Sử dụng hình ảnh “ yên ba thâm xứ “ trong Nguyên Tiêu, HCM đã hiện đại hoá một vẻ đẹp thơ cổ . Nếu nơi xa xăm khói sóng kia, nhà thơ xưa bày tỏ những nỗi niềm u hoài thì HCM lại đang hành động , đang bàn việc quân , bàn bạc những bước phát triển mới cuả kháng chiến. Nếu Thôi Hộ nhìn khói sóng trên sông mà cảm hoài về quá khứ hạc vàng không còn nưã, Cao bá Quát nhìn thấy con thuyền đánh cá nơi xa xăm khói sóng mà buông xuôi chuyện thế sự thăng trầm, thì HCM lại dấn thân vào nơi xa xăm khói sóng để hành động cho sự phát triển lịch sử. Đó là một vẻ đẹp mà thơ Đường không hề có.
Đêm trăng nguyên tiêu như mờ đi một chút ở câu 3 , thì bỗng sáng hơn ở câu 4. Trên nền cuả sông nước, trời cao là hình ảnh con thuyền chở đầy trăng, trở về trong đêm khuya
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Có một khoảng lặng ý tại ngôn ngoại giưã câu thơ thứ ba và thứ tư . Trên sông, nơi xa xăm khói sóng HCM vẫn bàn việc quân. Có lẽ đó là một cuộc họp bàn quan trọng và căng thẳng, vì mãi đến nưả đêm Người mới trở về. Không gian, thời gian, sông nước đêm trăng như nén lại trong tịch mịch
Rồi cảm hứng thơ lại từ hiện thực vút bay vào thế giới lãng mạn . “ Nưả đêm trở về, trăng đầy thuyền “
Nhà thơ chiến sĩ trở về với cốt cách thi nhân, chan hoà trong thiên nhiên, để cho thiên nhiên chiếm lĩnh toàn bộ hồn thơ. Trăng đầy thuyền, nhà thơ đã hoá thân vào trăng. Con thuyền họp bàn việc quân giờ là thuyền đầy trăng.
Ở câu thơ thứ nhất, trăng là trăng tròn ( nguyệt chính viên ), đến câu thơ cuối, trăng là trăng đầy
( nguyệt mãn thuyền ). Hình tượng thơ, trong từng câu thơ tưởng như đứng yên, nhưng thực ra lại đang vận động, vận động đa chiều. Vận động cuả thời gian trong đêm; vận động cuả sự chuyển hoá cảnh vật, sông, nước, trời; vận động cuả thi nhân thành chiến sĩ; vận động cuả hiện thực kháng chiến, sau “ đàm quân sự’, kháng chiến sẽ tiến lên một bước phát triển mới , dù hiện tại vẫn còn trong bí mật; và vận động cuả trăng. Trăng tròn trở thành trăng đầy . Trăng gần hơn , trăng sáng hơn , trăng “ viên mãn “. (Xin lưu ý chữ “ viên mãn “cuả nguyên tác). Sự viên mãn không chỉ ở trăng tròn đầy, ở không gian đầy ánh trăng , thanh bình , an nhiên; mà ở trong cảm thức cuả nhà thơ. Hiện thực kháng chiến viên mãn, tương lai viên mãn ..Chính những vận động nội tại này cuả Nguyên Tiêu đã làm lay động tâm hồn người đọc.
