HELP ! mai kt

D

diemhang307

Ai bik phân tích thơ bài ngắm trăng đi, đường , nước đại việt ta hok :-/ giúp em với :D

Trong những bài thơ trăng cuả Hồ Chí Minh ( HCM ) thì Nguyên Tiêu là một bài thơ có sức ám ảnh nghệ thuật đặc biệt cả ở hình tượng thơ và ở vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ.



Lúc còn bị giam trong nhà tù Tưởng Giới Thạch ( 1942-1943) HCM đã từng say mê trăng



Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Người ngắm trăng soi ngoài cưả sổ

Trăng nhòm khe cưả ngắm nhà thơ

Nói là “ cảnh đẹp đêm nay “ nhưng thực ra chốn lao tù có bao giờ là cảnh đẹp. HCM hướng ra trước song cưả mà ngắm trăng. Trăng được nhân hoá như một tri kỷ ngắm nhà thơ . Con người thi sĩ , trăng và không gian thơ bị ép lại, vưà đủ lọt qua cái khe cưả nhà tù . Chẳng có bầu trời cao rộng để hồn thơ bay trong ánh sáng cùng với muôn vàn tinh tú , như thi sĩ ngày xưa



A ha ! Ta đuổi theo trăng

Ta đuổi theo trăng

Trăng bay lả tả ngã trên cành vàng..

Tôi lượm lá trăng làm chiếu trải..

( Rượt Trăng – Hàn mặc Tử )

Tôi phiêu diêu cùng ngàn sao băng

A ha ! lòng tôi trăng là trăng!

A ha , trăng tràn đầy châu thân !

( Tiêu Sầu – Hàn mặc Tử )



Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, Cảnh Khuya (1947) là một trong những bài thơ tuyệt hay cuả HCM

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa

Cảnh khua như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà



Cũng là một đêm trăng sáng nơi núi rừng Việt Bắc, Không có trăng trên bầu trời không mà trăng lồng trong bóng cây cổ thụ, không có “ người ngắm trăng soi “. Trăng bị che khuất bởi nỗi lo . HCM “lo nỗi nước nhà”. Suốt đêm, Người không ngủ. Cảnh tuy đẹp, nhưng cảnh không phải là tứ thơ trung tâm, cảnh chỉ để tô đậm nỗi lo cuả vị lãnh tụ dân tộc đang trong cuộc kháng chiến trường kỳ..



Trở lại với Nguyên Tiêu



Tháng 10 / 1947, Pháp tập trung hai vạn quân mở cuộc tấn công quy mô lớn lên Việt Bắc, sông Lô (1) nhằm mục đích đánh phá vùng căn cứ kháng chiến, tiêu diệt chủ lực và cơ quan đầu não cuả kháng chiến. Sau hai tháng chiến đấu ta loại khỏi vòng chiến hơn 7000 tên địch, Pháp phải rút khỏi Việt Bắc. Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông là chiến thắng Bông Lau muà đông 1947,chiến thắng Lũng Mười (1.1.1948), chiến thắng Mường Him ( 5/2/1948). Năm1948, thực dân Pháp thay đổi chiến lược,” lấy chiến tranh nuôi chiến tranh , dùng người Việt trị người Việt ‘.TW Đảng chủ trương phát triển du kích chiến, biến hậu phương địch thành tiền phương cuả ta, phát động thi đua yêu nước ( 3/1948 ), củng cố chính quyền, cải thiện đời sống, động viên giới văn hóa tham gia kháng chiến. (2)



Nguyên Tiêu ra đời trong bối cảnh ấy.



Nhà thơ Xuân Thuỷ kể lại : Đầu xuân 1948 , tại một điạ điểm ở chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự Hội nghị Ban Chấp Hành Trung ương Đảng mở rộng, để kiểm điểm tình hình sau một năm kháng chiến và vạch phương hướng và nhiệm vụ mới cho toàn Đảng toàn dân . Sau cuộc họp ở chốn “yên ba thâm xứ”, Bác xuôi thuyền về nơi căn cứ. Nhân trăng sáng, cảnh đẹp, Bác cảm hứng đọc:



Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên



Rồi đọc tiếp hai câu, hoàn thành bài thơ



Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền



Có người đề nghị Bác cho dịch ra tiếng Việt. Bác bảo: “Có Xuân Thủy đây, Xuân Thủy dịch đi”.
Sau một hồi suy nghĩ, Xuân Thủy đọc bản dịch. Bác khen: “Dịch lưu loát, giữ được chất thơ, nhưng dòng thứ hai có ba chữ xuân hòa với nhau mà bản dịch chỉ có hai chữ xuân, thế là ý thì đủ mà chữ còn thiếu” (3)



