lịch sử trái đất ( khoảng 4,6 tỷ trước năm đến nay )

T

thienlangbachoai

Sự kiện tuyệt chủng cuối kỷ Trias

Kỷ Trias kết thúc với sự tuyệt chủng hàng loạt, đặc biệt nghiêm trọng trong các đại dương; các loài động vật có xương sống với răng nón thuộc lớp Conodonta đã biến mất, cũng giống như là gần như toàn bộ các loài bò sát biển, ngoại trừ thằn lằn cá (Ichthyosauria) và thằn lằn chân chèo (Plesiosauria). Các động vật không xương sống như ngành Tay cuốn (Brachiopoda), lớp Chân bụng (Gastropoda) thuộc ngành thân mềm (Mollusca) bị ảnh hưởng nặng nhất. Trong lòng đại dương, 22 % các họ động vật biển và có lẽ khoảng một nửa các chi đã biến mất, theo như nhà cổ sinh vật học Jack Sepkoski từ Đại học Chicago.
Tuy vậy sự kiện tuyệt chủng kết thúc kỷ Trias đã tàn phá không đồng đều ở mọi nơi các hệ sinh thái trên đất liền (xem dưới đây), một vài nhánh quan trọng các bò sát Crurotarsi (bò sát Archosauria lớn trước đó đã được nhóm cùng nhau như là Thecodontia) đã biến mất, giống như phần lớn các động vật lưỡng cư nhóm Labyrinthodontia to lớn, một số các nhóm bò sát kích thước nhỏ và một vài loài bò sát nhóm Synapsida (ngoại trừ các loài tiền-động vật có vú). Một số các khủng long nguyên thủy thời kỳ đầu cũng bị tuyệt chủng, nhưng các nhóm khủng long khác, dễ thích nghi hơn thì đã sống sót để tiến hóa trong kỷ Jura. Các loài thực vật sống sót để thống lĩnh thế giới trong Đại Trung Sinh có các loài thông, tùng, bách hiện đại và thực vật dạng tuế.
Người ta vẫn chưa chắc chắn điều gì đã gây ra sự tuyệt chủng Hậu Trias này, được kèm theo nó là các phun trào núi lửa lớn vào khoảng 208-213 triệu năm trước, sự kiện phun trào núi lửa lớn nhất được ghi nhận lại kể từ khi Trái Đất đã nguội đi và ổn định, do siêu lục địa Pangaea bắt đầu tách ra. Các nguyên nhân có thể là sự lạnh đi toàn cầu hoặc thậm chí là va chạm của sao băng, mà miệng hố va chạm còn được thấy gần hồ chứa nước Manicouagan, Quebec, Canada. Tuy nhiên, tại miệng hố va chạm Manicouagan, nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các loại đá nóng chảy do va chạm trong miệng hố có niên đại khoảng 214±1 Ma trong khi niên đại của ranh giới Trias-Jura cũng đã được xác định chính xác hơn trong thời gian gần đây là khoảng 202±1 Ma. Cả hai niên đại này đều thu được độ chính xác bằng cách sử dụng các dạng chính xác hơn của phương pháp xác định niên đại bằng phóng xạ, cụ thể là sự phân rã của urani thành chì trong ziriconi được hình thành do va chạm. Vì thế chứng cứ này gợi ý là va chạm Manicouagan đã xảy ra trước sự kết thúc của kỷ Trias khoảng 12±2 Ma. Vì vậy nó khó có thể là nguyên nhân trực tiếp của sự tuyệt chủng hàng loạt đã quan sát được (Hodych & Dunning, 1992).
Số lượng các đợt tuyệt chủng Hậu Trias còn gây tranh cãi. Một số nghiên cứu cho rằng khi đó có ít nhất hai chu kỳ tuyệt chủng về phía kết thúc của kỷ Trias, cách nhau khoảng 12 đến 17 triệu năm. Nhưng chứng cứ phản bác lại điều này chính là nghiên cứu gần đây về hệ động vật Bắc Mỹ. Tại Công viên quốc gia rừng hóa đá (Petrified Forest National Park) ở đông bắc Arizona có một chuỗi duy nhất các trầm tích trên đất liền thời kỳ cuối Carnia-đầu Noria. Phân tích năm 2002 ([1]) đã không tìm thấy sự thay đổi đáng kể nào trong cổ môi trường. Các hóa thạch của bò sát thuộc bộ Phytosauria, phổ biến nhất tại đây, chỉ chịu sự thay đổi ở cấp độ chi, và hàng loạt các loài vẫn được duy trì như cũ. Một số loài bò sát thuộc bộ Aetosauria, động vật bốn chân phổ biến thứ hai và các khủng long thời kỳ đầu đã không thấy có thay đổi gì. Tuy nhiên, cả Phytosauria và Aetosauria đều nằm trong nhóm các bò sát Archosauria bị xóa sổ hoàn toàn vào thời gian của sự kiện tuyệt chủng kết thúc kỷ Trias.
Dường như khi đó đã có một vài kiểu cách tuyệt chủng cuối thời Carnia, khi một vài nhóm bò sát dạng Archosauromorpha ăn cỏ bị tiêu diệt, trong khi các loài bò sát Therapsida lớn hơn và ăn cỏ— như các loài bò sát hai răng chó họ Kannemeyeriidae và bò sát một răng chó họ Traversodontidae— đã bị suy giảm nhiều ở nửa phía bắc của Pangaea (Laurasia).
Các đợt tuyệt chủng trong phạm vi kỷ Trias vào thời điểm kết thúc của nó đã cho phép khủng long mở rộng tầm ảnh hưởng của chúng tới nhiều khu vực còn bỏ trống. Khủng long có lẽ đã là thống trị, đa dạng và phổ biến ngày càng tăng và chúng còn duy trì được điều này trong 150 triệu năm tiếp theo. "Kỷ nguyên Khủng long" thực sự là kỷ Jurakỷ Phấn trắng (Cretaceous), chứ không phải kỷ Trias.
 
T

thienlangbachoai



Kỷ Jura

[FONT=&quot]Kỷ Jura[/FONT][FONT=&quot] [/FONT]là một kỷ trong niên đại địa chất kéo dài từ khoảng 200 triệu năm trước, khi kết thúc kỷ Tam điệp tới khoảng 146 triệu năm trước, khi bắt đầu kỷ Phấn trắng (Creta). Giống như các kỷ địa chất khác, các tầng đá xác định sự bắt đầu và kết thúc của kỷ này đã được xác định khá rõ ràng, nhưng niên đại chính xác thì vẫn là điều không chắc chắn trong phạm vi 5 - 10 triệu năm. Kỷ Jura tạo thành thời kỳ giữa của Đại Trung Sinh, còn được biết đến như là kỷ nguyên Khủng long. Sự bắt đầu của kỷ này được đánh dấu bằng sự kiện tuyệt chủng lớn kỷ Trias-Jura. Tên gọi kỷ Jura do Alexandre Brogniart đặt cho các địa hình đá vôi có nguồn gốc biển lộ ra ở dãy núi Jura, trong khu vực giáp ranh giữa Đức, PhápThụy Sỹ.
Các phân kỷ

Kỷ Jura thông thường được chia ra thành các phân kỷ Tiền, TrungHậu, còn được biết đến như là Lias, DoggerMalm. Các thuật ngữ tương ứng cho các tầng đá là Hạ, Trung và Thượng Jura. Các tầng động vật từ trẻ nhất đến cổ nhất là:
Thượng/Hậu Jura

Tithonia
(150,8 ± 4.0 – 145,5 ± 4,0 Ma)
Kimmeridgia
(155,7 ± 4,0 – 150,8 ± 4,0 Ma)
Oxfordia
(161,2 ± 4,0 – 155,7 ± 4,0 Ma)
Trung Jura

Callovia
(164,7 ± 4,0 – 161,2 ± 4,0 Ma)
Bathonia
(167,7 ± 3,5 – 164,7 ± 4,0 Ma)
Bajocia
(171,6 ± 3,0 – 167,7 ± 3,5 Ma)
Aalenia
(175,6 ± 2,0 – 171,6 ± 3,0 Ma)
Hạ/Tiền Jura

Toarcia
(183,0 ± 1,5 – 175,6 ± 2,0 Ma)
Pliensbachia
(189,6 ± 1,5 – 183,0 ± 1,5 Ma)
Sinemuria
(196,5 ± 1,0 – 189,6 ± 1,5 Ma)
Hettangia
(199,6 ± 0,6 – 196,5 ± 1,0 Ma)
Cổ địa lý học

Trong thời kỳ Tiền Jura, siêu lục địa Pangea đã bị chia tách ra thành Bắc Mỹ, EurasiaGondwana. Đại Tây Dương khi đó còn tương đối hẹp. Vào thời kỳ Hậu Jura thì lục địa phía nam, Gondwana, bắt đầu tách ra và biển Tethys đã khép lại, lòng chảo Neotethys đã xuất hiện. Khí hậu khi đó ấm áp, do không có chứng cứ cho thấy có sự tồn tại của sự đóng băng. Trong kỷ Trias, dường như đã không có các vùng đất gần hai địa cực cũng như các chỏm băng.
Hồ sơ địa chất kỷ Jura là khá tốt ở miền tây châu Âu, tại đây các chuỗi trầm tích đại dương rộng lớn được tìm thấy dọc theo các bờ biển, bao gồm cả di sản thế giới bờ biển Jurassic nổi tiếng. Các tầng của kỷ này cũng được đặc trưng bởi các lagerstätte nổi tiếng như HolzmadenSolnhofen. Ngược lại, các hồ sơ địa chất ở Bắc Mỹ thuộc kỷ Jura là nghèo nàn nhất trong Đại Trung Sinh, với chỉ một ít phần trồi lên bề mặt (xem bản đồ). Mặc dù biển Sundance khá nông đã để lại các trầm tích tại một số nơi thuộc đồng bằng miền bắc Hoa KỳCanada trong thời kỳ cuối kỷ Jura, nhưng phần lớn trầm tích trong giai đoạn này đều mang tính lục địa, chẳng hạn như các trầm tích phù sa của kiến tạo núi Morrison.
Các khối đá batholith lớn đầu tiên đã xuất hiện ở miền bắc Cordillera bắt đầu vào giữa kỷ Jura, tạo ra sự hình thành núi ở Nevada (Monroe và Wicander, 607). Các phần lộ ra quan trọng thuộc kỷ Jura cũng được tìm thấy ở Nga, Ấn Độ, Nam Mỹ, Nhật Bản, AustralasiaVương quốc Anh hiện nay.
 
