Bài tập làm văn số 6:
Em suy nghĩ gì về câu tục ngữ "Có chí thì nên". Không cop tài liệu trong sách giải hoặc trên mạng
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thồng hiếu học và kiên trì trong cuộc sống, công việc. Chính vì vậy, trong kho tàng ca dao tục ngữ có vô vàn những câu nói được đức kết từ kinh nghiệm sống của cha anh nhằm khuyên nhủ các thể hệ sau cần rèn luyện đức tính, kiên trì, nhận nại, cầu tiến. Và một trong số đó chính là câu tục nữ “có chí thì nên”
Vậy chúng ta có thể hiểu câu tục ngữ trên như thế nào? ở trong câu tục ngữ trên “trí” có nghĩa là sự quyết tâm, bên lòng mục tiêu mà chúng ta hướng đến. “Thì nên” có nghĩa là thành quả mà chúng ta sẽ đạt được nếu kiến trí bền lòng theo đuổi. Câu túc ngữ khuyên chúng ta hãy xây dựng cho mình những ý chí hoài bão lý tưởng tốt đẹp và kiên trì theo đuổi thực hiện nó dùng có thất bại cũng không bỏ cuộc thì chúng ta sẽ gặp hái được thành công.
Có chí thì nên
Tại sao những người có ý chí thì lại thường thành công hơn những người không có ý chí? Vò “kiền trì, bên trí” là đức tính cực kỳ quan trọng để đi đến thành công. Trong cuộc sống hay bất kỳ công việc gì thì sự khó khăn và thất bại là điều không thể tránh. Những nếu chỉ vì những khó khăn hay thất bại này mà chúng ta bỏ cuộc thì đó là những người thiếu ý chí và sẽ chẳng bao giờ thành công được trong việc gì.
Chắc hẳn chúng ta vẫn còn nhớ đến nhà phát minh lỗi lạc của thế giới tài Thomas Edison để tìm ra được chất thích hợp làm sợi tóc bóng đèn ông đã thất bại 10.000 lần. Những ông chưa bao giờ vì thế mà nản lòng với ông đó còn là niềm vui và bài học quý giá để đi đến thành công. “Thiên tài gồm 2% cảm hứng và 98% cực nhọc” là câu nói nổi tiếng của Edison về tinh thần học tập và lao động miệt mài không ngừng nghỉ.
Hãy nhìn về lịch sử nước ta, thấy giáo Nguyễn Ngọc Ký bị liệt cả hai tay những đã dùng chân thay tay tập viết miệt mãi hàng chục năm để có thể trở thành nhà giáo ưu tú với nhiều cống hiến cho xã hội. Hay xa hơn nữa về lịch sử chúng ta còn nhớ nhà văn, nhà thơ Cao Bá Quát. Ông nổi tiếng là người văn hay nhưng chữ viết lại quá xấu , chính vì điều này mà ông bị chê cười nên ông đã quyết tâm rèn chữ để sau này được thiên hạ nhớ đến là người văn hay chữ tốt.
Và còn rất nhiều những trẻ em nghèo vùng cao với quyết tâm học chữ để thay đổi cuộc đời, làm giàu cho quê hương đất nước mà không quản ngại băng rừng vượt núi cao đèo sâu để đi học. Hay những em bé khuyết tật đã vượt lên chính minh, vượt qua những khuyến khuyết cơ thể kiên gan bền chí để trở thành người có ích cho xã hội.
Bác Hồ chúng ta từng nói :
“Không có việc gì khó.
Chỉ sợ lòng không bền
. Đào núi và lấp bể.
Quyết chí ắt thì nên”
Dân tộc Việt Nam chúng ta chịu 1000 năm bắc thuộc, rồi 80 năm đô hộ của thực dân Pháp. 90 % dân số nước ta lúc bấy giờ đòi khổ mù chữ nhưng chúng ta chỉ có một quyết tâm duy nhất, một khát khao duy nhất là giải phóng dân tộc thống nhất nước nhà. Và cả dân tộc nắm tay chúng ta đã làm được điều đó lần đầu tiên trên thế giới một dân tộc thuộc địa nhỏ bé đã chiến thắng được những cường quốc mạnh nhất thế giới tự mình đánh đổ xiềng xích để sánh vai với các cường quốc năm châu.
Từ những điều trên ta có thể thấy rằng ý chí quyết định đến cuộc đời và thành công của một người nhiều như thế nào. Đối với học sinh chúng ta ngay lúc này cũng hãy rèn luyện ý chí cho riêng mình bắt đầu từ việc học. Hãy học cách lắng nghe thầy cô giảng bài, không ngần ngại tiếp thu các kiến thức mới. Không sợ khó sợ khổ, xây dựng mục tiêu học tập cho riêng mình. Từ trong những việc nhỏ trong cuộc sống cũng hãy đặt ra cho mình mục tiêu và quyết tâm làm việc đó thì sẽ thành công trong cuộc sống và học tập.
Trời không phụ người có công, cha ông ta đã để lại cho chúng ta một chân lý, một lời khuyên hữu ích để chúng ta hiểu thành công. Ươc mơ, đam mê là những điều cực kỳ đáng quý nhưng ý chí kiên trì bền bỉ thực hiện ước mơ đó còn đáng quý và đáng trận trọng hơn rất nhiều.
nguồn :internet
Suy nghĩ về thân phận nguời phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ nuơng ở chuyện nguời con gái Năm Xuân của Nguyễn Dữ
Ai giúp mk vs ạ
Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện hay trong Truyền kỳ mạn lục, một tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân gian Việt Nam. Truyện phản ánh một vấn đề bức thiết của xạ hội, đó là thân phận của người nông dân nói chung và người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến. Thế lực bạo tàn và lễ giáo phong kiện khắt khe đã chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ, mặc dù họ là những người phụ nữ đáng trân trọng trong gia đình và xã hội.