Ta nhận ra không không khí cuộc kháng chiến trong câu thơ



“ Yên ba thâm xứ đàm quân sự “



Bác Hồ bàn việc quân nơi xa xôi khói sóng ( yên ba thâm xứ ). Ta tự hỏi tại sao không bàn việc quân ở cơ quan quân sự mà bàn việc quân trên sông ? Tại sao không là dòng sông lấp lánh hay dòng sông trong xanh, mà là nơi xa xôi khói sóng ? Thực ra tình hình lúc ấy vẫn còn mờ mịt ( cuộc kháng chiến mới chỉ bước vào tháng thứ 14 ). Địch vẫn lùng sục, đánh phá, trung ương Đảng và Bác Hồ thường dời đổi chỗ làm việc, vì thế có khi phải họp bàn trên sông trong đêm (4 ), Nhà văn Vũ ĐứcPhúc kể : Giặc Pháp lung sục khắp cả Việt bắc, bắn chết cụ Nguyễn Văn Tố. Đồng chí trường Chinh cũng suýt bị giặc bắt. Khi Pháp tấn công lên Việt Bắc , Bác phải chạy về xuôi ở sát vùng địch, khi giặc Pháp về xuôi, Bác lại trở lên mạn ngược. Bài thơ Nguyên Tiêu là một bài thơ chạy giặc. Khi đọc bài thơ và chứng kiến cảnh giặc Pháp rút chạy thật nhanh khỏi Việt Bắc thì mọi người mới thấy rõ là Trung Ương và Bác lãnh đạo kháng chiến rất ung dung, vững vàng (5). ( Sau đó, thực dân Pháp lại tấn công Việt Bắc lần nưã 9 / 1950. Hoạt động kháng chiến chủ yếu diễn ra ban đêm, trong bí mật : “ đêm đêm rì rầm trong tiếng đất “ ( Đất Nước ; Nguyễn Đình Thi )



Nguyên Tiêu có phản ánh không khí kháng chiến nhưng Bác Hồ viết Nguyên Tiêu không phải là để phản ánh hiện thực. Chẳng hạn, Việt Bắc có núi rừng trùng điệp, nhưng bài thơ chỉ nói đến sông nước. Nếu chỉ xem xét giá trị bài thơ ở ý nghiã hiện thực, thì nội dung bài thơ thật đơn giản. Bác Hồ kể lại, đêm trăng rằm1948, trăng tròn , Bác bàn việc quân trong một con thuyền trên sông, nưả đêm mới trở về , thuyền đầy trăng. Nhân chuyện kháng chiến, người đọc sẽ tự hỏi, và không có câu trả lời : Con sông trong bài thơ là sông nào, Bác bàn việc quân với những ai ? và nội dung bàn bạc là những gì, khuya Bác về là về đâu ? Tại sao thuyền chỉ chở trăng mà không có các đồng chí lãnh đạo ? Kháng chiến gian khổ hy sinh, sao người lãnh đạo lại lãng mạn như thế…? Những câu hỏi như thế giúp ta nhận ra rằng nội dung hiện thực cuả bài thơ đã thăng hoa thành nội dung nghệ thuật thi ca, thành “ cái đẹp “.



Nguyên Tiêu là một bài thơ Tứ Tuyệt bằng chữ Hán, cái đẹp cuả Nguyên Tiêu là cái đẹp cuả Tứ Tuyệt Đường thi. Cái đẹp ấy không nằm ở lớp nghiã phản ánh hiện thực. Tứ Tuyệt Đường thi hay ở những tứ thơ mới lạ , sáng tạo , ở kiểu tư duy trí tuệ, ở sức gợi cuả hình ảnh và ở sự ngân vang cuả ngôn ngữ “ ý tại ngôn ngoại ‘. Hình ảnh dòng sông, ánh trăng, con thuyền là những thi tứ đặc sắc cuả thơ Đường mà bạn đọc Việt Nam đã từng biết đến trong những bài thơ cuả Lý Bạch , Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.



Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
(Lý Bạch - Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng)



Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.

Cất chén mời Trăng sang / ta , trăng và bóng cuả ta là ba người

( Lý Bạch – Nguyệt hạ độc chước )

Vô biên lạc diệp tiêu tiêu hạ,
Bất tận trường giang cổn cổn lai.

( Rào rào lá trút rừng cây thẳm / Cuồn cuộn sông về sóng nước tuôn. )

( Đăng Cao – Đỗ Phủ )



Nguyên Tiêu đặc sắc ở vẻ đẹp Đường thi, vẻ đẹp cốt cách phương Đông cuả nhà thơ trước thiên nhiên, và vẻ đẹp bát ngát rạng ngời cuả một đất nước độc lập tự do.



Trước hết hãy dựng lại không gian đêm nguyên tiêu. (6)



Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.

Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền



Bài Tứ Tuyệt có 28 chữ, thì 25 chữ cuả Nguyên Tiêu là hình ảnh đêm trăng, chỉ còn 3 chữ “đàm quân sự “ là nói về hiện thực kháng chiến. 25 từ tả cảnh đêm trăng làm nên trọng lượng bài thơ.(3)



Câu thơ thứ nhất chỉ có ý nghiã thông tin :

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,



đêm nay rằm tháng giêng, trăng vưà tròn. Câu thơ diễn tả thời khắc hiện tại, tác giả đang ở giưã cảnh vật mà tường thuật. Không có từ nào tả ánh trăng hay vị trí trăng trên bầu trời . Cũng không rõ cái cái thời khắc nhà thơ tả đêm trăng là lúc mấy giờ tối. Không có năng lượng thẩm mỹ nào trong câu thơ cần giải mã ngoài ý nghiã thông tin. Nhà thơ hướng nhìn lên . Trăng tròn trên bầu trời, nhân ra đêm nay là đêm nguyên tiêu.



Câu thơ thứ hai chuyển rất nhanh vào thế giới nghệ thuật. Tứ thơ mở ra ở ngoài lời. Người đọc cần phải liên tưởng , tái hiện để nhận ra một cõi thi ca rất riêng : Trăng sáng ngời. Cả không gian là trăng , trăng soi tỏ cảnh vật :



Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.