Thực khó tưởng tượng được, trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ như vậy, HCM lại có được một hồn thơ đầy sức sống , trẻ trung, cao rộng, trong ngần và “ viên mãn “ đến vậy. HCM trong câu thơ“ Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền “ như người xưa, đắm mình trên sông nước mênh mang ánh trăng , đắm mình cùng thiên nhiên đất nước dào dạt vẻ xuân, sức xuân. Nếu không có tứ “ đàm quân sự”, thì HCM là hồn thơ phương Đông tìm về thiên nhiên, hoà cái tiểu ngã vào cái đại ngã , tìm về với Đạo ( tư tưởng cuả Lão Tử ) .Giờ đây HCM an nhiên trong cảnh đẹp cuả đất nước tự do, hoà mình trong hiện thực kháng chiến ngời sáng . Tình yêu thiên nhiên và tình yêu nước cùng ngân vang, trong tâm hồn nhà thơ chiến sĩ. HCM dấn thân vào nơi xa xăm khói sóng để bàn việc quân , rồi trở về trong ánh sáng “ viên mãn “cuả đất nước . Đó là một tứ thơ mới mà thơ cổ điển không có. Bởi vì nhà thơ xưa mất hút trong nỗi buồn thương mịt mờ khói sóng ( yên ba giang thượng sử nhân sầu ), còn nhà thơ Lãng Mạn ( 1930-1945) lại chìm trong nỗi cô đơn cuả cái tôi bé nhỏ vô vọng.
Trong dòng chảy cuả thi ca dân tộc, tứ thơ “ nưả đêm trở về, thuyền đầy trăng “ lại gợi ra những liên tưởng thú vị khác. Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ cuả Hàn Mặc Tử ( HMT ) có tứ thơ về trăng rất tuyệt .
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
HMT thảng thốt hỏi trong đêm trăng. Như ném hồn mình vào cõi không tuyệt vọng. Không có câu trả lời! Đây Thôn Vĩ Dạ được viết khi bệnh phong cùi cuả ông đã trầm trọng. Ông phải vào trại phong Quy Hoà , sống xa cõi người. Sẽ chẳng bao giờ còn trở về với cuộc đời nưã. Ở nơi khổ đau tuyệt vọng ấy, HMT chới với níu kéo lấy sự sống, hụt hẫng ôm giữ kỷ niệm và mỏi mong chờ đợi một thời khắc.. .Hồn thơ HMT chìm trong cõi siêu thực. Con thuyền đã đậu bến sông trăng thì còn về đâu ?. Tại sao lại mong chờ con thuyền chở trăng ?. Ông biết rằng không còn kịp nưã !.
Câu thơ cuả HCM như vưà trả lời , vưà phủ định câu hỏi ấy cuả HMT ( tôi chỉ giả định vậy )
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Thuyền về kịp , thuyền chở đầy trăng, và là trăng hiện thực, trăng cuả một đất nước tươi đẹp và tương lai tươi sáng. Đấy là sự khác biệt cuả hồn thơ, cuả hoàn cảnh đất nước, trước và sau Cách mạng tháng tám 1945.
Lại nói về sự khác biệt cuả nhà thơ HCM với nhà thơ xưa. Trong bài Nguyên Tiêu, HCM đứng ở thời điểm hiện tại “ đêm nay “, theo dòng sông hướng tới chân trời, rồi vươn lên cao trên bầu trời. Đó là tầm nhìn dài rộng về phiá trước, trong ánh sáng và sức sống mùa xuân ( xuân giang , xuân thuỷ tiếp xuân thiên ). Dòng sông xuân nối tiếp với trời xuân là một tứ thơ có ý nghiã tư tưởng. Con người, từ vị trí hiện tại hướng về tương lai, trong tư thế làm chủ đất nước, làm chủ lịch sử, khác hẳn với nhà thơ xưa. Thi nhân xưa nhìn dòng sông từ trời đổ xuống, con người bé nhỏ.
Quân bất kiến Hoàng hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
(Anh chẳng thấy, nước sông Hoàng từ trời xuống , Chảy nhanh ra biển,chẳng quay về, )
( Lý Bạch – Tương Tiến Tửu )
Tứ thơ thật hùng vĩ, mới lạ . Nước Hoàng hà từ trên trời xuống , đổ ra biển không trở lại. Nhưng phải chăng tứ thơ ấy phản ánh cái nhìn Thiên Mệnh. Từ Trời đổ xuống, chụp lấy số mệnh con người , thân phận con người trôi đi như một tất yếu bất biến, không cưỡng lại được như dòng Hoàng Hà đổ ra biển không bao giờ trở lại. Cái nhìn ấy là cái nhìn duy tâm , bi quan, cam chịu. Cái nhìn cuả HCM khác hẳn. Đó là cái nhìn cuả nhà thơ chiến sĩ, cái nhìn cách mạng về hiện thực, cái nhìn phát triển tươi đẹp.