T

thienlangbachoai

Động vật thủy sinh

Trong kỷ Jura, các dạng 'cao nhất' của sự sống đã sinh trưởng trong các đại dương là và các loài bò sát biển. Nhóm bò sát bao gồm thằn lằn cá (Ichthyosauria), thằn lằn cổ rắn chân chèo (Plesiosauria) và cá sấu biển (Crocodilia) thuộc các họ TeleosauridaeMetriorhynchidae.
Trong thế giới động vật không xương sống thì một vài nhóm mới đã xuất hiện, chẳng hạn:

Các con cúc thuộc phân lớp Ammonoidea (lớp Cephalopoda có vỏ) là phổ biến và khá đa dạng, tạo thành 62 sinh đới.
Động vật đất liền

Trên đất liền, các loài bò sát lớn thuộc nhóm Archosauria vẫn thống trị. Các loài khủng long hông thằn lằn lớn ăn cỏ (cận bộ Sauropoda) sinh sống trên các thảo nguyên và ăn dương xỉ và các loài tuế có hình dáng giống cây dừa cũng như nhóm Bennettitales. Chúng bị các khủng long thuộc cận bộ Theropoda lớn (Ceratosaurs, MegalosaursAllosaurs) săn bắt. Tất cả các loài khủng long này đều thuộc nhóm 'hông thằn lằn' hay bộ Saurischia.
Vào thời kỳ Hậu Jura thì các loài chim đầu tiên đã tiến hóa từ khủng long nhỏ thuộc cận bộ Coelurosauria. Khủng long thuộc bộ Ornithischia ít chiếm ưu thế hơn so với khủng long bộ Saurischia, mặc dù một vài nhóm như StegosaurOrnithopoda nhỏ đã đóng vai trò quan trọng như là các động vật ăn cỏ có kích thước từ nhỏ, trung bình tới lớn (nhưng không có kích thước như Sauropoda). Trong không gian, thằn lằn chim (Pterosauria) là phổ biến, thực hiện nhiều vai trò sinh thái như chim hiện nay.
Thực vật

Các điều kiện khô hạn đặc trưng cho phần lớn kỷ Trias dần dần giảm nhẹ trong kỷ Jura, đặc biệt là ở các độ cao lớn; khí hậu ấm Kỷ Phấn trắng hay kỷ Creta là một đơn vị chính trong niên đại địa chất, bắt đầu từ khi kết thúc kỷ Jura khoảng 145,5 ± 4,0 triệu năm trước (Ma) cho đến khi bắt đầu thế Paleocen của phân đại đệ Tam vào khoảng 65,5 ± 0,3 Ma. Là kỷ địa chất dài nhất trong đại Trung Sinh, kỷ Creta chiếm khoảng gần một nửa thời gian của đại này. Sự kết thúc của kỷ Creta xác định ranh giới giữa đại Trung Sinh và đại Tân Sinh (Cenozoic).
Kỷ Creta có nguồn gốc từ tiếng Latinh creta với nghĩa là đá phấn hay phấn trắng là một kỷ tách biệt lần đầu tiên được nhà địa chất người Bỉ Jean d'Omalius d'Halloy định nghĩa năm 1822, sử dụng địa tầng trong lòng chảo Paris[1] và đặt tên cho các tầng đá phấn trải rộng (cacbonat canxi đã trầm lắng từ vỏ hay mai của các động vật không xương sống đại dương, chủ yếu là coccolith), được tìm thấy trong các tầng đá Thượng Creta của châu Âu lục địa và quần đảo Anh (bao gồm cả vách đá trắng Dover).
và ẩm cho phép các cánh rừng nhiệt đới tươi tốt che phủ phần lớn diện tích đất (Haines, năm 2000). Thực vật có hoa vẫn chưa được tiến hóa thành và các loại thực vật quả nón ngự trị trên các vùng đất, giống như chúng đã từng tồn tại trong kỷ Trias. Trên thực tế chúng là nhóm thực vật đa dạng nhất và tạo thành phần chính yếu của các loài cây lớn thân gỗ. Các họ ngành Thông tồn tại ngày nay đã thịnh vượng trong kỷ Jura là Araucariaceae, Cephalotaxaceae, Pinaceae, Podocarpaceae, TaxaceaeTaxodiaceae (Behrensmeyer và những người khác, năm 1992, trang 349). Họ thực vật quả nón thuộc Đại Trung Sinh mà nay đã tuyệt chủng là Cheirolepidiaceae đã chiếm lĩnh thảm thực vật thuộc độ cao nhỏ, cũng giống như các loài cây bụi thuộc bộ Bennettitales (Behrensmeyer và những người khác, năm 1992, trang 352). Các loài tuế (Cycadophyta) cũng rất phổ biến, cũng như các loài bạch quảdương xỉ thân gỗ trong các cánh rừng. Các loài dương xỉ nhỏ hơn có lẽ đã là nhóm thống lĩnh ở tầng thấp. Dương xỉ có hạt nhóm Caytoniacea là một nhóm thực vật quan trọng khác trong thời kỳ này và chúng có lẽ là có kích thước của cây bụi hay cây thân gỗ nhỏ (Behrensmeyer và những người khác, năm 1992, trang 353). Các loài thực vật tương tự như bạch quả là phổ biến ở các vĩ độ từ trung tới cao của nửa phía bắc. Tại Bán cầu nam, các loài kim giao đã đặc biệt thành công (Haines, năm 2000), trong khi bạch quả và Czekanowskiales là hiếm (Behrensmeyer và những người khác, năm 1992, trang 352).
Văn hóa
• Tên gọi của cuốn tiểu thuyết và bộ phim Công viên kỷ Jura đề cập tới kỷ Jura, mặc dù nhiều sinh vật được miêu tả trong tiểu thuyết cũng như phim thực ra là thuộc kỷ Phấn trắng.
• Có một ban nhạc hip hop có tên gọi là Jurassic 5.
 
T

thienlangbachoai

Kỷ Creta

Kỷ Phấn trắng hay kỷ Creta là một đơn vị chính trong niên đại địa chất, bắt đầu từ khi kết thúc kỷ Jura khoảng 145,5 ± 4,0 triệu năm trước (Ma) cho đến khi bắt đầu thế Paleocen của phân đại đệ Tam vào khoảng 65,5 ± 0,3 Ma. Là kỷ địa chất dài nhất trong đại Trung Sinh, kỷ Creta chiếm khoảng gần một nửa thời gian của đại này. Sự kết thúc của kỷ Creta xác định ranh giới giữa đại Trung Sinh và đại Tân Sinh (Cenozoic).
Kỷ Creta có nguồn gốc từ tiếng Latinh creta với nghĩa là đá phấn hay phấn trắng là một kỷ tách biệt lần đầu tiên được nhà địa chất người Bỉ Jean d'Omalius d'Halloy định nghĩa năm 1822, sử dụng địa tầng trong lòng chảo Paris[1] và đặt tên cho các tầng đá phấn trải rộng (cacbonat canxi đã trầm lắng từ vỏ hay mai của các động vật không xương sống đại dương, chủ yếu là coccolith), được tìm thấy trong các tầng đá Thượng Creta của châu Âu lục địa và quần đảo Anh (bao gồm cả vách đá trắng Dover).
Niên đại

Giống như các kỷ địa chất cổ hơn, các tầng đá xác định kỷ Creta đã được xác định khá rõ nhưng niên đại chính xác của sự khởi đầu và kết thúc kỷ này vẫn không chắc chắn trong phạm vi vài triệu năm. Không có sự kiện tuyệt chủng lớn hay sự bùng nổ tính đa dạng nào tách rời kỷ Creta ra khỏi kỷ Jura trước đó. Tuy nhiên, sự kết thúc kỷ này được xác định chắc chắn nhất, được đặt tại các lớp giàu iridi tìm thấy trên khắp thế giới được cho là gắn liền với miệng núi lửa Chicxulub tại Yucatanvịnh Mexico. Lớp đá này đã được xác định niên đại là khoảng 65,5 Ma. Sự va chạm sao băng này có lẽ là nguyên nhân chính gây ra sự kiện tuyệt chủng lớn là sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-phân đại đệ Tam đã được nghiên cứu rộng rãi.
Các đơn vị

Kỷ Creta thông thường được phân chia thành các thế TiềnHậu Creta. Các tầng động vật từ trẻ nhất tới cổ nhất được liệt kê dưới đây; thời gian được coi là sớm (tiền) hay muộn (hậu), còn các tầng đá tương ứng được coi là hạ hay thượng:
Thượng/Hậu Creta
Maastricht
(70,6 ± 0,6 – 65,8 ± 0,3 Ma)
Champagne
(83,5 ± 0,7 – 70,6 ± 0,6 Ma)
Santon
(85,8 ± 0,7 – 83,5 ± 0,7 Ma)
Cognac
(89,3 ± 1,0 – 85,8 ± 0,7 Ma)
Tours
(93,5 ± 0,8 – 89,3 ± 1,0 Ma)
Cenoman
(99,6 ± 0,9 – 93,5 ± 0,8 Ma)


Hạ/Tiền Creta

Alba
(112,0 ± 1,0 – 99,6 ± 0,9 Ma)
Apt
(125,0 ± 1,0 – 112,0 ± 1,0 Ma)
Barrême
(130,0 ± 1,5 – 125,0 ± 1,0 Ma)
Hauterives
(136,4 ± 2,0 – 130,0 ± 1,5 Ma)
Valangin
(140,2 ± 3,0 – 136,4 ± 2,0 Ma)
Berrias
(145,5 ± 4,0 – 140,2 ± 3,0 Ma)
 