Dòng sông , mặt nuớc , bầu trời hiện ra trong tầm nhìn cuả nhà thơ. Tất cả sáng trưng một vẻ đẹp tươi trẻ, tất cả là muà xuân. Thiên nhiên tràn đầy vẻ xuân, sức xuân, tình xuân : sông xuân, nước xuân tiếp với trời xuân. Tứ thơ vút đi, từ mặt nuớc, dòng sông đến tận chân trời, rồi bay lên toả ra mênh mang trong không gian trăng. Phẩm chất thi sĩ của HCM hiển lộ rực rỡ. Ấy là sự phát hiện kỳ diệu cái đẹp trong cảnh vật: vẻ xuân , sức xuân, tình xuân cuả sông nước bầu trời. Sông không chỉ là dòng sông, mà là sông xuân, nước sông không chỉ là nước mà là nuớc xuân, bầu trời không chỉ là thiên không ( bầu không) mà là trời xuân. Giưã trăng và xuân có sự kết hợp mới lạ trong thơ HCM. Xưa nay người ta thường nói đến trăng thu , cảm hứng về trăng gắn với muà thu, với nỗi buồn, sự cô đơn , nỗi chia ly , ( Em không nghe muà thu / dưới trăng mờ thổn thức..- Tiếng Thu- Lưu Trọng Lư ) . Cảm hứng cuả HCM về trăng là cảm hứng muà xuân trẻ trung, tràn đầy sức sống, niềm vui



Trở lại cảnh nguyên tiêu, hồn thơ HCM không giới hạn trong thế giới hiện tượng hay miên man trong thế giới cảm giác thường có cuả người đi trên sông nước. Chẳng hạn, thả thuyền trong đêm trăng sáng, ta buông thả thư giãn, hưởng thụ sự mát mẻ, dễ chịu. Ta vui mắt nhìn ánh trăng lấp lánh trên ngọn sóng,. Nhìn mảnh trăng chấp chới dưới lòng sông mà nhớ Lý Bạch ngày nào . Tương truyền năm 61 tuổi , Lý Bạch đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, tỉnh An Huy, Trung Quốc . Ông uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng . Ấy là trăng huyền thoại. Trăng cuả HCM là trăng hiện thực cuả đất nước, cuả kháng chiến, một đất nước vưà thoát khỏi ách nô lệ Thực dân Phong kiến , đang tiến về phiá trước bằng những bước chân làm nên lịch sử. Trăng ấy, sông nước ấy, đã chưá đựng tấm lòng cuả thi nhân với dân tộc.



Phát hiện ra vẻ xuân trong đêm trăng, một lần nưã, HCM góp thêm vào thơ ca dân tộc một tứ thơ khá mới lạ . Nhà thơ xưa chỉ thấy được vẻ xuân, sắc xuân cuả cảnh vật trong ánh mặt trời. “ cỏ non xanh dợn chân trời / cành lê trắng điểm một vài bông hoa “ ( Nguyễn Du ). “ Sóng cỏ xanh tươi gợn đến trời / bao cô thôn nữ hát trên đồi “ ( Muà Xuân Chín – Nguyễn Bính ) dường như chưa ai phát hiện ra vẻ xuân, sắc xuân trên sông nước trong đêm trăng (?)



Nếu bài thơ tiếp tục phát triển về phiá trăng , về sông nước, hay khai thác cảm xúc giác quan, hoặc phô diễn những tâm tình chủ quan, nhà thơ sẽ đưa người đọc vào cõi mộng cuả thiên nhiên, cõi mê đắm cuả cái tôi. Thơ HCM phát triển theo một hướng khác, nhà thơ đưa người đọc trở về hiện thực, cảnh đêm trăng như hội tụ lại ở đời sống kháng chiến :



Yên ba thâm xứ đàm quân sự.



Người đọc bỗng nhận ra HCM đi thuyền trên sông không phải là để thưởng trăng, mà Người bàn việc quân trên sông. “ Yên ba thâm xứ “ là một tứ thơ cổ quen thuộc. Nó không có nghiã thực là rất xa trên sông lúc ấy có khói, có sóng ( 煙 yên là khói , 波ba là sóng ). Đó là một hình ảnh nghệ thuật chỉ sự mờ mịt trong cảm thức cuả thi nhân. “ Yên ba thâm xứ “ trong thơ cổ điển hàm ẩn nỗi sầu thương vô vọng.



Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

( Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hộ )



Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu
( Thú Nhàn - Cao bá Quát )








 
D

diemhang307

Sử dụng hình ảnh “ yên ba thâm xứ “ trong Nguyên Tiêu, HCM đã hiện đại hoá một vẻ đẹp thơ cổ . Nếu nơi xa xăm khói sóng kia, nhà thơ xưa bày tỏ những nỗi niềm u hoài thì HCM lại đang hành động , đang bàn việc quân , bàn bạc những bước phát triển mới cuả kháng chiến. Nếu Thôi Hộ nhìn khói sóng trên sông mà cảm hoài về quá khứ hạc vàng không còn nưã, Cao bá Quát nhìn thấy con thuyền đánh cá nơi xa xăm khói sóng mà buông xuôi chuyện thế sự thăng trầm, thì HCM lại dấn thân vào nơi xa xăm khói sóng để hành động cho sự phát triển lịch sử. Đó là một vẻ đẹp mà thơ Đường không hề có.



