Văn Đề chuyên Lê Quý Đôn 2010-Đà Nẵng

Trà Đào

Học sinh mới
Thành viên
30 Tháng ba 2018
16
9
6
21
Đà Nẵng
THCS Lê Độ
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Giúp mình tìm hướng đi cho đề bài n với ; -;
Trong bài “Tiếng nói văn nghệ”, Nguyễn Đình Thi viết :
Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không chỉ ghi những gì đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.
Qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải (Ngữ văn 9, tập 2) và bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy (Ngữ văn 9, tập 1), em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
 
  • Like
Reactions: Băng _Băng-water

Băng _Băng-water

Học sinh chăm học
Thành viên
1 Tháng mười một 2017
244
233
99
23
Thái Bình
Giúp mình tìm hướng đi cho đề bài n với ; -;
Trong bài “Tiếng nói văn nghệ”, Nguyễn Đình Thi viết :
Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không chỉ ghi những gì đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.
Qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải (Ngữ văn 9, tập 2) và bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy (Ngữ văn 9, tập 1), em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

* Giải thích ý kiến của Nguyễn Đình Thi trong Tiếng nói của văn nghệ:
- Giải thích từ ngữ:
+ Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại: đặc trưng riêng của tác phẩm nghệ thuật trong phương thức phản ánh đời sống. Người nghệ sĩ nào khi sáng tác cũng cũng lấy vật liệu mượn ở thực tại - hiện thực khách quan về cuộc sống, con người, xã hội, để xây dựng nên tác phẩm của mình. Có như vậy, tác phẩm của họ mới được công chúng đón nhận, mới đi vào cuộc sống.
+ Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ: tác phầm không chỉ phản ánh cuộc sống thực tại khách quan (ghi lại cái đã có rồi) mà còn là nơi thể hiện những suy nghĩ chủ quan, hay nói cách khác là tâm tư tình cảm, là tư tưởng của người nghệ sĩ. Đây chính là một điều gì mới mẻ luôn xuất hiện trong sáng tác của họ.
- Rút ra nội dung nhận định: ý kiến của Nguyễn Đình Thi đề cập đến nội dung phản ánh, thể hiện của văn nghệ: tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng phản ánh thực tại và là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện thế giới tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình. Đây cũng là đặc trưng của các tác phẩm văn chương, tạo nên sức cuốn hút, sự lay động tâm hồn, là Tiếng nói của văn nghệ.
* Chứng minh qua một số tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở:
Học sinh có thể chọn một số tác phẩm tiêu biểu trong chương trình (các lớp 6,7,8,9) để qua đó chứng minh hai vấn đề chính:
- Tác phẩm văn học phản ánh thực tại đời sống (ghi lại cái đã có rồi): hiện thực cuộc sống luôn được thể hiện rõ nét (ví dụ: xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷỉ XVIII hiện lên với những mặt trái của nó - xã hội vô nhân đạo với những thế lực tàn ác chà đạp chà đạp con người, số phận bi thảm của người phụ nữ… trong Truyện Kiều của Nguyễn Du; cuộc sống đói nghèo, bị dồn vào bước đường cùng của người nông dân trong Lão Hạc của Nam Cao; không khí sôi nổi, hào hứng trong lao động xây dựng cuộc sống mới trong Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận; cuộc sống chiến đấu gian khổ ác liệt nhưng tràn đầy lạc quan trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật…)…
- Tác phẩm văn học là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình (muốn nói một điều gì mới mẻ): Truyện Kiều của Nguyễn Du thể hiện rõ nét sự bất bình, căm ghét đối với xã hội phong kiến, thái độ xót thương vô hạn của nhà văn đối với những người phụ nữ; qua Lão Hạc, Nam Cao nói lên niềm yêu mến, cảm phục đối với những người nông dân nghèo khổ mà giữ được phẩm chất tốt đẹp; Làng của Kim Lân chẳng những thể hiện cái nhìn yêu mến, trân trọng mà còn nói lên được sự biến chuyển trong nhận thức và tình cảm của người nông dân trong bổi đầu chống Pháp; Bến quê của Nguyễn Minh Châu gửi gắm suy nghĩ, bài học nhân sinh về cuộc đời của mỗi con người.
(Lưu ý: học sinh cần chú ý đến tính toàn diện, tiêu biểu của dẫn chứng).
* Đánh giá chung:
- Ý kiến của Nguyễn Đình Thi đề cập đến nội dung có tính chất đặc trưng của tác phẩm văn nghệ nói chung, tác phẩm văn học nói riêng, gợi cho người đọc có phương pháp tiếp cận tác phẩm đúng đắn và sâu sắc.
- Để có một nội dung sâu sắc, hấp dẫn, nhà văn chẳng những phải có vốn sống phong phú mà còn phải có tài năng nghệ thuật, và quan trọng nhất là tình cảm chân thành, tư tưởng đúng đắn.
 