T

thienlangbachoai

Kỷ Creta

Kỷ Phấn trắng hay kỷ Creta là một đơn vị chính trong niên đại địa chất, bắt đầu từ khi kết thúc kỷ Jura khoảng 145,5 ± 4,0 triệu năm trước (Ma) cho đến khi bắt đầu thế Paleocen của phân đại đệ Tam vào khoảng 65,5 ± 0,3 Ma. Là kỷ địa chất dài nhất trong đại Trung Sinh, kỷ Creta chiếm khoảng gần một nửa thời gian của đại này. Sự kết thúc của kỷ Creta xác định ranh giới giữa đại Trung Sinh và đại Tân Sinh (Cenozoic).
Kỷ Creta có nguồn gốc từ tiếng Latinh creta với nghĩa là đá phấn hay phấn trắng là một kỷ tách biệt lần đầu tiên được nhà địa chất người Bỉ Jean d'Omalius d'Halloy định nghĩa năm 1822, sử dụng địa tầng trong lòng chảo Paris[1] và đặt tên cho các tầng đá phấn trải rộng (cacbonat canxi đã trầm lắng từ vỏ hay mai của các động vật không xương sống đại dương, chủ yếu là coccolith), được tìm thấy trong các tầng đá Thượng Creta của châu Âu lục địa và quần đảo Anh (bao gồm cả vách đá trắng Dover).
Niên đại

Giống như các kỷ địa chất cổ hơn, các tầng đá xác định kỷ Creta đã được xác định khá rõ nhưng niên đại chính xác của sự khởi đầu và kết thúc kỷ này vẫn không chắc chắn trong phạm vi vài triệu năm. Không có sự kiện tuyệt chủng lớn hay sự bùng nổ tính đa dạng nào tách rời kỷ Creta ra khỏi kỷ Jura trước đó. Tuy nhiên, sự kết thúc kỷ này được xác định chắc chắn nhất, được đặt tại các lớp giàu iridi tìm thấy trên khắp thế giới được cho là gắn liền với miệng núi lửa Chicxulub tại Yucatanvịnh Mexico. Lớp đá này đã được xác định niên đại là khoảng 65,5 Ma. Sự va chạm sao băng này có lẽ là nguyên nhân chính gây ra sự kiện tuyệt chủng lớn là sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-phân đại đệ Tam đã được nghiên cứu rộng rãi.
Các đơn vị

Kỷ Creta thông thường được phân chia thành các thế TiềnHậu Creta. Các tầng động vật từ trẻ nhất tới cổ nhất được liệt kê dưới đây; thời gian được coi là sớm (tiền) hay muộn (hậu), còn các tầng đá tương ứng được coi là hạ hay thượng:
Thượng/Hậu Creta
Maastricht
(70,6 ± 0,6 – 65,8 ± 0,3 Ma)
Champagne
(83,5 ± 0,7 – 70,6 ± 0,6 Ma)
Santon
(85,8 ± 0,7 – 83,5 ± 0,7 Ma)
Cognac
(89,3 ± 1,0 – 85,8 ± 0,7 Ma)
Tours
(93,5 ± 0,8 – 89,3 ± 1,0 Ma)
Cenoman
(99,6 ± 0,9 – 93,5 ± 0,8 Ma)


Hạ/Tiền Creta

Alba
(112,0 ± 1,0 – 99,6 ± 0,9 Ma)
Apt
(125,0 ± 1,0 – 112,0 ± 1,0 Ma)
Barrême
(130,0 ± 1,5 – 125,0 ± 1,0 Ma)
Hauterives
(136,4 ± 2,0 – 130,0 ± 1,5 Ma)
Valangin
(140,2 ± 3,0 – 136,4 ± 2,0 Ma)
Berrias
(145,5 ± 4,0 – 140,2 ± 3,0 Ma)
 
T

thienlangbachoai

Cổ địa lý học

Trong kỷ Creta, siêu lục địa Pangaea có từ cuối đại Cổ Sinh – đầu đại Trung Sinh đã hoàn thành việc chia tách nó ra thành các châu lục như ngày nay, mặc dù vị trí của chúng là khác đáng kể so với hiện nay. Khi Đại Tây Dương mở rộng ra, các kiến tạo sơn lề hội tụ đã bắt đầu từ kỷ Jura vẫn tiếp tục tại dãy núi Bắc Mỹ, chẳng hạn kiến tạo sơn Nevada đã được kế tiếp bởi các kiến tạo sơn như kiến tạo sơn SevierLaramide.


Địa lý Bắc Mỹ trong kỷ Creta
Mặc dù Gondwana vẫn không bị ảnh hưởng vào đầu kỷ Creta, nhưng tự nó đã tách ra do Nam Mỹ, châu Nam CựcAustralia đã trôi dạt ra khỏi châu Phi (mặc dù Ấn ĐộMadagascar vẫn còn dính với nhau); vì thế, Ấn Độ Dương và phần phía nam của Đại Tây Dương là các đại dương mới được hình thành. Hoạt động trôi dạt như vậy đã nâng các chuỗi núi lớn ngầm dưới biển dọc theo các đường viền, nâng mực nước biển chấn tĩnh trên khắp thế giới. Về phía bắc của châu Phi thì biển Tethys tiếp tục thu hẹp lại. Các biển nông rộng lớn chiếm ưu thế dọc theo miền trung Bắc Mỹ (biển nội địa miền Tây) và châu Âu, và sau đó bắt đầu rút xuống, để lại các trầm tích đại dương dày xen vào giữa các tầng than.
Kỷ Creta chính xác là nổi tiếng vì đá phấn của nó; thực vậy, đã có nhiều đá phấn được hình thành trong kỷ này hơn so với bất kỳ thời kỳ nào của liên đại Hiển Sinh. Hoạt động tạo lằn gợn đại dương—hay đúng hơn là, sự lưu thông của nước biển qua các lằn gợn mở rộng—làm giàu thêm canxi cho các đại dương; điều này làm cho nước biển trở nên bão hòa hơn, cũng như làm tăng hiệu lực sinh học của nguyên tố này đối với các tảo phù du đá vôi. Chúng làm loang rộng các trầm tích cacbonat cũng như các loại trầm tích khác, làm cho các mẫu đá kỷ Creta là đặc biệt mịn. Famous formations từ Bắc Mỹ bao gồm các hóa thạch đại dương phong phú ở đối Smoky tại Kansas và quần động vật đất liền cuối kỷ Creta tại hình thành sông Hell. Các hóa thạch quan trọng khác có tại châu Âu và Trung Quốc. Tại khu vực ngày nay là Ấn Độ, các tầng dung nham khổng lồ gọi là Deccan Traps đã sụt xuống vào cuối kỷ Creta và đầu thế Paleocen.
Khí hậu

Khí hậu là rất ấm trong kỷ Creta đến mức không có băng tại hai địa cực. Mực nước biển cao hơn nhiều so với ngày nay và các khu vực lớn của lớp vỏ Trái Đất đã bị các biển nông bao phủ; các phần lõi trầm tích chỉ ra rằng các biển nhiệt đới có thể có nhiệt độ cao hơn khoảng 9-12° so với ngày nay, trong khi nhiệt độ của lòng đại dương có thể cao hơn tới 15-20° so với ngày nay. Biển Tethys đã nối các đại dương vùng nhiệt đới từ tây sang đông, điều này làm cho khí hậu toàn cầu cân bằng hơn. Các hóa thạch thực vật đã thích nghi với khí hậu nóng ấm được tìm thấy tại các khu vực xa về phía bắc tới tận AlaskaGreenland, trong khi các hóa thạch khủng long cũng đã được tìm thấy trong phạm vi 15° kể từ Nam cực của kỷ Creta[6].
Trái Đất về trung bình có thể không ấm nhiều hơn so với kỷ Trias hay kỷ Jura, nhưng khi đó nó có gradient nhiệt độ thoai thoải hơn từ xích đạo tới hai cực. Hiệu ứng phụ của điều này có thẻ làm suy yếu các luồng luân chuyển không khí (gió) toàn cầu, tạo ra ít sự chuyển động của các khối nước lạnh và giàu dinh dưỡng lên bề mặt đại dương và làm cho các đại dương trở thành tù đọng hơn so với ngày nay, với chứng cứ là các trầm tích đá phiến sét màu đen rộng khắp
Quần thực vật

Thực vật có hoa đã phát triển mạnh trong kỷ này, mặc dù chúng vẫn chưa trở thành thống trị cho đến tận gần cuối kỷ (tầng Champagne). Sự tiến hóa của chúng được trợ giúp thêm bởi sự xuất hiện của ong; trên thực tế thực vật có hoa và côn trùng là các ví dụ điển hình về cùng tiến hóa. Đại diện đầu tiên của nhiều loại cây hiện đại đã xuất hiện trong kỷ này, như các loài đa, tiêu huyềnmộc lan. Cùng thời gian đó, một vài loài thực vật hạt trần từ thời kỳ đầu đại Trung Sinh, chẳng hạn như thông vẫn tiếp tục thịnh vượng, mặc dù một vài nhánh khác như bộ Bennettitales (dạng tuế cổ) đã biến mất trước khi kỷ này kết thúc.
 
T

thienlangbachoai

Đất liền

Trên đất liền, động vật có vú vẫn còn ít và chỉ là thành phần tương đối nhỏ của quần động vật. Quần động vật khi đó chủ yếu là các loài bò sát dạng thằn lằn thống trị (nhóm Archosauria), đặc biệt là khủng long, khi đó đang ở đỉnh cao đa dạng của chúng. Các loài bò sát bay (bộ Pterosauria) là phổ biến ở đầu và giữa kỷ Creta, nhưng càng về cuối kỷ thì chúng lại phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gia tăng của chim, và vào cuói kỷ này thì chỉ còn 2 họ thằn lằn bay chuyên biệt hóa cao là còn tồn tại.