Đêm trăng nguyên tiêu như mờ đi một chút ở câu 3 , thì bỗng sáng hơn ở câu 4. Trên nền cuả sông nước, trời cao là hình ảnh con thuyền chở đầy trăng, trở về trong đêm khuya



Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền



Có một khoảng lặng ý tại ngôn ngoại giưã câu thơ thứ ba và thứ tư . Trên sông, nơi xa xăm khói sóng HCM vẫn bàn việc quân. Có lẽ đó là một cuộc họp bàn quan trọng và căng thẳng, vì mãi đến nưả đêm Người mới trở về. Không gian, thời gian, sông nước đêm trăng như nén lại trong tịch mịch



Rồi cảm hứng thơ lại từ hiện thực vút bay vào thế giới lãng mạn . “ Nưả đêm trở về, trăng đầy thuyền “

Nhà thơ chiến sĩ trở về với cốt cách thi nhân, chan hoà trong thiên nhiên, để cho thiên nhiên chiếm lĩnh toàn bộ hồn thơ. Trăng đầy thuyền, nhà thơ đã hoá thân vào trăng. Con thuyền họp bàn việc quân giờ là thuyền đầy trăng.



Ở câu thơ thứ nhất, trăng là trăng tròn ( nguyệt chính viên ), đến câu thơ cuối, trăng là trăng đầy

( nguyệt mãn thuyền ). Hình tượng thơ, trong từng câu thơ tưởng như đứng yên, nhưng thực ra lại đang vận động, vận động đa chiều. Vận động cuả thời gian trong đêm; vận động cuả sự chuyển hoá cảnh vật, sông, nước, trời; vận động cuả thi nhân thành chiến sĩ; vận động cuả hiện thực kháng chiến, sau “ đàm quân sự’, kháng chiến sẽ tiến lên một bước phát triển mới , dù hiện tại vẫn còn trong bí mật; và vận động cuả trăng. Trăng tròn trở thành trăng đầy . Trăng gần hơn , trăng sáng hơn , trăng “ viên mãn “. (Xin lưu ý chữ “ viên mãn “cuả nguyên tác). Sự viên mãn không chỉ ở trăng tròn đầy, ở không gian đầy ánh trăng , thanh bình , an nhiên; mà ở trong cảm thức cuả nhà thơ. Hiện thực kháng chiến viên mãn, tương lai viên mãn ..Chính những vận động nội tại này cuả Nguyên Tiêu đã làm lay động tâm hồn người đọc.



Thực khó tưởng tượng được, trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ như vậy, HCM lại có được một hồn thơ đầy sức sống , trẻ trung, cao rộng, trong ngần và “ viên mãn “ đến vậy. HCM trong câu thơ“ Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền “ như người xưa, đắm mình trên sông nước mênh mang ánh trăng , đắm mình cùng thiên nhiên đất nước dào dạt vẻ xuân, sức xuân. Nếu không có tứ “ đàm quân sự”, thì HCM là hồn thơ phương Đông tìm về thiên nhiên, hoà cái tiểu ngã vào cái đại ngã , tìm về với Đạo ( tư tưởng cuả Lão Tử ) .Giờ đây HCM an nhiên trong cảnh đẹp cuả đất nước tự do, hoà mình trong hiện thực kháng chiến ngời sáng . Tình yêu thiên nhiên và tình yêu nước cùng ngân vang, trong tâm hồn nhà thơ chiến sĩ. HCM dấn thân vào nơi xa xăm khói sóng để bàn việc quân , rồi trở về trong ánh sáng “ viên mãn “cuả đất nước . Đó là một tứ thơ mới mà thơ cổ điển không có. Bởi vì nhà thơ xưa mất hút trong nỗi buồn thương mịt mờ khói sóng ( yên ba giang thượng sử nhân sầu ), còn nhà thơ Lãng Mạn ( 1930-1945) lại chìm trong nỗi cô đơn cuả cái tôi bé nhỏ vô vọng.



Trong dòng chảy cuả thi ca dân tộc, tứ thơ “ nưả đêm trở về, thuyền đầy trăng “ lại gợi ra những liên tưởng thú vị khác. Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ cuả Hàn Mặc Tử ( HMT ) có tứ thơ về trăng rất tuyệt .



Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?



HMT thảng thốt hỏi trong đêm trăng. Như ném hồn mình vào cõi không tuyệt vọng. Không có câu trả lời! Đây Thôn Vĩ Dạ được viết khi bệnh phong cùi cuả ông đã trầm trọng. Ông phải vào trại phong Quy Hoà , sống xa cõi người. Sẽ chẳng bao giờ còn trở về với cuộc đời nưã. Ở nơi khổ đau tuyệt vọng ấy, HMT chới với níu kéo lấy sự sống, hụt hẫng ôm giữ kỷ niệm và mỏi mong chờ đợi một thời khắc.. .Hồn thơ HMT chìm trong cõi siêu thực. Con thuyền đã đậu bến sông trăng thì còn về đâu ?. Tại sao lại mong chờ con thuyền chở trăng ?. Ông biết rằng không còn kịp nưã !.



Câu thơ cuả HCM như vưà trả lời , vưà phủ định câu hỏi ấy cuả HMT ( tôi chỉ giả định vậy )



Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền



Thuyền về kịp , thuyền chở đầy trăng, và là trăng hiện thực, trăng cuả một đất nước tươi đẹp và tương lai tươi sáng. Đấy là sự khác biệt cuả hồn thơ, cuả hoàn cảnh đất nước, trước và sau Cách mạng tháng tám 1945.