Câu chuyện kể về cuộc đời và số phận của Vũ Nương – một người, con gái nết na, thùy mị. Chồng nàng lá Trương Sinh, con nhà giàu có nhưng ít học, vốn tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức. Trương Sinh lấy Vũ Nương không phải vì tình yêu mà chỉ vì cảm mến dung hạnh, để rồi không có sự chan hòa, bình đẳng trong cuộc hôn nhân đó. Mầm mống bi kịch của cuộc đời Vũ Nương bắt đầu từ đây.
Mặc dù chồng là người lạnh lùng, khô khan, ích kỉ nhưng Vũ Nương luôn đảm đang, tháo vát, thủy chung. Nàng khát khao hạnh phúc gia đình, mong muốn êm ấm thuận hòa nên luôn giữ gìn khuôn phép, ăn nói chừng mực. Khi chồng đi lính, Vũ Nương đã tiễn chồng bằng những lời mặn nồng, tha thiết: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Thật xúc động với tình cảm cửa người vợ hiền trước lúc chồng đi xa. Tình cảm ấy đã làm mọi người rơi lệ.
Không chỉ là người vợ hiền, Vũ Nương còn là một nàng dâu hiếu thảo. Nàng chăm sóc chu đáo mẹ chồng, hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng như mẹ đẻ của nàng vậy. Chồng đi lính khi nàng có mang, biết bao khổ cực chỉ một thân một mình gánh chịu. Rồi nàng sinh con, một mình nuôi dạy con và chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng mất, nàng vô cùng thương xót, nàng lo ma chay, tế lễ hết sức chu đáo.
Khi giặc tan, Trương Sinh về nhà chỉ vì tin lời con trẻ mà nghi vợ hư hỏng nên chửi mắng vợ thậm tệ, mặc cho lời phân trần của Vũ Nương, mặc cho lời biện bạch của họ hàng làng xóm, Trương Sinh vẫn hồ đồ đánh đuổi Vũ Nương. Đau đớn, tủi nhục, Vũ Nương phải tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang.
Câu chuyện đã thể hiện nỗi oan khúc tột cùng của Vũ Nương, nỗi oan ấy đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội phong kiến vùi dập con người, nhất là người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ bị vùi dập, bị sỉ nhục, bị đày đến bước đường cùng của cuộc đời, họ chỉ biết tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong sạch. Điều này chứng tỏ xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền, độc đoán, sống thiếu tình thương đối với người vợ hiền thục của mình, để rồi gây ra cái chết bi thương đầy oan trái cho Vũ Nương. Thân phận của Vũ Nương thật đáng thương và phẩm chất của nàng cũng thật đáng khâm phục. Khi còn sống nàng là người vợ hiền dâu thảo, sống có nghĩa tình. Khi chết, tuy được các nàng tiên cứu sống ở thủy cung nguy nga, lộng lẫy, nhưng lúc nào nàng cũng nhớ đến quê hương bản quán của mình. Là người nặng tình nghĩa, nàng đã ứa nước mắt khi nghe người cùng làng gợi nhắc đến quê hương, nhắc đến chồng con của mình. Thế nhưng, Vũ Nương vẫn còn đó nỗi đau oan khúc, nàng muốn phục hồi danh dự: Nàng không trở về trần gian mặc dù Trương Sinh đã lập đàn giải oan và đã ân hận với việc làm nông nổi của mình. Nàng không trở về trần gian đâu chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi – người đã cứu nàng, mà điều chủ yếu ở đây là nàng chẳng còn gì để về. Đàn giải oan chỉ là việc an ủi cho người bạc mệnh chứ không thể làm sống lại tình xưa nghĩa cũ. Nỗi oan khuất được giải nhưng hạnh phúc đâu thể tìm lại được. Sự dứt áo ra đi của nàng là thái độ phủ định trần gian với cái xã hội bất công đương thời. Đây cũng là thái độ đấu tranh đòi công lý của người phụ nữ trong xã hội phong kiến suy tàn. Dù cái chết là tấn bi kịch của người phụ nữ, nhưng họ thức tỉnh được tầng lớp phụ quyền, phong kiến. Sự vĩnh viễn chọn cái chết mà không trở lại trần thế của Vũ Nương đã làm cho Trương Sinh phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm của mình. Trương Sinh biết lỗi thì đã quá muộn màng.
Qua câu chuyện về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, Nguyễn Dữ tố cáo xã hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ, tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm vợ xa chồng, cha xa con, gia đình tan vỡ. Nỗi đau của Vũ Nương cũng là nỗi đau của biết bao người phụ nữ dưới chế độ phong kiến như nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và nhiều phụ nữ khác nữa. Phải chăng người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam luôn bị chà đạp dù họ có tài năng và phẩm chất cao đẹp. Bởi thế Nguyễn Dữ đã viết:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời ràng bạc mệnh vẫn là lời chung.
"Phận đàn bà" trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi giây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ. Và cũng như Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy luôn tìm đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình.
Bằng bút pháp kể chuyện, tình tiết lúc chân thật đời thường, lúc hoang đường kì ảo, Nguyễn Dữ đã xây đựng hình tượng nhân vật điển hình cho thân phận người phụ nữ ngày xưa. Họ thật đẹp, thật lí tưởng nhưng xã hội không cho họ hạnh phúc. Tác phẩm của ông vừa đề cao giá trị người phụ nữ lại vừa hạ thấp giá trị của xã hội phong kiến đương thời.
nguồn :internet