Hình ảnh cá hóa thạch thuộc kỷ Creta
Khu vực lưu giữ hóa thạch tại Liêu Ninh, Trung Quốc cung cấp một cái nhìn tổng quan về sự sống đầu kỷ Creta. Tại đây các dấu tích còn được bảo quản của hàng loạt các loài khủng long, chim và động vật có vú nhỏ đã được phát hiện. Các loài khủng long thuộc nhóm Coelurosauria tìm thấy ở đây là đại diện cho các động vật của nhóm Maniraptora (dạng chuyển tiếp giữa khủng long và chim) và đáng chú ý vì sự hiện diện của các lông vũ.
Trong kỷ Creta, côn trùng bắt đầu đa dạng hóa và các loài kiến, mối cùng một vài loài cánh vẩy cổ nhất đã biết đã xuất hiện. Các loài rệp (siêu họ Aphidoidea), châu chấu (phân bộ Caelifera) và ong vú lá (họ Cipnipidae) cũng đã xuất hiện.Hàng loạt các loại hóa thạch côn trùng được bảo quản tốt cũng đã được tìm thấy trong các khu vực lưu giữ hóa thạch thời kỳ Hậu Creta tại Baissa ở khu vực Siberi.
Đại dương

Trong lòng đại dương, các loài cá đuối (siêu bộ Batoidea), cá mập (siêu bộ Selachimorpha) hiện đại và cá xương thật sự (phân lớp Teleostei) đã trở thành phổ biến. các loài bò sát biển bao gồm thằn lằn cá (bộ Ichthyosauria) ở đầu và giữa kỷ Creta, thằn lằn đầu rắn (phân bộ Plesiosauria) trong suốt cả kỷ và thằn lằn rắn (họ Mosasauridae) ở cuối kỷ.
Baculites, một dạng vỏ thẳng của cúc đá (phân lớp Ammonoidea) cũng đã thịnh vượng trong lòng đại dương. chim có răng (phân lớp Hesperornithes) là các loài chim không bay, sống trên mặt đại dương và bơi lội giống như các loài chim lặn (bộ Podicipediformes). Các loài trùng lỗ (ngành Foraminifera) và động vật da gai (ngành Echinodermata) như nhím biển và sao biển (lớp Asteroidea) cũng thịnh vượng. Sự lan tỏa đầu tiên của các loài tảo cát (nói chung là dạng cát chứ không phải dạng đá vôi) trong đại dương cũng diễn ra vào kỷ này nhưng các loài tảo cát nước ngọt mãi đến thế Miocen mới xuất hiện.
 
T

thienlangbachoai

Tuyệt chủng

Trong sự kiện tuyệt chủng đánh dấu sự kết thúc kỷ Creta thì một lượng đáng kể các loài (~50%) và các họ đã biết (~25%) đã biến mất. Thực vật gần như không bị tổn thương, trong khi các sinh vật biển phải gánh chịu nặng nề nhất. Trong số đó một lượng lớn (~95%) các dạng trùng lỗ (trừ bộ Globigerinida), và thậm chí một lượng lớn hơn của nhóm Coccolithophores, tất cả các loài cúc đá và tên đá (nhóm Belemnoidea) của động vật chân đầu (lớp Cephalopoda) cũng như tất cả các nhóm rudists tạo đá ngầm của ngành động vật thân mềm (ngành Mollusca) và các loài trai thuộc chi Inoceramus), cũng như gần như toàn bộ bò sát biển (ngoại trừ rùacá sấu). Khủng long có lẽ là nạn nhân nổi tiếng nhất của sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta. Các loài khủng long còn sót lại vào gần cuối kỷ (chẳng hạn Tyrannosaurus rex, TriceratopsAnkylosaurus) cũng đã bị tiêu diệt. Những con thằn lằn có cánh cuối cùng cũng đã bị tuyệt chủng và phần lớn các loài chim cũng chịu chung số phận, trong đó có các phân lớp EnantiornithesHesperornithes.
Sự tuyệt chủng cao độ của côn trùng diễn ra vào khoảng giữa kỷ Creta, trong tầng Alba.
 
T

thienlangbachoai

Đại Tân sinh

Đại Tân sinh (Cenozoic, đọc là "sen-o-dô-íc"; hay đôi khi được viết là Caenozoic tại Vương quốc Anh), có nghĩa là "sự sống mới" (từ tiếng Hy Lạp kainos = mới + zoe = sự sống), là đại gần đây nhất trong số ba đại địa chất kinh điển. Một số sách tiếng Việt gọi đại này đại Kainozoi. Nó bắt đầu khoảng 65,5 triệu năm trước kể từ khi diễn ra sự kiện tuyệt chủng trong giai đoạn kỷ Phấn trắng-phân đại Đệ tam vào cuối thời kỳ của kỷ Phấn trắng (Cretaceous) đánh dấu sự biến mất của các loài khủng long cuối cùng và là sự kết thúc của Đại Trung sinh (Mesozoic). Đại Tân sinh vẫn đang diễn ra hiện nay.
Đại Tân sinh được chia thành hai kỷ lớn, là kỷ Paleogenkỷ Neogen, và các kỷ này trong lượt của mình lại được chia thành các thế.

Thế Toàn tân (Holocen) vẫn đang diễn ra. Về mặt lịch sử, đại Tân Sinh cũng đã từng được chia thành hai phân đại là phân đại Đệ tam (từ thế Paleocen tới thế Pliocen) và Đệ tứ (các thế Pleistocen và Holocen), mặc dù hiện nay phần lớn các nhà địa chất không còn công nhận cách chia này.
Sự sống trong đại Tân sinh

Đại Tân sinh là thời đại của động vật có vú. Trong đại Tân sinh, động vật có vú đã chia nhánh từ một vài dạng tổng quát, nhỏ và đơn giản thành một tập hợp đa dạng các loài động vật sống trên đất liền, trong lòng đại dương và những động vật biết bay. Đại Tân sinh cũng có thể coi là thời đại của các thảo nguyên, hoặc thời đại của sự đồng phụ thuộc giữa thực vật có hoa và côn trùng. Các loài chim cũng có sự tiến hóa một cách cơ bản trong đại này.
Về mặt địa chất, đại Tân sinh là kỷ nguyên khi các lục địa chuyển dịch tới vị trí hiện nay của chúng. Australia-New Guinea tách ra từ đại lục Gondwana để trôi về phía bắc và cuối cùng tiếp giáp với Đông Nam Á; châu Nam Cực cũng di chuyển tới vị trí hiện nay của nó tại khu vực Nam cực. Đại Tây Dương mở rộng ra và vào giai đoạn cuối của đại này thì Nam Mỹ gắn liền với Bắc Mỹ.
 
T

thienlangbachoai

Kỷ Paleogen

Kỷ Paleogen (hay kỷ Palaeogen) còn gọi là kỷ Cổ Cận, là một đơn vị cấp kỷ trong niên đại địa chất, bắt đầu khoảng 65,5 ± 0,3 triệu năm trước (Ma) và kết thúc vào khoảng 23,03 ± 0,05 Ma. Nó là một phần của đại Tân Sinh. Trước đây nó được gọi là phân kỷ đệ Tam sớm/hạ, nhưng hiện nay không còn được sử dụng một cách chính thức nữa "Whatever happened to the Tertiary and Quaternary?". Kéo dài khoảng 42 triệu năm, kỷ Paleogen là đáng chú ý nhất trong vai trò của khoảng thời gian mà động vật có vú đã tiến hóa từ các dạng nhỏ, đơn giản thành các động vật đa dạng liền ngay sau sự kiện tuyệt chủng hàng loạt đánh dấu sự kết thúc của kỷ Creta. Một số động vật có vú đã tiến hóa thành các dạng lớn hơn để thống trị mặt đất, trong khi các loài khác trở thành có khả năng sinh sống trong lòng đại dương, các môi trường đất đặc biệt và thậm chí là cả trên không. Chim cũng tiến hóa đáng kể trong kỷ này, biến đổi về cơ bản gần giống như ngày nay. Trong kỷ này, phần lớn các nhánh khác của sự sống trên Trái Đất về cơ bản là ít thay đổi hơn so với chim và động vật có vú. Một số hoạt động chuyển động lục địa cũng diễn ra. Khí hậu về tổng thể là mát hơn trong toàn kỷ Paleogen và các biển nội địa đã rút ra khỏi Bắc Mỹ vào đầu kỷ này.

Kỷ này bao gồm các thế là Paleocen, EocenOligocen. Sự kết thúc của thế Paleocen (55,5/54,8 Ma) được đánh dấu bằng một trong những thời kỳ đáng kể nhất của sự thay đổi toàn cầu trong đại Tân Sinh. Đó là sự thay đổi đột ngột toàn cầu, được gọi là sự tối đa nhiệt thế Paleocen-thế Eocen, đã làm gia tăng lưu thông nước trong lòng đại dương và không khí trong khí quyển dẫn tới sự tuyệt chủng hàng loạt các loài trùng lỗ sống dưới đáy biển sâu và trên đất liền là sự tốc độ thay thế lớn ở động vật có vú. Kỷ Paleogen tiếp ngay sau kỷ Creta và kết thúc khi thế Miocen của kỷ Neogen bắt đầu. Thuật ngữ 'hệ thống Paleogen' (chính thức) và 'hệ thống Hạ đệ Tam' (không chính thức) được áp dụng cho các loại đá trầm tích trong 'kỷ Paleogen'. Thuật ngữ có vẻ gây nhầm lẫn này dường như là do các cố gắng để xử lý các đơn vị phân chia tương đối nhỏ của thời gian có thể trong quá khứ địa chất tương đối gần đây, khi mà có nhiều thông tin còn được lưu giữ. Bằng cách phân chia kỷ đệ Tam ra thành 2 kỷ thay vì 5 thế, thì các kỷ có thể so sánh được một cách gần gũi hơn với độ dài của các kỷ trong các đại Trung SinhCổ Sinh.
Các đơn vị phân chia của kỷ Paleogen từ cổ nhất đến trẻ nhất như sau:

  • Thế Paleocen
    • Giai đoạn tương ứng với tầng Đan Mạch: Từ 65,5 ± 0,3 đến 61,7 ± 0,2 Ma
    • Giai đoạn tương ứng với tầng Seland: Từ 61,7 ± 0,2 Ma đến 58,7 ± 0,2 Ma
    • Giai đoạn tương ứng với tầng Thanet: Từ 58,7 ± 0,2 Ma đến 55,8 ± 0,2 Ma
  • Thế Eocen
    • Giai đoạn tương ứng với tầng Ypres: Từ 55,8 ± 0,2 Ma đến 48,6 ± 0,2 Ma
    • Giai đoạn tương ứng với tầng Lutetia: Từ 48,6 ± 0,2 Ma đến 40,4 ± 0,2 Ma
    • Giai đoạn tương ứng với tầng Barton: Từ 40,4 ± 0,2 Ma đến 37,2 ± 0,2 Ma
    • Giai đoạn tương ứng với tầng Priabona: Từ 37,2 ± 0,1 Ma đến 33,9 ± 0,1 Ma
  • Thế Oligocen
    • Giai đoạn tương ứng với tầng Rupel: Từ 33,9 ± 0,1 Ma đến 28,4 ± 0,1 Ma
    • Giai đoạn tương ứng với tầng Chatte: Từ 28,4 ± 0,1 Ma đến 23,03 ± 0,05 Ma

 
T

thienlangbachoai

Khí hậu
Thời kỳ Tiền Paleocen là mát lạnh hơn một chút so với kỷ Creta trước đó, mặc dù nhiệt độ lại tăng lên vào cuối thế. Khí hậu nóng và ẩm ướt trên khắp thế giới, với thảm thực vật cận nhiệt đới phát triển ở cả GreenlandPatagonia. Hai địa cực có khí hậu ôn đới mát còn Bắc Mỹ, châu Âu, Australia và miền nam Nam Mỹ có khí hậu ôn đới ấm. Khí hậu nhiệt đới đặc trưng cho các khu vực ven xích đạo còn phía bắc và phía nam đường xích đạo thì khí hậu rất khô và nóng
Cổ địa lý học
Theo nhiều cách, thế Paleocen là thời kỳ tiếp tục các quá trình đã bắt đầu trong kỷ Creta. Trong thế Paleocen, các lục địa vẫn tiếp tục trôi dạt về các vị trí gần giống như ngày nay. Bắc Mỹ và châu Á vẫn còn được nối liền nhưng không liên tục bằng một cầu đất, trong khi Greenland và Bắc Mỹ đã bắt đầu tách rời[2]. Kiến tạo sơn Laramide của thời kỳ Hậu Creta vẫn tiếp tục nâng cao dãy núi Rocky tại miền tây Bắc Mỹ và nó chỉ kết thúc trong thế tiếp theo (thế Eocen).
Bắc và Nam Mỹ vẫn còn tách rời bởi một biển ven xích đạo (chúng nối liền vào nhau trong kỷ Neogen); các bộ phận của cựu siêu lục địa phương nam Gondwana vẫn tiếp tục tách rời nhau, với châu Phi, Nam Mỹ, châu Nam CựcAustralia đang rời xa nhau. Châu Phi hướng lên phía bắc về phía châu Âu, khép dần biển Tethys một cách chậm chạp còn tiểu lục địa Ấn Độ bắt đầu sự di chuyển của nó về phía châu Á dẫn tới va chạm kiến tạo và sự hình thành của dãy núi Himalaya.
Các biển nội địa tại Bắc Mỹ như Biển nội địa miền Tây và tại châu Âu đã rút xuống vào đầu thế Paleocen, mở đường cho quần động và thực vật mới sống trên đất liền.
Quần thực vật
Địa tầng đất liền thế Paleocen nằm ngay trên ranh giới K-T tại các khu vực được đánh dấu bằng "dải dương xỉ": một tầng đặc biệt giàu hóa thạch dương xỉ[3]. Các loài dương xỉ thường là những loài đầu tiên xâm chiếm các khu vực bị tổn thương do các vụ cháy rừng; vì thế dải dương xỉ có thể là sự chỉ ra của các phá hủy hậu núi lửa Chicxulub[4].
Nói chung, thế Paleocen được đánh dấu bằng sự phát triển của các loài thực vật hiện đại. Các loài xương rồngcau, dừa đã xuất hiện. Các hóa thạch thực vật thế Paleocen và muộn hơn nói chung được quy là thuộc các chi thực vật hiện đại hay các đơn vị phân loại có quan hệ họ hàng rất gần.
Nhiệt độ ấm áp trên khắp thế giới đã làm xuất hiện các cánh rừng lá sớm rụng nhiệt đới hay cận nhiệt đới bao phủ khắp toàn cầu (các rừng mưa nhiệt đới hiện đại được công nhận đầu tiên) với các khu vực ven địa cực không bị băng bao phủ được che phủ bằng các loài cây thông hay có lá sớm rụng[2]. Do không còn các loài khủng long to lớn gặm lá nên các cánh rừng trong thế Paleocen có lẽ là dày dặc hơn trong kỷ Creta.
Thực vật hạt kín (thực vật có hoa), lần đầu tiên thấy xuất hiện trong kỷ Creta, vẫn tiếp tục phát triển và sinh sôi nảy nở. Cùng với chúng là các côn trùng đồng tiến hóa để ăn các loài thực vật này hay thụ phấn cho chúng.
 
T

thienlangbachoai

Động vật có vú
Động vật có vú lần đầu tiên xuất hiện trong kỷ Trias và phát triển ngay sát cạnh khủng long, chúng khai thác các hốc sinh thái không bị các động vật to lớn và nổi tiếng hơn này của đại Trung Sinh động chạm tới: trong các bụi cây thấp và cao trên cây của các cánh rừng có nhiều côn trùng. Các động vật có vú nhỏ bé này (cũng như chim, bò sát, động vật lưỡng cư và côn trùng) đã thoát khỏi sự tuyệt chủng hàng loạt mà các loài khủng long không tránh được ở cuối kỷ Creta, giúp cho động vật có vú có thêm cơ hội đa dạng và phát triển trên khắp thế giới.
Trong khi các động vật có vú thời kỳ đầu có vóc dáng nhỏ bé và kiếm ăn về đêm, với khẩu phần ăn là rau cỏ và côn trùng thì sự diệt vong của khủng long cùng sự khởi đầu của thế Paleocen lại cho thấy chúng đã to lớn hơn, hung dữ hơn và cuối cùng trở thành những động vặt ăn thịt thống trị và lan rộng trên khắp thế giới. Mười triệu năm sau sự diệt vong của khủng long thì thế giới được điền đầy bằng các động vật có vú trông tương tự như các loài gặm nhấm, với các loài thú có kích thước trung bình bới tìm thức ăn trong các cánh rừng còn các loài thú ăn thịt và ăn cỏ có kích thước lớn săn bắt các loài thú, chim và bò sát khác.
Các động vật có vú thế Paleocen vẫn chưa có các răng/chi chuyên biệt hóa và tỷ lệ trọng lượng bộ não với trọng lượng cơ thể của chúng còn rất thấp. Khi so sánh với các dạng muộn hơn thì chúng chỉ là các dạng nguyên thủy hay cổ[5]. Mãi cho tới thế Eocen (khoảng 55 Ma) thì các động vật có vú hiện đại thật sự mới phát triển.
Các chứng cứ hóa thạch thuộc thế Paleocen là khá hiếm và vì thế người ta còn biết rất ít về các động vật có vú của thời kỳ này. Do kích thước nhỏ của chúng—cố định cho đến cuối thế—nên xương của động vật có vú thời kỳ đầu không được bảo quản tốt trong các mẫu hóa thạch và phần lớn những gì ngày nay người ta biết được là từ các chiếc răng hóa thạch (thành phần bền hơn cả) và chỉ một ít bộ xương[2].
Động vật có vú thế Paleocen bao gồm:

  • Các loài động vật đơn huyệt (bộ Monotremata): Ba loài động vật đơn huyệt còn sống sót tới ngày nay: thú mỏ vịt và hai loài thú lông nhím (họ Tachyglossidae). Monotrematum sudamericanum đã sinh sống trong thế Paleocen.
  • Thú có túi (cận lớp Marsupialia): các loài kangaroo (chuột túi) hiện đại là các loài thú có túi, với đặc trưng nuôi con trong túi trước bụng cho đến khi chúng trưởng thành. Loài thú có túi Pucadelphys andinus ở Bolivia là một ví dụ về động vật thế Paleocen.
  • Bộ Multituberculata: là nhánh lớn duy nhất của động vật có vú đã bị tuyệt chủng. Nhóm thú tương tự như động vật gặm nhấm này bao gồm cả chi Ptilodus sống tại Bắc Mỹ trong khoảng thời gian thuộc thế Paleocen.
  • Thú có nhau (nhóm Placentalia/Eutheria): Nhóm này của động vật có vú đã trở thành nhóm đa dạng nhất và thành công nhất. Các thành viên của nhóm này bao gồm các loài động vật móng guốc, linh trưởng và động vật ăn thịt, chẳng hạn như động vật guốc chẵn ăn thịt (bộ Mesonychia) thế Paleocen.
Bò sát
Do điều kiện khí hậu của thế Paleocen, các loài bò sát đã phân bổ rộng rãi hơn nhiều so với ngày nay. Trong số các loài bò sát cận nhiệt đới tìm thấy ở Bắc Mỹ trong thế địa chất này có họ Champsosauridae (các bò sát thủy sinh tương tự như cá sấu Ấn Độ hiện đại), cá sấu thật sự, rùa, rắn cổ đại, kỳ đàProtochelydra zangerli (tương tự như rùa nước ngọt ngày nay).
Các ví dụ về cá sấu cổ đại trong thế Paleocen bao gồm Champsosaurus gigas, loài cá sấu cổ lớn nhất đã phát hiện được. Loài này là bất thường trong số các bò sát của thế Paleocen ở chỗ C. gigas còn lớn hơn cả các tổ tiên đã biết của nó trong đại Trung Sinh. C. gigas dài gấp 2 lần các mẫu vật lớn nhất của kỷ Creta (3 m đối lại với 1,5 m của tổ tiên) trong khi các loài bò sát nói chung đều suy giảm kích thước sau sự kiện tuyệt chủng K-T. Các loài cá sấu cổ này vào cuối thế Paleocen đã suy giảm và trở thành tuyệt chủng vào cuối thế Eocen.
Các ví dụ về các loài cá sấu thật sự trong thế Paleocen là loài cá sấu Leidyosuchus formidabilis, động vật săn mồi hàng đầu và là động vật lớn nhất trong quần động vật suối Wannagan và dạng cá sấu agigator Wannaganosuchus. Khủng long có thể vẫn còn sống sót tới khoảng thời gian đầu tầng Đan Mạch của thế Paleocen, khoảng 64,5 Ma. Chứng cứ cho điều gây mâu thuẫn này là các mảnh xương chân của khủng long mỏ vịt (họ Hadrosauridae) tìm thấy trong các địa tầng thuộc thế Paleocen có niên đại khoảng 64,5 Ma tại Australia.
Chim
Chim bắt đầu đa dạng hóa trong thế này, chúng chiếm lĩnh các hốc sinh thái mới. Phần lớn các loại chim hiện đại dường như đã xuất hiện vào giữa đại Trung Sinh, bao gồm các loài chim sẻ (bộ Passeriformes), sếu (họ Gruidae), diều hâu (phân họ Accipitrinae), bồ nông (họ Pelicanidae), diệc (họ Ardeidae), (bộ Strigiformes), vịt (họ Anatidae), bồ câu (họ Columbiadae), chim lặn gavia (bộ Gaviiformes) và gõ kiến (phân họ Picinae).
Các loài chim ăn thịt lớn, không bay (gọi là chim kinh hoàng) cũng được tìm thấy trong các hóa thạch cuối thế Paleocen, bao gồm cả các loài chim gaston (chi Gastornis) tại châu Âu.
Các dạng cú thời kỳ đầu như Ogygoptynx (tại Hoa Kỳ) và Berruornis (tại Pháp) xuất hiện vào cuối thế Paleocen.
 