Lại nói về sự khác biệt cuả nhà thơ HCM với nhà thơ xưa. Trong bài Nguyên Tiêu, HCM đứng ở thời điểm hiện tại “ đêm nay “, theo dòng sông hướng tới chân trời, rồi vươn lên cao trên bầu trời. Đó là tầm nhìn dài rộng về phiá trước, trong ánh sáng và sức sống mùa xuân ( xuân giang , xuân thuỷ tiếp xuân thiên ). Dòng sông xuân nối tiếp với trời xuân là một tứ thơ có ý nghiã tư tưởng. Con người, từ vị trí hiện tại hướng về tương lai, trong tư thế làm chủ đất nước, làm chủ lịch sử, khác hẳn với nhà thơ xưa. Thi nhân xưa nhìn dòng sông từ trời đổ xuống, con người bé nhỏ.



Quân bất kiến Hoàng hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!

(Anh chẳng thấy, nước sông Hoàng từ trời xuống , Chảy nhanh ra biển,chẳng quay về, )

( Lý Bạch – Tương Tiến Tửu )

Tứ thơ thật hùng vĩ, mới lạ . Nước Hoàng hà từ trên trời xuống , đổ ra biển không trở lại. Nhưng phải chăng tứ thơ ấy phản ánh cái nhìn Thiên Mệnh. Từ Trời đổ xuống, chụp lấy số mệnh con người , thân phận con người trôi đi như một tất yếu bất biến, không cưỡng lại được như dòng Hoàng Hà đổ ra biển không bao giờ trở lại. Cái nhìn ấy là cái nhìn duy tâm , bi quan, cam chịu. Cái nhìn cuả HCM khác hẳn. Đó là cái nhìn cuả nhà thơ chiến sĩ, cái nhìn cách mạng về hiện thực, cái nhìn phát triển tươi đẹp.



Nhân đây xin thử đọc thơ Nguyên Tiêu cuả nhà thơ xưa .



Bạch Cư Dị có bài Trường An chính nguyệt thập ngũ nhật

“ Huyên huyên xa kỵ đế vương châu
Ky bệnh vô tâm trục thắng du
Minh nguyệt thanh phong tam ngũ dạ
Vạn nhân hành lạc nhất nhân sầu.”(8)

Dịch thơ:

Xe ngưạ rầm rầm chốn đế châu

Quê người đau ốm thiết gì đâu

Đêm rằm gió mát trăng thanh đó

Muôn kẻ mua vui, một kẻ sầu

( Hoàng Tạo dịch – Thơ Bạch Cư Dị, Nxb tổng hợp Đồng Nai .2000 )



Nguyễn Du có bài Quỳnh Hải Nguyên Tiêu (7)

“ Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thuyền quyên
Nhất thiên xuân hứng, thuỳ gia lạc,
Vạn lý Quỳnh Châu (7) thử dạ viên.
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tản,
Bạch đầu đa hận tuế thì thiên
Cùng đồ lân nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập niên.” (8)

Dịch thơ

Nguyên Tiêu sân vắng nguyệt đầy trời

Vẫn thế Hằng Nga sắc chẳng phai

Muôn dặm Quỳnh Châu tròn bóng ngọc

Một bầu xuân tứ rớt nhà ai

Anh em tan tác nhà không có

Ngày tháng xoay vần tóc bạc rồi

Thương nỗi đường cùng xa thấy bạn

Ba mươi năm góc bể chân trời

( Đào Duy Anh –Thơ Nguyễn Du- Nxb Tổng hợp Đồng Nai. 2000 )



Cả Bạch Cư Dị và Nguyễn Du đều cô độc và có tâm sự buồn trong đêm Nguyên Tiêu.

Đêm nay trăng sáng, cuộc đời đầy ắp niềm vui ( Xuân hứng một trời ai hưởng đó - Nguyễn Du ; Vạn nhân hành lạc nhất nhân sầu. Bạch Cư Dị ), nhưng Bạch Cư Dị lại làm khách tha hương , đau ốm, ôm nỗi sầu một mình.Ta biết, ông thi đậu tiến sĩ 802, được bổ nhiều chức quan trong triều . Năm Nguyên Hòa thứ 10 ( Đường Hiến Tông), tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, ông dâng sớ xin bắt thích khách, nhưng bị cáo là vượt qua quyền hạn , ông bị đày làm Tư Mã Giang Châu.



Còn Nguyễn Du, trong đêm nguyên tiêu ở Quỳnh Hải, đang trong cảnh nhà cưả không còn, anh em ly tán . Nguyễn Du có người anh khác mẹ là Nguyễn Quýnh âm mưu chống lại nhà Tây Sơn, việc thất bại, bị bắt và bị giết. Dinh cơ của họ Nguyễn cùng nhà cửa của đồng bào theo Nguyễn Quýnh đều bị phá hủy. Anh em Nguyễn Du chạy lánh nạn mỗi người mỗi nơi. Nguyễn Du chạy đến Quỳnh Hải , quê vợ lánh nạn ( huyện Quỳnh Côi, Thái Bình , nay Quỳnh Hải thuộc huyện Quỳnh Phụ ). Trong đêm nguyên tiêu , Nguyễn Du nhớ quê ( Quỳnh Châu, Hồng Lĩnh ), tự thương thân, tuổi 30 chân trời góc biển đơn độc. Trăng từ xa tới làm bạn với nhà thơ.



