước lên đại sảnh thánh thiện của văn đàn Trung Quốc. Nhưng bất kỳ ai, dù yêu hay ghét, không thể không công nhận một sự thật : ông là một người có đảm lượng dám nói thật. Như ông đã từng nói : "Mình cũng biết giấu là thượng sách, nhưng những điều muốn nói cứ bốc hết ra ngoài không đừng được."

2. Nhà văn đồng nội Trung Lý Hòa từng phát biểu : "Một nhà văn thành đạt chỉ vì ông ta có một thân thế bất hạnh", ông nói thêm : "Cuộc sống dễ chịu là kẻ thù của sáng tác..." Riêng với nhân vật Bách Dương, chẳng còn câu nói nào khác sát sao hơn.

Quê cha đất tổ của Bách Dương ở huyện Huy, tỉnh Hà Nam, mẹ mất từ lúc ông lọt lòng. Suốt thời ấu thơ, ông chưa hề biết thế nào là cảm giác ấm áp từ lòng mẹ, càng chưa từng nếm thử vị ngọt ngào của bàn tay người mẹ vuốt mềm mại trên má. Lưu giữ trong ký ức chỉ là lời giáo huấn ngàn lần như một và bộ mặt nghiêm nghị, lạnh lùng của cha. Sau này dọn đến tỉnh lỵ Khai Phong, tiếp theo là sự ngược đãi của bà dì ghẻ. Vào mùa đông nước nhỏ thành băng ấy, cậu bé thèm muốn một bộ quần áo lót bằng vải bông sạch sẽ, giống như các em, con của bà dì kia, nhưng, ngoài những cú đánh đập, lời mắng chửi không thương xót, trời có rét hơn nữa thì cậu bé cũng chỉ khoác một chiếc áo bông vừa bẩn vừa cứng như áo giáp vỏ dừa mà thôi. Ðôi bàn tay bé xíu rét quá mưng mủ rồi thành chai, cho đến mùa xuân ấm trở lại mới khỏi. Cha ông quanh năm suốt tháng làm ăn xa nhà, những ngày ở nhà dù ít ỏi, người cha ấy cũng không hề nghĩ đến còn có một thằng bé đang chờ đón chút ít đầm ấm của thế gian. Ông Bách Dương nhớ lại : hồi đó, để được một thoáng cười của cha, ông hay cố ý tựa vào đầu gối của người, hình như đó là giây lát hạnh phúc nhất trong cuộc đời thơ dại của ông.

Cho đến năm mười bảy tuổi, ông không thể chịu được những trận đòn của dì nữa, sau một cú trả lời bằng nắm đấm, ông ngậm giọt nước mắt nóng hổi ra khỏi cửa nhà. Hồi tưởng lại, ông nói, nhẽ ra, lúc đó chỉ cần người cha có mặt ở đó nói lấy một lời, thì ông sẽ ở lại, nhưng cha chỉ gọi tên tục của ông "Sư tử con" một cách bất lực, rồi quay đi...

Từ ấy, ông bước vào đời. Chàng thanh niên gầy yếu, kiên cường, từ bé đã mang "tính cách con lừa của người Hà Nam" ấy, vừa bước tới đầu ngã tư của cuộc sống, đã phải hứng chịu mưa to gió lớn. Quầng lửa kháng chiến chống Nhật lan rộng khắp vùng đất Trung Nguyên, ông trở thành cậu học trò lưu vong, cơn lũ thời đại xô đẩy ông tới Hán Khẩu, thi vào Ðoàn Chiến cán (cốt cán chiến đấu - dịch giả) sau đó lại xoay vần đến trường đại học Ðông Bắc của huyện Tam Ðài tỉnh Tứ Xuyên. Từ trong nhà trường, tài hoa của ông dần được hiển lộ, và lúc đó người ta đã phát hiện ông không phải là một thanh niên tầm thường.