Q

quangtuannhoc

Tầng Đan Mạch
Tầng Đan Mạch (còn gọi là tầng Mons (tiếng Anh: Danian hay Montian[1]) là tầng đầu tiên của thế Paleocen, tạo thành phân thế Tiền Paleocen. Sự bắt đầu của tầng này được xác định bằng Sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-phân đại đệ Tam diễn ra khoảng 65,5 ± 0,3 triệu năm trước (Ma) khi tầng Maastricht kết thúc. Tầng này kết thúc vào khoảng 61,7 ± 0,2 Ma khi tầng Seland bắt đầu.
Mặc dù các loài khủng long không biết bay đã biến mất, nhưng động vật có vú và các động vật sống trên đất liền khác vẫn còn nhỏ bé, không có loài nào to lớn hơn con mèo lớn ngày nay. Nhưng phần lớn các bộ của động vật có vú đã xuất hiện. Hàng loạt các nhánh trực hệ của các loài chim hiện đại đã sống sót, cụ thể là trong khu vực xung quanh Australia. Các đại dương vẫn duy trì tương tự như trong giai đoạn cuối của kỷ Creta, chỉ có điều có ít sự sống hơn như không còn các loài bò sát sống trong lòng đại dương cũng như các loài động vật ít được biết đến khác.
Tên gọi
Tên gọi của tầng này lấy theo tên gọi của Đan Mạch do các hóa thạch tại khu vực Fakse Kalkbrud của nước này lần đầu tiên được phát hiện và nghiên cứu.
Tầng Seland
Tầng Seland hay Trung Paleocen là một tầng của thế Paleocen. Nó kéo dài từ khoảng 61,7 ± 0,2 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 58,7 ± 0,2 Ma.
Tên gọi của tầng này được đặt cho các địa tầng đại dương của Sjælland (Seeland/Zealand), một đảo lớn của Đan Mạch.
Tầng Thanet
Tầng Thanet (còn gọi là tầng Landen (Dumont, 1839) hay tầng Heers (Dumont, 1839) - lấy theo tên gọi của các làng nhỏ tương ứng ở đông bắc Bỉ[1]) là tầng cuối cùng của thế Paleocen, tương ứng với phân thế Hậu Paleocen. Nó kéo dài từ khoảng 58,7 ± 0,2 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 55,8 ± 0,2 Ma.
Quần thực vật Sézanne là tập hợp hóa thạch được bảo tồn trong các trầm tích đá vôi nước ngọt tại Sézanne, tích lũy lại trong thời kỳ của tầng Thanet, khi mà châu Âu nằm trong hu vực có khí hậu nhiệt đới.
Tên gọi của tầng này được đặt theo tên gọi của dải cát Thanet, đảo Thanet, Kent, Anh.
 
T

thienlangbachoai

Thế Eocen

Thế Eocen hay thế Thủy Tân (55,8 ± 0,2 – 33,9 ± 0,1 triệu năm trước (Ma)) là một đơn vị phân chia chính trong niên đại địa chất và là thế thứ hai của kỷ Paleogen trong đại Tân Sinh. Thế Eocen kéo dài từ khi kết thúc thế Paleocen cho tới khi bắt đầu thế Oligocen. Sự bắt đầu của thế Eocen được đánh dấu bằng sự xuất hiện của những động vật có vú hiện đại đầu tiên. Sự kết thúc xuất hiện khi có sự kiện tuyệt chủng chính gọi là Grande Coupure (sự "Đại Phá vỡ"), có thể có liên quan tới va chạm của một hay nhiều sao băng lớn ở Siberi và ở khu vực ngày nay là vịnh Chesapeake. Giống như các thế địa chất khác, các địa tầng xác định sự bắt đầu và kết thúc của thế đã được xác định khá rõ,[1] mặc dù niên đại chính xác của nó vẫn còn chưa được chắc chắn.
Tên gọi Eocen có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp ώς (eos, bình minh) và καινός (kainos, mới) và nó có nghĩa là "bình minh" của quần động vật có vú hiện đại ('mới') đã xuất hiện trong thế địa chất này.
Phân chia

Thế Eocen thông thường được chia ra thành Tiền và Hậu; hay Tiền, Trung và Hậu Eocen. Các tầng đá tương ứng được gọi là Hạ, Trung và Thượng Eocen. Các tầng động vật từ trẻ nhất tới già nhất là:
Priabona
(37,2 ± 0,1 – 33,9 ± 0,1 Ma)
Barton
(40,4 ± 0,2 – 37,2 ± 0,1 Ma)
Lutetia
(48,6 ± 0,2 – 40,4 ± 0,2 Ma)
Ypres
(55,8 ± 0,2 – 48,6 ± 0,2 Ma)
Tầng Ypres và đôi khi cả tầng Lutetia tạo ra Tiền/Hạ Eocen, tầng Priabona và đôi khi cả tầng Barton tạo thành Hậu/Thượng Eocen; phần còn lại (tầng Lutetia và tầng Barton) là Trung Eocen.
Khí hậu

Đánh dấu sự bắt đầu của thế Eocen, Trái Đất bị nóng lên trong một trong những (theo thuật ngữ địa chất) sự kiện nóng ấm toàn cầu nhanh và mạnh nhất đã được ghi nhận lại trong lịch sử địa chất, gọi là Cực đại nhiệt Paleocen-Eocen hay Cực đại nhiệt khởi đầu Eocen (PETM hay IETM). Đây là một giai đoạn nóng ấm nhanh và mãnh liệt (tới 7°C ở các vĩ độ lớn) kéo dài trong chưa tới 100.000 năm [2]. Cực đại nhiệt sinh ra sự kiện tuyệt chủng rõ nét và nó tạo ra sự khác biệt rõ nét của quần động vật thế Eocen với hệ sinh thái của thế Paleocen.
Khí hậu toàn cầu trong thế Eocen có lẽ là đồng đều nhất trong đại Tân Sinh; gradient nhiệt độ từ xích đạo tới hai địa cực chỉ bằng khoảng một nửa gradient ngày nay, và các hải lưu sâu là rất ấm.[3] Các vùng cận kề địa cực là ấm hơn so với ngày nay, có thể chỉ giống như khu vực tây bắc Thái Bình Dương hiện nay; các cánh rừng ôn đới kéo dài tới vùng cực, trong khi khí hậu nhiệt đới nhiều mưa kéo dài về phía bắc tới vĩ độ 45. Khác biệt là lớn nhất tại các vĩ độ ôn đới ngày nay; tuy nhiên, khí hậu tại các vùng nhiệt đới có lẽ là tương tự như ngày nay.[4]
Khí hậu được duy trì là ấm trong toàn bộ thế Eocen, mặc dù sự lạnh toàn cầu được kích thích bởi sự kiện Azolla, cuối cùng đã dẫn tới sự băng hà hóa trong thế Pleistocen, được bắt đầu khi các dòng hải lưu xung quanh châu Nam Cực hình thành.
 
T

thienlangbachoai

Cổ địa lý học

Trong thế Eocen, các châu lục vẫn tiếp tục trôi dạt về vị trí như ngày nay của chúng.
Vào đầu thế này, Australia và châu Nam Cực vẫn còn nối liền, các hải lưu xích đạo ấm nóng trộn lẫn với các vùng nước lạnh ở ven Nam cực, phân bố nhiệt xung quanh thế giới và giữ cho nhiệt độ toàn cầu nằm ở mức cao. Nhưng khi Australia tách rời khỏi lục địa phía nam vào khoảng 45 Ma, các hải lưu ấm xích đạo bị chệch hướng khỏi châu Nam Cực và kênh nước lạnh cô lập phát triển giữa hai lục địa. Khu vực châu Nam Cực bị lạnh đi và các vùng biển ven nó bắt đầu đóng băng, làm cho nước lạnh và các tảng băng nổi bị đẩy lên phía bắc càng làm gia tăng quá trình lạnh đi.
Siêu lục địa Laurasia ở phía bắc bắt đầu tách ra, do châu Âu, GreenlandBắc Mỹ đã trôi dạt ra xa nhau.
Ở miền tây Bắc Mỹ, quá trình hình thành núi đã bắt đầu trong thế Eocen, và các hồ rộng lớn được hình thành trong các vùng lòng chảo phẳng trên cao giữa các vùng nhô lên, kết quả tạo ra trầm tích của nơi lưu giữ thành hệ sông Green.
Tại châu Âu, biển Tethys cuối cùng đã biến mất, trong khi sự nâng lên của dãy núi Alps đã cô lập dấu tích cuối cùng của nó (Địa Trung Hải) và tạo ra một biển nông khác với các quần đảo ở phía bắc. Mặc dù Bắc Đại Tây Dương đã mở ra, nhưng cầu nối đất liền dường như vẫn tồn tại giữa Bắc Mỹ và châu Âu do các quần động vật của hai khu vực này vẫn rất giống nhau.
Ấn Độ vẫn tiếp tục hành trình của mình ra xa châu Phi và bắt đầu va chạm với châu Á, làm cho dãy núi Himalaya bắt đầu được hình thành.
Một giả thuyết cho rằng thế giới nhà kính Eocen là do sự ấm toàn cầu xảy ra rất nhanh từ sự giải phóng băng mêtan sâu trong lòng đại dương. Các khối băng mêtan bị vùi lấp dưới bùn và bị khuấy động khi đại dương nóng lên. Mêtan (CH4) có hiệu ứng nhà kính gấp 10-20 lần so với điôxít cacbon (CO2).
Quần thực vật