So với hai nhà thơ trên , HCM đã từng bôn ba năm châu bốn biển ( hải giác thiên nhai ) 30 năm

( 1911-1941) tìm đường cứu nước, từng bị thực dân Anh kết án tử hình ( 1931 ) và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Trung Quốc (1942-1943), và đang chịu đựng những gian khổ cuả cuộc sống CM và kháng chiến ở VB, nhưng hồn thơ HCM vẫn cao rộng và sáng trong. Hồn thơ ấy không thu về nỗi riêng thân phận như Bạch Cư Dị hay Nguyễn Du, mà mở ra với thiên nhiên, đất nuớc với cuộc kháng chiến cuả toàn dân .Vì thế hồn thơ Nguyên Tiêu cuả HCM hào sảng hơn nhiều, vưà có cái mềm mại tinh tế trong sự cảm nhận cái đẹp, vưà có cái cao rộng cuả không gian thời gian và hiện thực kháng chiến , vưà có nét sang trọng tao nhã cuả thơ cổ điển, vưà có cái chân thực giản dị dân tộc và hiện đại. Hồn thơ HCM đã làm cho bài thơ chạy giặc Nguyên Tiêu trở thành một bức tranh nghệ thuật đặc sắc cuả thơ ca kháng chiến.



Tôi vẫn cứ tự hỏi sức ám ảnh nghệ thuật cuả Nguyên Tiêu xuất phát từ đâu ? và tôi ngộ ra điều này. Bài thơ không có nhân vật xưng “ tôi “ ( Ngã ). Nguyên Tiêu là một bài thơ trữ tình với cảm hứng lãng mạn dào dạt, nhưng tác giả không hiện diện công khai trong bài thơ để phô diễn cái tôi như trong thơ Lãng Mạn . Điều này có ý nghiã gì ? Nguyên Tiêu không có “ ngã “, bài thơ không còn là tiếng nói tâm tình riêng cuả Hồ Chí Minh. Nguyên Tiêu nói tiếng lòng sâu kín trong mỗi người chúng ta. Đó là cái nhìn thanh xuân về một đất nước tươi đẹp bát ngát ; một tình yêu quê hương đất nước đằm thắm hân hoan, trong hình ảnh sông nuớc bầu trời Việt Bắc, vưà cụ thể vưà có sức khái quát rất cao; một niềm tin sâu thẳm “ viên mãn “ về tương lai ; một bản lĩnh , trí tuệ và tâm hồn Việt Nam cao rộng trong tương quan với lịch sử , thời đại; và một cái đẹp thanh khiết trí tuệ, hiện lên từ cuộc sống kháng chiến vô vàn khó khăn . Có thể nói mỗi người VN được soi thấy mình trong bài thơ, được đồng hành với dân tộc, và tìm thấy niềm tin yêu thanh xuân từ chính tâm hồn HCM truyền cho.



Nguyên Tiêu còn mở đầu cho thơ ca kháng chiến ở cảm thức về cảnh sắc thiên nhiên đất nước tuyệt mỹ , về cái đẹp và sự hào hùng cuả cuộc kháng chiến, sự hoá thân cuả nhà thơ, cuả nghệ thuật với nhân dân với thời đại . Những năm đầu kháng chiến , khi nhà thơ Việt Nam còn đang lúng túng, đau đớn “ nhận đường “, thì HCM đã mở ra một con đường rất xa về phiá trước cho thơ ca. Những bức tranh đẹp đầy ắp tình quê hương đất nước trong Bên Kia Sông Đuống ( Hoàng Cầm ), Đất Nước ( Nguyễn Đình Thi ) , Việt Bắc ( Tố Hữu )…là về sau.



Tôi tin rằng Nguyên Tiêu sẽ sống mãi với dân tộc, với thơ ca Việt Nam, trong sự kế tục và phát triển cuả một truyền thống thơ ca, tư tưởng và thẩm mỹ rất riêng cuả người Việt.
 
D

diemhang307

Ai bik phân tích thơ bài ngắm trăng đi, đường , nước đại việt ta hok :-/ giúp em với :D

Đi đường - Hồ Chí Minh

II/. Một số nhận định về thơ Hồ Chí Minh:

“Trong thơ ca Cách mạng thời kỳ 1930-1945 thường có một số phẩm chất chung như tính chiến đấu, tinh thần đấu tranh cách mạng mà khi nói đến thơ Bác, người ta thường nói đến chất thép. Bên cạnh đó, một phẩm chất quan trọng là tấm lòng của người chiến sĩ cách mạng với cuộc đời, với bạn bè đồng chí và khung cảnh thiên nhiên. Trong thơ Bác, chất trữ tình thể̉ hiện ở những tình cảm nhân ái, chan chứa tình người khi viết về cuộc đời, về quần chúng lao khổ và về thiên nhiên tươi đẹp. Chỉ có một điều là Người làm thơ ở vào tuổi 53, tất nhiên tuổi tác cũng chi phối một phần đến cảm hứng. Nếu ở Tố Hữu, thơ tuổi trẻ và Cách mạng cùng có mặt trong một số bài thơ, nên những cảm xúc của tuổi trẻ, thanh niên đôi lúc như trào sôi, thậm chí, có lúc còn bồng bột. Còn trong Nhật ký trong tù lại là sự lắng đọng về chiều sâu, nhất là chất suy nghĩ. Thơ Bác giàu chất triết lý về cuộc đời, về con người và cả những cảnh ngộ mà xã hội và thiên nhiên mà Người trải qua. Có lần Người nói, người biết ưu tư thì ưu điểm lớn và chất trữ tình trong thơ Bác có chiều sâu và vươn tới những tầm cao mà cảm hứng thi ca có thể có được. Tất nhiên, mỗi nhà thơ Cách mạng đóng góp theo khả năng, hoàn cảnh và những sáng tạo khác nhau mà chúng ta đều trân trọng.”