Nhân đây xin thử đọc thơ Nguyên Tiêu cuả nhà thơ xưa .
Bạch Cư Dị có bài Trường An chính nguyệt thập ngũ nhật
“ Huyên huyên xa kỵ đế vương châu
Ky bệnh vô tâm trục thắng du
Minh nguyệt thanh phong tam ngũ dạ
Vạn nhân hành lạc nhất nhân sầu.”(8)
Dịch thơ:
Xe ngưạ rầm rầm chốn đế châu
Quê người đau ốm thiết gì đâu
Đêm rằm gió mát trăng thanh đó
Muôn kẻ mua vui, một kẻ sầu
( Hoàng Tạo dịch – Thơ Bạch Cư Dị, Nxb tổng hợp Đồng Nai .2000 )
Nguyễn Du có bài Quỳnh Hải Nguyên Tiêu (7)
“ Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thuyền quyên
Nhất thiên xuân hứng, thuỳ gia lạc,
Vạn lý Quỳnh Châu (7) thử dạ viên.
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tản,
Bạch đầu đa hận tuế thì thiên
Cùng đồ lân nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập niên.” (8)
Dịch thơ
Nguyên Tiêu sân vắng nguyệt đầy trời
Vẫn thế Hằng Nga sắc chẳng phai
Muôn dặm Quỳnh Châu tròn bóng ngọc
Một bầu xuân tứ rớt nhà ai
Anh em tan tác nhà không có
Ngày tháng xoay vần tóc bạc rồi
Thương nỗi đường cùng xa thấy bạn
Ba mươi năm góc bể chân trời
( Đào Duy Anh –Thơ Nguyễn Du- Nxb Tổng hợp Đồng Nai. 2000 )
Cả Bạch Cư Dị và Nguyễn Du đều cô độc và có tâm sự buồn trong đêm Nguyên Tiêu.
Đêm nay trăng sáng, cuộc đời đầy ắp niềm vui ( Xuân hứng một trời ai hưởng đó - Nguyễn Du ; Vạn nhân hành lạc nhất nhân sầu. Bạch Cư Dị ), nhưng Bạch Cư Dị lại làm khách tha hương , đau ốm, ôm nỗi sầu một mình.Ta biết, ông thi đậu tiến sĩ 802, được bổ nhiều chức quan trong triều . Năm Nguyên Hòa thứ 10 ( Đường Hiến Tông), tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, ông dâng sớ xin bắt thích khách, nhưng bị cáo là vượt qua quyền hạn , ông bị đày làm Tư Mã Giang Châu.
Còn Nguyễn Du, trong đêm nguyên tiêu ở Quỳnh Hải, đang trong cảnh nhà cưả không còn, anh em ly tán . Nguyễn Du có người anh khác mẹ là Nguyễn Quýnh âm mưu chống lại nhà Tây Sơn, việc thất bại, bị bắt và bị giết. Dinh cơ của họ Nguyễn cùng nhà cửa của đồng bào theo Nguyễn Quýnh đều bị phá hủy. Anh em Nguyễn Du chạy lánh nạn mỗi người mỗi nơi. Nguyễn Du chạy đến Quỳnh Hải , quê vợ lánh nạn ( huyện Quỳnh Côi, Thái Bình , nay Quỳnh Hải thuộc huyện Quỳnh Phụ ). Trong đêm nguyên tiêu , Nguyễn Du nhớ quê ( Quỳnh Châu, Hồng Lĩnh ), tự thương thân, tuổi 30 chân trời góc biển đơn độc. Trăng từ xa tới làm bạn với nhà thơ.