Vào đầu thế Eocen, nhiệt độ cao và đại dương nóng ấm tạo ra môi trường ẩm và dịu, với các khu rừng trải rộng tới hai cực của Trái Đất. Ngoài các khu vực sa mạc khô cằn, nói chung Trái Đất được rừng che phủ.
Các khu rừng vùng cực là khá rộng lớn. Các hóa thạch và thậm chí các dấu tích được bảo tồn tốt của các loài cây thân gỗ như thủy tùng, bụt mọccủ tùng có từ thế Eocen đã được tìm thấy ở đảo Ellesmere trong khu vực ven Bắc cực của Canada. Các dấu tích còn lại được bảo tồn ở Canada không là hóa thạch, mà là các mảnh gỗ được bảo tồn trong nước nghèo ôxy trong các rừng đầm lầy vào thời gian đó và sau đó bị vùi lấp trước khi có cơ hội phân hủy. Thậm chí vào thời gian đó, đảo Ellesmere chỉ ở phía nam vài độ so với vị trí hiện tại của nó. Các hóa thạch của các cây thân gỗ cận nhiệt đới hay thậm chí nhiệt đới từ thế Eocen cũng được tìm thấy ở GreenlandAlaska. Các rừng mưa nhiệt đới phát triển xavề phía bắc tới tận tây bắc Thái Bình Dươngchâu Âu.
Các loài cau, dừa đã mọc xa về phía bắc tới Alaska và miền bắc châu Âu vào đầu thế Eocen, mặc dù chúng trở nên ít phổ biến hơn khi khí hậu lạnh đi. Củ tùng cũng trải rộng như vậy.
Quá trình lạnh đi bắt đầu từ giữa thế, và vào cuối thế Eocen thì các khu vực sâu trong lục địa đã bắt đầu khô đi, với các cánh rừng trở nên mỏng hơn một cách đáng kể ở một vài khu vực. Các loài cỏ mới tiến hóa vẫn còn thịnh vượng ven các bờ sông và hồ nhưng vẫn chưa lan rộng vào các bình nguyênxavan.
Quá trình lạnh đi cũng đem lại các thay đổi theo mùa. Các cây lá sớm rụng, có khả năng thích nghi tốt hơn với các thay đổi nhiệt độ lớn, đã bắt đầu lấn át các loài cây thường xanh nhiệt đới. Vào cuối thế, các cánh rừng cây lá sớm rụng bao phủ phần lớn các lục địa phương bắc, bao gồm Bắc Mỹ, đại lục Á-Âu và ven Bắc cực, còn các rừng mưa chỉ tồn tại ven xích đạo thuộc Nam Mỹ, châu Phi, Ấn ĐộAustralia.
Châu Nam Cực, bắt đầu thế Eocen với việc nằm cận kề các rừng mưa cận nhiệt đới và ôn đới, thì trở thành lạnh hơn khi thế này tiếp tục trôi đi; các quần thực vật ưa nhiệt đã bị tiêu diệt và khi bắt đầu thế Oligocen, châu lục này là các rừng cây lá sớm rụng cũng như các tundra rộng lớn.
 
T

thienlangbachoai

Quần động vật



Mesonyx, một động vật ăn thịt có móng guốc
Các hóa thạch cổ nhất đã biết của phần lớn các bộ động vật có vú hiện đại đã xuất hiện trong một thời kỳ ngắn trong đầu thế Eocen. Vào đầu thế Eocen, một vài nhóm động vật có vú mới đã tới Bắc Mỹ. Các động vật có vú mới này, như động vật guốc chẵn, động vật guốc lẻlinh trưởng, có các đặc trưng như chân, tay dài và mảnh dẻ, có khả năng nắm, túm, cũng như bộ răng đã phân biệt, thích nghi với việc nhai. Các dạng lùn ngự trị. Tất cả các thành viên của các bộ động vật có vú mới đều nhỏ, dưới 10 kg; dựa trên so sánh kích thước răng, các động vật có vú trong thế Eocen chỉ có kích thước khoảng 60% của các động vật có vú nguyên thủy trong thế Paleocen diễn ra trước đó. Chúng cũng có kích thước nhỏ hơn so với động vật có vú của các thế sau đó. Người ta giả thiết rằng nhiệt độ cao và nóng bức của thế Eocen là thích hợp hơn cho các động vật nhỏ, những động vật có khả năng thích nghi với nhiệt tốt hơn.
Cả hai nhóm động vật móng guốc hiện đại trở nên thịnh hành do sự trôi dạt ra chính của châu Âu và Bắc Mỹ; cùng với các động vật ăn thịt có móng guốc như Mesonyx. Early forms of many other modern mammalian orders appeared, including dơi (Chiroptera), động vật có vòi (Proboscidea), linh trưởng (Primata), động vật gặm nhấm (Rodentia) và Thú đơn huyệt (Marsupialia). Các dạng nguyên thủy cổ hơn của động vật có vú bị suy giảm kể cả về đa dạng cũng như tầm quan trọng. Các dấu tích hóa thạch của quần động vật đất liền quan trọng trong thế Eocen cũng được tìm thấy ở miền tây Bắc Mỹ, châu Âu, Patagonia, Ai CậpĐông Nam Á. Các quần động vật biển được biết đến tốt nhất có ở Nam Á và đông nam Hoa Kỳ.
Các hóa thạch của bò sát trong thời kỳ này, chẳng hạn các hóa thạch của trăn và rùa, là khá phổ biến.
Trong thế Eocen, thực vật và quần động vật biển đã trở thành khá hiện đại. Nhiều bộ chim hiện đại cũng lần đầu tiên xuất hiện trong thế Eocen.
Một số nhà khoa học tin rằng những loài linh trưởng lần đầu tiên đã xuất hiện vào khoảng 55 Ma trong thời kỳ tầng Ypres của thế Eocen; tuy nhiên, đồng hồ phân tử và các phát hiện cổ sinh vật học mới cho rằng các linh trưởng đầu tiên đã xuất hiện sớm hơn, vào khoảng 90 Ma, nghĩa là trong kỷ Phấn Trắng.
Đại dương

Các đại dương trong thế Eocen ấm và dồi dào cùng các sinh vật biển khác. Các loài cá mập thật sự (Carcharhiniformes) lần đầu tiên xuất hiện, cũng như các động vật có vú sống dưới biển đầu tiên, như Basilosaurus, một trong những chi cá voi đầu tiên, được coi là hậu duệ của động vật trên đất liền, những động vật săn mồi có móng guốc như động vật vuốt giữa (Mesonychia), trong đó Mesonyx là một thành viên. Những thành viên đầu tiên của bộ Hải ngưu (Sirenia), các họ hàng gần của voi, cũng xuất hiện trong thời gian này.
 
T

thienlangbachoai

Grande Coupure

Sự kiện kết thúc "thế Eocen".
Grande Coupure, hay "Đại Phá vỡ" (Còn gọi là sự kiện MP 21) với tốc độ thay thế lớn quần động vật có vú của châu Âu vào khoảng 33,5 Ma, đánh dấu sự kết thúc thế Eocen trong tầng Priabona, và sự xuất hiện của các động vật có vú di cư từ châu Á sang. Grande Coupure được đặc trưng bằng sự tuyệt chủng phổ rộng và hình thành loài cục bộ ở các quần thể sinh vật cổ nhỏ và cô lập (được gọi là "nguồn gốc phát sinh rời rạc" trong Hooker và ctv. 2004) Nó được nhà cổ sinh vật học Thụy Sĩ là Hans Georg Stehlin,[5] đặt tên năm 1910 để khái quát hóa tốc độ thay đổi đột ngột của quần động vật có vú châu Âu, mà ông đặt làm ranh giới cho thế Eocen với thế Oligocen. Tốc độ thay đổi có thể so sánh được ở quần động vật châu Á được gọi là "Tu sửa Mông Cổ".
Grande Coupure đánh dấu sự phá vỡ giữa các quần động vật đặc hữu châu Âu trước khi có sự phá vỡ và các quần động vật hỗn hợp với các thành phần nguồn gốc châu Á sau đó. J.J. Hooker và các cộng tác viên đã tổng quát hóa sự phá vỡ này như sau:
"Quần động vật Tiền-Grande Coupure chủ yếu là họ guốc chẵn Palaeotheriidae (họ hàng xa của ngựa), 6 họ guốc lẻ (động vật móng chẻ) (Anoplotheriidae, Xiphodontidae, Choeropotamidae, Cebochoeridae, DichobunidaeAmphimerycidae), họ gặm nhấm Pseudosciuridae, các họ linh trưởng OmomyidaeAdapidae, họ dạng chuột chù Nyctitheriidae.
"Quần động vật Hậu-Grande Coupure bao gồm tê giác thật sự (họ Rhinocerotidae), ba họ guốc chẵn (Entelodontidae, AnthracotheriidaeGelocidae) có họ hàng tương ứng với lợn, hà mãđộng vật nhai lại, các họ gặm nhấm Eomyidae, Cricetidae (chuột đồng) và Castoridae (hải ly), và họ nhím gai Erinaceidae. Các chi Palaeotherium cộng Anoplotherium và các họ Xiphodontidae, Amphimerycidae đã biến mất hoàn toàn.
"Chỉ có họ động vật đơn huyệt Herpetotheriidae, họ động vật guốc chẵn Cainotheriidae, và các họ gặm nhấm Theridomyidae, Gliridae (chuột sóc) vượt qua sự phân chia quần động vật mà không giảm bớt." (Hooker và ctv. 2004)
Việc thay đổi đột ngột này có do thay đổi khí hậu gắn liền với sự băng hà hóa vùng cực sớm hơn [6] và sự rút xuống mạnh của mực nước biển gây ra, hay bởi sự cạnh tranh với các nhóm động vật phát nguồn từ châu Á hay không, nhưng có rất ít biện luận cho một lý do đơn nhất. Các nguyên nhân lạ lẫm hơn có liên quan tới va chạm của một hay nhiều sao băng lớn tại Siberivịnh Chesapeake. Độ tương quan đã cải tiến về các chuỗi sự kiện kế tiếp nhau ở tây bắc châu Âu với các sự kiện toàn cầu (Hooker và ctv. 2004) xác nhận Grande Coupure diễn ra vào đầu thế Oligocen, với khoảng gián đoạn khoảng 350.000 năm trước khi có các nhóm động vật di cư từ châu Á sang sau Grande Coupure.
Một thành phần trong mô hình Grande Coupure là sự tuyệt chủng rõ ràng của mọi loài linh trưởng gốc châu Âu vào thời gian Grande Coupure. Phát hiện gần đây[7] về linh trưởng họ Omomyidae kích thước cỡ con chuột ở đầu thế Oligocen, phản ánh cơ hội sống sót tốt hơn của các động vật có vú với kích thước nhỏ bé, tiếp tục cắt ngắn mô hình Grand Coupure.
 