Gs Hà Minh Đức

“Khi nói về sáng tác thơ ca, một số nhà thơ cổ Trung Quốc thường cho rằng không dễ tạo được sự hoà hợp giữa những phẩm chất thơ ca khác nhau. Người viết giỏi thiên nhiên dễ khô khan khi nói về xã hội, người triết lý sâu sắc lại khó khi viết về đề tài hồn nhiên, tươi thắm; người viết nghiêm túc, nghiêm trang rất khó khi vận dụng châm biếm hài hước và ngược lại. Đó là thực tế không phải chỉ với thơ xưa mà cả với thơ nay. Đúng là trong thơ Bác có được sự hoà hợp của nhiều phẩm chất: rất trữ tình nhưng cũng giàu triết lý, rất trang nghiêm nhưng nhiều khi cũng trào phúng châm biếm một cách thâm thuý, tế nhị. Có lẽ nên nghĩ rằng đây là những phẩm chất khác nhau chứ không hẳn là tổng hợp của những trường phái, phong cách. Thơ của Bác là thơ của nhà thơ cách mạng phản ánh rất trực tiếp người chiến sĩ cách mạng giàu trí tuệ, giàu tình cảm, trải nghiệm với cuộc đời, giàu tình cảm nhân đạo, căm ghét những gì xấu xa. Tất cả những đặc điểm đó khi chuyển hóa thành cảm hứng thi ca chắc chắn có nhiều đổi thay nhưng chính nó là cơ sở để có sự tái tạo và tạo ra các giá trị sâu sắc nhiều màu vẻ trong thơ Bác. Tuy nhiên, cũng phải thấy một thực tế là người sử dụng tiếng nói thơ ca gắn với hoàn cảnh rất cụ thể của cuộc đời, nhiệm vụ cách mạng nên chất thơ trong Nhật ký trong tù, trong những ngày người bị tù đày, giam giữ cũng có điểm khác với thời kỳ tiền khởi nghĩa, những năm kháng chiến chống Pháp. Tuy đa dạng, nhưng tất cả là một khối thuần nhất, một phong cách lớn trong thơ ca cách mạng.”

Gs Hà Minh Đức

III/. Tìm hiểu về Nhật ký trong tù:

Nhật ký trong tù là một tác phẩm văn học của Hồ Chí Minh, được viết từ ngày 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943, trong thời gian ông bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và giải đi khắp các nhà giam ở Quảng Tây, Trung Quốc. Nguyên gốc chỉ là một quyển sổ tay nhỏ, bìa xanh đã bạc màu, có ghi bốn chữ "Ngục trung nhật ký" (hay Nhật ký trong tù) kèm theo bốn câu thơ và một hình vẽ hai nắm tay bị xích.

Đây là một tập thơ chữ Hán, gồm hơn 100 bài thơ, phần cuối có một số ghi chép về quân sự và thời sự. Nhật ký trong tù lên án chế độ nhà giam hà khắc của chính quyền Quốc dân Đảng, thể hiện tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, tinh thần lạc quan cách mạng và tình cảm nhân đạo cộng sản chủ nghĩa cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tác phẩm Nhật ký trong tù đã được xuất bản nhiều lần, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới.

IV/. Phân tích bài thơ Đi đường:

走路


Tẩu lộ


Đi đường (Người dịch: Nam Trân)

走路才知走路難
重山之外又重山
重山登到高峰後
萬里與圖顧盼間


Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lư dư đồ cố miện gian.


Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
 
D

diemhang307

Bài làm

Trong những ngày bị tù đày, Hồ Chí Minh đã bị áp giải qua nhiều nhà lao. Theo Trần Dân Tiên trong “ Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, Người bị giam giữ trong gần ba mươi nhà lao huyện và xã. Chính vì vậy, nhà văn Đặng Thai Mai đã ý vị gọi Bác là “người tù lưu động”, và chuyện đi đường là việc xảy ra hằng ngày. Có chặng đường mà Người đi thật dễ chịu trong khung cảnh “Chim ca rộn núi hương bay ngát rừng” ( Trên đường đi). Nhưng phổ biến hơn lại là những chặng đường vất vả, đi đường giữa những ngày giá lạnh:

“Gió sắc tựa gươm mài đá núi,

Rét như dùi nhọn chích cành cây.”

(Hoàng hôn)

hay đi đường trong mưa gió:

“Giày rách đường lầy chân lấm láp,

Vẫn còn dấn bước dặm đường xa”

(Mưa lâu)

Rồi đi đường giữa những núi non hiểm trở. Đi đường là bài số hai mươi chin trong tập Nhật ký trong tù. Bài thơ mở đầu bằng hành vi áp giải:

“Đi đường mới biết gian lao.”

Đây là kinh nghiệm của ngưởi đã đi nhiều. Có đi đường mới có những kinh nghiệm về chuyện đi đường. Đây lại không phải là con đường bằng phẳng mà là một chặng đường núi non hiểm trở: “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Câu thơ dịch đã cố gắng thể hiện nhịp điệu của câu thơ nguyên bản:

“ Trùng san chi ngoại hựu trùng san.”

Viết về chuyện đi đường, các nhà thơ xưa, từ những chuyện đời cụ thể đã khái quát lên đường đời gian nan mà nhiều người phải chán nản thất vọng. Tứ thơ “đường đời khó khăn” trong Nhật ký trong tù cũng mượn ý tứ thơ của người xưa.