So với hai nhà thơ trên , HCM đã từng bôn ba năm châu bốn biển ( hải giác thiên nhai ) 30 năm
( 1911-1941) tìm đường cứu nước, từng bị thực dân Anh kết án tử hình ( 1931 ) và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Trung Quốc (1942-1943), và đang chịu đựng những gian khổ cuả cuộc sống CM và kháng chiến ở VB, nhưng hồn thơ HCM vẫn cao rộng và sáng trong. Hồn thơ ấy không thu về nỗi riêng thân phận như Bạch Cư Dị hay Nguyễn Du, mà mở ra với thiên nhiên, đất nuớc với cuộc kháng chiến cuả toàn dân .Vì thế hồn thơ Nguyên Tiêu cuả HCM hào sảng hơn nhiều, vưà có cái mềm mại tinh tế trong sự cảm nhận cái đẹp, vưà có cái cao rộng cuả không gian thời gian và hiện thực kháng chiến , vưà có nét sang trọng tao nhã cuả thơ cổ điển, vưà có cái chân thực giản dị dân tộc và hiện đại. Hồn thơ HCM đã làm cho bài thơ chạy giặc Nguyên Tiêu trở thành một bức tranh nghệ thuật đặc sắc cuả thơ ca kháng chiến.
Tôi vẫn cứ tự hỏi sức ám ảnh nghệ thuật cuả Nguyên Tiêu xuất phát từ đâu ? và tôi ngộ ra điều này. Bài thơ không có nhân vật xưng “ tôi “ ( Ngã ). Nguyên Tiêu là một bài thơ trữ tình với cảm hứng lãng mạn dào dạt, nhưng tác giả không hiện diện công khai trong bài thơ để phô diễn cái tôi như trong thơ Lãng Mạn . Điều này có ý nghiã gì ? Nguyên Tiêu không có “ ngã “, bài thơ không còn là tiếng nói tâm tình riêng cuả Hồ Chí Minh. Nguyên Tiêu nói tiếng lòng sâu kín trong mỗi người chúng ta. Đó là cái nhìn thanh xuân về một đất nước tươi đẹp bát ngát ; một tình yêu quê hương đất nước đằm thắm hân hoan, trong hình ảnh sông nuớc bầu trời Việt Bắc, vưà cụ thể vưà có sức khái quát rất cao; một niềm tin sâu thẳm “ viên mãn “ về tương lai ; một bản lĩnh , trí tuệ và tâm hồn Việt Nam cao rộng trong tương quan với lịch sử , thời đại; và một cái đẹp thanh khiết trí tuệ, hiện lên từ cuộc sống kháng chiến vô vàn khó khăn . Có thể nói mỗi người VN được soi thấy mình trong bài thơ, được đồng hành với dân tộc, và tìm thấy niềm tin yêu thanh xuân từ chính tâm hồn HCM truyền cho.
Nguyên Tiêu còn mở đầu cho thơ ca kháng chiến ở cảm thức về cảnh sắc thiên nhiên đất nước tuyệt mỹ , về cái đẹp và sự hào hùng cuả cuộc kháng chiến, sự hoá thân cuả nhà thơ, cuả nghệ thuật với nhân dân với thời đại . Những năm đầu kháng chiến , khi nhà thơ Việt Nam còn đang lúng túng, đau đớn “ nhận đường “, thì HCM đã mở ra một con đường rất xa về phiá trước cho thơ ca. Những bức tranh đẹp đầy ắp tình quê hương đất nước trong Bên Kia Sông Đuống ( Hoàng Cầm ), Đất Nước ( Nguyễn Đình Thi ) , Việt Bắc ( Tố Hữu )…là về sau.
Tôi tin rằng Nguyên Tiêu sẽ sống mãi với dân tộc, với thơ ca Việt Nam, trong sự kế tục và phát triển cuả một truyền thống thơ ca, tư tưởng và thẩm mỹ rất riêng cuả người Việt.