T

thienlangbachoai

Tầng Ypres

Tầng Yprestầng đầu tiên của thế Eocen. Nó trải dài trong khoảng thời gian từ 55,8 ± 0,2 triệu năm trước (Ma) tới 48,6 ± 0,2 Ma. Tầng này được đặt tên theo Ypres, Bỉ. Đá phiến sét Messel nổi tiếng tại Đức thuộc về tầng này. Các loài linh trưởng (Primates) có lẽ đã xuất hiện vào khoảng 55 Ma, mặc dù đồng hồ phân tử và các phát hiện mới của cổ sinh vật học cho rằng chúng có thể đã tồn tại từ sớm hơn, vào cuối kỷ Phấn Trắng, cỡ 90 Ma.
Tầng Lutetia

Tầng Lutetia là một tầng thuộc về giữa thế Eocen. Nó kéo dài trong khoảng từ 48,6 ± 0,2 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 40,4 ± 0,2 Ma.
Tầng Lutetia được đặt tên theo Lutetia, tên gọi trong tiếng Latin để chỉ Paris.
Tầng Priabona

Tầng Priabona (còn gọi là tầng Jackson hay tầng Runangan) là tầng cuối cùng của thế Eocen. Tầng này trải dài trong khoảng thời gian từ 37,2 ± 0,1 triệu năm trước (Ma) tới 33,9 ± 0,1 Ma. Tên gọi của tầng này lấy theo tên gọi của Priabona, một khu vực thuộc Vicenza, Ý.
Tầng này bắt đầu khi có các hóa thạch của Chiasmolithus oamaruensis và kết thúc trước khi có hóa thạch của trùng lỗ phù du Hantkenina.
 
T

thienlangbachoai

Thế Oligocen

Thế Oligocen hay thế Tiệm Tân là một thế địa chất kéo dài từ khoảng 33,9 tới 23 triệu năm trước (Ma). Giống như các thế địa chất khác, các tầng đá xác định thế địa chất này được nhận dạng khá rõ nhưng niên đại chính xác của các điểm bắt đầu và kết thúc thế này là chưa chắc chắn. Tên gọi Oligocen có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp λίγος (oligos, hơi, một chút) và καινός (kainos, mới), và nó chỉ tới sự thưa thớt của các quần động vật dạng thú hiện đại bổ sung sau sự bùng nổ tiến hóa trong thế Eocen. Thế Oligocen diễn ra sau thế Eocen và tiếp theo nó là thế Miocen. Thế Oligocen là thế thứ ba và cuối cùng của kỷ Paleogen.
Thế Oligocen thông thường được coi là thời gian chuyển tiếp quan trọng, mối liên kết giữa "thế giới cổ của thế Eocen nhiệt đới với các hệ sinh thái trông hiện đại hơn của thế Miocen."
Sự bắt đầu của thế Oligocen được đánh dấu bằng sự kiện tuyệt chủng chính có thể liên quan tới va chạm của vật thể lớn ngoài Trái Đất tại Siberi và/hoặc gần vịnh Chesapeake. Ranh giới Oligocen-Miocen không được thiết lập bằng sự kiện dễ dàng nhận dạng ở quy mô toàn thế giới mà bằng các ranh giới khu vực giữa thế Oligocen ấm áp hơn và thế Miocen tương đối lạnh hơn.
Phân chia

Các tầng động vật từ trẻ nhất tới già nhất của thế Oligocen là:
Chatte hay Hậu Oligocen
(28,4 ± 0,1 – 23,03 Ma)
Rupel hay Tiền Oligocen
(33,9 ± 0,1 – 28,4 ± 0,1 Ma)
Khí hậu

Khí hậu vẫn còn được duy trì ở ngưỡng ấm, mặc dù quá trình làm lạnh toàn cầu diễn ra chậm chạp để cuối cùng dẫn tới quá trình băng hóa trong thế Pleistocen đã bắt đầu vào cuối thế này.
Cổ địa lý học

Trong thế này, các lục địa vẫn tiếp tục trôi dạt về phía vị trí ngày nay của chúng. Châu Nam Cực tiếp tục trở nên cô lập hơn và cuối cùng đã phát triển các chỏm băng vĩnh cửu[1].
Quá trình hình thành núi ở miền tây Bắc Mỹ vẫn tiếp tục, và dãy núi Alps đã bắt đầu được nâng lên ở châu Âu do mảng châu Phi vẫn tiếp tục đẩy về phía bắc vào mảng Á-Âu, cô lập dần các dấu tích còn lại của biển Tethys. Sự xâm nhập lòng đại dương trong thời gian ngắn đánh dấu đầu thế Oligocen ở châu Âu. Tình trạng phơi bày lòng biển trong thế Oligocen là hiếm ở Bắc Mỹ. Có lẽ dường như còn tồn tại cầu đất liền ở đầu thế Oligocen giữa Bắc Mỹchâu Âu do các quần động vật của hai khu vực là khá giống nhau. Trong một khoảng thời gian của thế Oligocen, Nam Mỹ cuối cùng đã tách rời khỏi châu Nam Cực và trôi dạt về phía bắc về phía Bắc Mỹ. Điều này cho phép hải lưu vòng quanh Nam Cực được lưu thông, càng làm nguội lạnh nhanh châu lục này.
Quần thực vật

Thực vật hạt kín vẫn tiếp tục sự bành trướng của chúng ra khắp thế giới; các cánh rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới được thay thế bằng các đồng rừng lá sớm rụng ôn đới. Các đồng bằng thưa cây cối và sa mạc trở nên phổ biến hơn. Cỏ phát triển từ môi trường sống ven bờ sông trong thế Eocen vào các vùng đất rộng; tuy nhiên ngay kể cả vào cuối thế này thì chúng vẫn chưa là phổ biến cho các xavan .
Tại Bắc Mỹ, các loài cận nhiệt đới thống lĩnh với đào lộn hộtvải hiện diện, còn các loài cây ôn đới như hoa hồng, sồithông là phổ biến. Các loài cây họ Đậu cũng lan tỏa còn các loài cói, hương bồ, cỏ năn tượngdương xỉ vẫn tiếp tục sự thịnh vượng của mình.
Quần động vật

Các quần động vật đất liền quan trọng trong thế Oligocen tìm thấy gần như trên mọi lục địa, ngoại trừ Australia. Cảnh quan thoáng đãng hơn cho phép động vật có thể phát triển với kích thước lớn hơn so với kích thước chúng có sớm hơn trong kỷ Paleogen[1]. Các quần động vật biển trở nên tương đối hiện đại, giống như các quần động vật có xương sống trên đất liền ở các lục địa phía bắc. Điều này có lẽ là do kết quả của các dạng cổ hơn đang biến dần đi hơn là kết quả của sự tiến hóa của các dạng hiện đại hơn.
Nam Mỹ khi đó dường như là cô lập với các lục địa khác và tại đây đã tiến hóa quần động vật hoàn toàn khác biệt trong thế Oligocen.
Động vật bò sát là phổ biến trong thế Oligocen. Choristodera, một nhóm bò sát hai cung bên (có thể là cận lớp Archosauromorpha?) sống bán thủy sinh, hình dáng tương tự như cá sấu và có nguồn gốc từ kỷ Jura (rất có thể là xa tới cuối kỷ Trias). Vào đầu thế Oligocen, nhóm Choristodera bị tuyệt chủng, có thể là do các thay đổi khí hậu. Rắnthằn lằn đã bắt đầu đa dạng hóa ở mức độ nhất định.
Các động vật có vú bao gồm: Brontotherium, Indricotherium, Entelodont, Hyaenodon, Mesohippus. Các dạng tương tự như voi (Proboscidea), cũng hiện diện.
Quần động vật biển trong thế Oligocen là tương tự ngày nay, chẳng hạn như các động vật hai mảnh vỏ. Các dạng cá voi tấm sừng hàm và có răng vừa mới xuất hiện, và tổ tiên của chúng, cá voi cổ (Archaeoceti) vẫn còn tương đối phổ biến nhưng số lượng đã suy giảm khi thế Oligocen trôi đi do các thay đổi khí hậu cũng như do cạnh tranh với các nhóm cá voi hiện đại cùng cá mập thật sự (bộ Carcharhiniformes), cũng xuất hiện trong thế này. Các loài hải cẩu (siêu họ Pinnipedia) có lẽ đã xuất hiện vào gần cuối thế này từ các tổ tiên giống như gấu hay rái cá.
Đại dương
Các đại dương tiếp tục lạnh đi, cụ thể là xung quanh châu Nam Cực.
 
Y

yo_ko_khoc_nhe_9x

Ôi trời bạn copy hay ghi đó bạn rảnh thật :p
nhưng đay là chuyên môn cua nghanhf nào
 
Top Bottom