Thời buổi lớn lao, tạo dựng được một lớp thanh niên có tài ba, có hoài bão lớn lao, Bách Dương là một trong những số thanh niên đó.

Ông là một vai diễn thật sự quan trọng trên sân khấu lớn của cuộc đời con người. Ngoài viết văn ra, ông đã từng làm quan, cũng đã từng buôn bán, thời kỳ ở Ðông Bắc, ông từng buôn nước thải hầm mỏ. Sau khi đến Ðài Loan, ông làm giáo viên tiểu học, và từng làm biên tập tòa báo, vào năm 1968, trước ngày bị bắt, ông nhiệm chức giáo sư đại học Trường Quốc lập Nghệ thuật Chuyên khoa, giảng môn Khái luận văn học. Ông đã từng thất nghiệp, đã từng lang thang. Khi nhớ lại, ông kể nguyện vọng lớn nhất lúc bấy giờ là được ăn một cái man thẩu (bánh bao không nhân).

3. Hà Nam trồng nhiều cây Bách, và nhiều cây Dương. Cây bách lá nhỏ như vẩy cá, vỏ cây mầu nâu sẫm, có vết nứt như mai rùa, xanh biếc cả mùa băng giá, tuổi thọ đến ngàn năm. Còn cây bạch dương thẳng đứng giữa hang cùng núi cốc gặp gió kêu rào rào, lay động hồn vía người ta, đó là tính cách của Bách Dương, cũng là nguồn gốc bút danh của ông.

Trong cách sống, ông cố chấp nhưng hướng thiện, kiên trì và không ngừng theo đuổi những gì ông cho là giá trị. Trong sinh hoạt, không để ý đến tiểu tiết, không chăm chú việc ăn uống, sẵn lòng xả thân vì những người mình yêu. Ðể tăng thêm thu nhập, ông không quản ngại viết ngày viết đêm, nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu pha của vợ con. Kết quả sự nuông chiều làm hư thân họ. Bà vợ trước Nghê Minh Hoa, đã bỏ ông khi ông mới bị bắt. Tám năm sau, lần đầu được gặp cô con gái, cũng bị coi là người dưng. Tâm hồn cuả nhà văn giàu tình cảm này đã bị tàn phá vì những sự việc trên.

Nhưng ông chưa một lần gục ngã. Bách Dương nhiều lần lăn lê, bò toài, gượng dậy trên bàn cờ cuộc sống, dám yêu và dám ghét, chính hai chỗ dựa ấy đã cho ông điểm tựa vững chãi. Ðúng là trời có mắt, ra tù không bao lâu, ông đã gặp gỡ nữ thi sĩ trẻ trung và xinh đẹp Trương Hương Hoa, một người đàn bà phong thái mềm mại nhưng ý chí quật cường, hai người nhanh chóng rơi xuống biển tình, cuộc đời mưa gió của Bách Dương, cuối cùng cũng tìm được một mái ấm gia đình. Nhưng lòng dũng cảm và ngòi bút sắc nhọn của ông không hề muốn ngơi nghỉ, gần như lập tức ông lại "tấn công mạnh mẽ vào mặt trận dung tục"(lời Sêkhốp).

Nhớ đến hai câu thơ học thuộc lòng hồi nhỏ : "Thư sinh báo quốc vô tha vật, duy hữu thủ trung bút như đao" (người có học không có thứ gì khác ngoài sử dụng ngòi bút của mình thay thế gươm đao để đền ơn đất nước - dịch giả). Cây bút trong tay Bách Dương, chính là lưỡi dao sắc bén như vậy.