Trong “Cung oán ngâm khúc”, Nguyễn Gia Thiều nói về đường đời đau khổ:

“Mùi tục luỵ lưỡi tê tân khổ

Đường thế đồ gót rỗ kì khu”

Và Cao Bá Nhạ trong “Tự tình khúc” lại xót xa cho thân phận trên đường đời xa xôi:

“Những là sợi gió e sương

Thương thân chua xót nghĩ đường xót xa”

Với Đi đường, tác giả hiểu rõ đường đời khó khăn. Đường đời đây cũng là con đường đấu tranh cách mạng. Và người chiiến sĩ cách mạng cũng là người đi đường, không mệt mỏi. Chấp nhận vượt lên những khó khăn, người đi đường bao giờ cũng hướng tới đích:

“Giầy rách đường lầy chân lấm láp

Vẫn còn dấn bước dặm đường xa”

(Mưa lâu)

Trong thơ của Hồ Chí Minh nói nhiều đến chuyện đi đường và những kinh nghiệm vượt khó. Khó khăn nhất thường là ở chặng cuối cùng. Khi công sức bỏ ra đã nhiều, và cũng phải nỗ lực nhiều hơn, sắp đến được đích thì thử thách càng lớn:

“Thuốc đắng cạn liều càng thấy đắng

Đường gay cuối chặng lại thêm gay”

(Giam lâu không đuợc chuyển)

Có khi sự khó khăn lại ở vào lúc bắt đầu. “Vạn sự khởi đầu nan”, câu nói đó cũng phù hợp với chuyện đi đường.

Bài thơ “Nhóm lửa” cũng nêu lên kinh nghiệm của con đường đấu tranh cách mạng. Khó khăn nhất là lúc khời đầu:

“Lúc leo lét bắt đầu nhóm lửa

Biết bao nhiêu là sự khó khăn

Chỉ đìu hiu một mảy gió xuân

Cũng lo sợ có khi tắt mất”

Nhưng khi lửa đã bén thì “Gió càng cao ngọn lửa cáng cao”. Người lại nêu tiếp một kinh nghiệm khác. Cái khó nhất có thể lại ở chặng đường bằng phẳng:

“Đi khắp đèo cao khắp núi cao,

Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao;

Núi cao gặp hổ mà vô sự,

Đường phẳng gặp người bị tống lao.”

Trên chặng đường bằng phẳng, người đi đường dễ chủ quan và bệnh chủ quan lại là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thất bại. Thủ tướng Phạm Văn Đồng có lần nhận xét rằng, đối với Bác Hồ thì không có việc gì khó, vì khó mấy mà quyết tâm thì cũng hoàn thành, và cũng không có việc gì dễ, nếu dễ mà chủ quan thì cũng thất bại.

Trong bài “Đi đường”, những khó khăn thật chồng chất, càng ngày càng nhiều và nâng lên đến cao điểm. Câu thơ như một thách thức:

“Núi cao lên đến tận cùng”

Liệu người chiến sĩ cách mạng có thể vượt qua được thử thách này không? Và người chiến sĩ cách mạng đã chiến thắng. Trên cao điểm thắng lợi, biết bao tình cảm vui mừng được biểu hiện. Mừng vui vì điểm cao đã được chiếm lĩnh, vì Người đã làm tròn trách nhiệm được giao phó. Thật không dễ dàng như chuyện bước thêm một vài tầng lầu để có được một chiều cao mà chiêm ngưỡng thiên nhiên tạo vật như Vương Chi Hoán đời Đường bước lên lầu cao ngắm sông Hoàng trải rộng và mặt trời chiếu rực rỡ.

Cũng cần nhận thấy rằng, trong thơ Hồ Chí Minh có nhiều đỉnh cao, đó là tầm cao về tư tưởng trong “ Lời đề từ” và các bài thơ “Học đánh cờ”, “Không ngủ được”, “Tự khuyên mình”,… , và đó cũng là đỉnh cao trong nhiều hình tượng về thiên nhiên tạo vật qua các bài “Lên núi”, “Mới ra tù tập leo núi”,… Những hình tượng thiên nhiên này có nhiều hàm ý xâu xa về mặt xã hội. Trên đỉnh cao con người có những cảm xúc đặc biệt:

“Thu vào tầm mắt muôn trùng núi non”

Có thể quan sát và bao quát nhiều phạm vi của đời sống. Đôi mắt không còn bị hạn chế trong tầm nhìn mà đã được mở rộng, thâu tóm được biết bao cảnh vật.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua thơ ca, đã để lại cho người đọc, cho nhân dân ta nhiều bài học sâu sắc. Có người cảm thấy bài học lớn nhất là bài học làm người, phải giữ cho được những phẩm chất cao đẹp của con người, về sự trong sáng của tâm hồn và nhân cách dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Có người tìm thấy bài học lớn nhất là ý thức vượt khó khăn. Đường đời, đường Cách mạng, con đường của mỗi người đều có những trở ngại, gian nan. Thơ Người đã khích lệ, động viên và chỉ ra hướng vượt qua khó khăn đấy để vượt tới đích xa. Có người lại tìm thấy bài học quan trọgn là tình yêu của Bác đối với con người. Và tình yêu ấy thấm sâu, lan tỏa, gần gũi và cảm hóa để chúng ta có những phút giây được đến gần Người.
 
Top Bottom