Nếu lật từng trang, từng quyển sáng tác tạp văn của ông, bạn có thể cảm nhận một nỗi sảng khoái khó tả, không hề rên rỉ giả tạo, không hề ngợi ca công đức, chỉ có từng câu từng chữ châm chích tệ nạn thời đại, như bức "Thư khiêu chiến" bạo dạn, đanh quánh. Ông ta khiêu chiến với tất cả những gì chướng tai gai mắt, không hề lo lắng đến hậu quả bất lợi cho bản thân mình. Mối mâu thuẫn có tính bi kịch giữa những điều đáng giận, đáng cười, cả chân tướng đáng sợ của xã hội Trung Quốc nữa, và tính khả dĩ sáng tạo to lớn đang tàng ẩn trong dân tộc Trung Hoa, trên nhiều phương diện đã bị ngòi bút của ông đụng chạm tới. Bất cứ giáo sư đại học, chủ phụ gia đình, hay là thanh niên học sinh, khi đọc bài "Tên của đàn bà, Mạnh mẽ ư kiêu kỳ ư và Trận mạc ác y" của ông, ai mà cấm được họ cười đắc ý cơ chứ. Trong bài "Trân trọng văn hóa Trung Quốc", ông viết : "Ông Bách Dương vì đề xướng ra chữ giản thể mới bị ngồi tù, nay phải bịt miệng cho đại cát, nhưng chữ Trung văn viết ngang đáng ra từ trái sang phải, vì là định luật của lịch sử... Xin được phúng khuyến các bậc đại sĩ của học vấn phản đối viết từ trái sang phải rằng, bàn học thuật thì cứ bàn vào học thuật, nếu nhất định đòi chụp mũ lung tung, thì ra đường các ngài chớ có bước nhầm chân trái trước đấy nhé..."

Ðọc xong đoạn văn trên, lại nghĩ ông ấy đã từng ngồi tù mất chín năm hai mươi sáu ngày, mà viết bài này là lúc ông vừa ra khỏi tù chưa được một năm, bạn có thể không phục dũng khí của ông ấy sao ? Ðáng tiếc rằng nhà văn Trung Quốc như ông quá ít. Ngoài ra, những bài "Ðáng đời hắn uống mứt tương", "Trận mạc giầy thối", "Văn nhân không nghề ngỗng ư, văn nhân coi thường nhau ư", "Thang thuốc bồi bổ ba ổ bệnh lớn"... Không bài nào là không công kích mạnh mẽ lối sống dung tục của tiểu thị dân và chất uế tạp của bọn gian tham xã hội. Qua giọng châm chích mỉa mai, cười cợt thóa mạ bề ngoài, ta linh cảm thấy nhịp đập lương tri của những người trí thức mang cốt cách chính nghĩa của dân tộc, mang lòng yêu đồng loại, quê hương, bản quán thiết tha, được ẩn giấu thầm kín. Hiện nay, ở Ðại lục đã xuất bản bộ sách của ông, khi bàn đến nhuận bút, ông hy vọng được sử dụng vào sự nghiệp giáo dục cho các bạn trẻ quê hương ông.

Ông Bách Dương từng viết mười cuốn tiểu thuyết lấy tên thật của mình là Quách Y Ðộng, nhưng những cuốn tiểu thuyết đó kém xa các cuốn tạp văn của ông. Không thể phủ nhận việc đọc tạp văn của Bách Dương khiến người ta rất sảng khoái, vừa lưu loát lại vừa hóm hỉnh khôi hài, như có người đã đánh giá ông có tài "giơ cao đánh khẽ", hoặc "khi nhẹ nhàng thì tựa như mây thưa trăng khuyết, lúc nặng nề thì tựa như bão vũ lôi phong", nhưng khôi hài dễ bị nông nổi, lưu loát dễ bị trơn tuột, đó là những nhược điểm của không ít nhà văn tiền bối, có lẽ cũng là nguyên nhân khiến một số người không ưa Bách Dương. Mặc dù vậy, trên quan điểm mỹ học, "cái đẹp trước tiên phải là cái thật" mà nói, ông hoàn toàn xứng đáng, hoàn toàn đủ tư cách giành một chiếu trong lịch sử văn học của đất nước Trung Hoa.

HẾT
 
Top Bottom