  • Like
Reactions: Trà Đào

Trà Đào

Học sinh mới
Thành viên
30 Tháng ba 2018
16
9
6
21
Đà Nẵng
THCS Lê Độ
Đây là bài chung mất rồi ;-; đang làm thì bị tịt ý, không biết rút ra luận điểm từ MXNN như thế nào đây ;-;

Bạn đọc dùm mình bài này được không, mình đang chứng minh phần đầu của 2 bài thơ ; -;
Bài làm
Hiện thực cuộc sống vẫn luôn là nơi khơi nguồn cảm hứng, cung cấp đề tài và chất liệu sáng tác cho các nhà văn, nhà thơ trong nhiều thời đại. Nhận xét về mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và hiện thực, Nguyễn Đình Thi đã viết : ”Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không chỉ ghi những gì đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.” Quả thực, nếu đã từng đọc qua tác phẩm “Ánh trăng” của Nguyễn Duy hay “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải,độc giả đã không chỉ ấn tượng bởi những hình ảnh thơ gần gũi mà sâu sắc, gắn liền với hiện thực của cuộc sống sau chiến tranh; mà còn bởi vẻ đẹp trong tinh thần, trong tâm hồn của chính tác giả, được gởi gắm qua ngòi bút tinh tế, giàu cảm xúc của hai ông. Ẩn chứa trong một “vầng trăng tình nghĩa” hay “một mùa xuân nho nhỏ” ấy là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà sâu sắc, láng đọng lại một lối sống cao đẹp, coi trọng nghĩa tình hay đẹp đẽ không kém là những khát khao, hi vọng được cống hiến cho cuộc đời chung; đã dần được bộc lộ, thể hiện trong dòng hồi tưởng của thi nhân. Có thể nói, cả hai tác phẩm chính là một minh chứng sáng giá, hàm súc nhất cho lời bình của Nguyễn Đình Thi, làm sáng tỏ hơn cho nhận định thông qua những hình ảnh thơ nhẹ nhàng mà sâu sắc.
Bằng nhiều cách khác nhau, hiện thực đã đi vào những trang văn học hay vô vàn các tác phẩm nghệ thuật khác qua chính con mắt của người nghệ sĩ, để rồi đến với người đọc cùng bao cảm xúc, suy tư. Để làm được điều ấy,các nhà văn, nhà thơ đã không chỉ xây dựng tác phẩm bằng những “vật liệu mượn ở thực tại”, hay đơn thuần là “ghi những cái gì đã có rồi”. Họ đã gửi gắm một lời nhắn nhủ, một bài học nhẹ nhàng mà ý nghĩa qua những hình ảnh thơ rất riêng, với những cảm xúc, rung động trong tâm hồn của mỗi thi nhân. Chính vì vậy, dù cùng hướng về hình ảnh của thiên nhiên qua hình tượng của vầng trăng và mùa xuân đất nước, song ngòi bút của Nguyễn Duy và Thanh Hải lại thể hiện những vẻ đẹp và bài học không hoàn toàn như nhau.
Ra đời vào năm 1978 và được in trong tập thơ cùng tên, “Ánh trăng” đã đánh dấu những chuyển biến trong suy nghĩ và tình cảm của người lính trong cuộc sống sau chiến tranh. Vốn là một nhà thơ mặc áo lính, Nguyễn Duy thường hướng đến và ca ngợi sức mạnh âm thầm, lặng lẽ, biết chịu đựng và hi sinh của con người Việt Nam trong công cuộc kháng chiến trường kỳ, khốc liệt. Hiện rõ qua những tác phẩm “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, “Bầu trời vuông” hay “Em bé lạc mẹ”…là những nét đặc sắc riêng của nhà thơ, mang cái chân chất, chắc bền và sâu kín. Sau kháng chiến, thơ Nguyễn Duy đã dần ổn định một giọng điệu quen thuộc mà không nhàm chán, thể hiện những nỗi niềm trăn trở, băn khoăn trong cuộc sống mới, cùng với những tình cảm thiết tha, bình dị, gắn bó đối với quê hương, với quá khứ nghĩa tình. Bên cạnh “Đò Lèn”, “Ánh trăng” đã trở thành một bài thơ xuất sắc của ông cùng mang những dòng tâm tình sâu đậm ấy. Từ hình ảnh của một vầng trăng tri kỉ xuyên suốt trong tác phẩm, ta không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của một quá khứ nghĩa tình xen lẫn với thực tại, mà còn là cả một lối sống ân nghĩa thủy chung với quá khứ, như “một lời nhắn nhủ” của nhà thơ với bản thân, với bạn đọc.
“Hồi nhỏ sống với đồng…
Đủ cho ta giật mình”
Mở đầu tác phẩm, nhà thơ khơi gợi lại một quá khứ gắn bó thân thiết với thiên nhiên, với đất trời qua cuộc sống gần gũi “với đồng”, “với sông rồi với bể”. Từ những tháng ngày thơ ấu được rong chơi, vui đùa trên bờ sông, cánh đồng, cho đến “hồi chiến tranh” trên rừng, hình ảnh của một vầng trăng sáng vẫn luôn xuất hiện bên con người, trong cuộc sống bình dị, nhẹ nhàng khi xưa; để rồi trở thành một tri kỉ với bao tình cảm sâu đậm. Nếu ta đã từng bắt gặp một vầng trăng lặng lẽ, nhẹ nhàng “nhòm khe cửa” trong “Vọng nguyệt”, “vào cửa sổ đòi thơ” trong “Tin thắng trận” (Hồ Chí Minh), hay ánh trăng huyền ảo của Lý Bạch trong tác phẩm “Tĩnh Dạ Tứ”; thì giờ đây, bạn đọc lại nhận thấy một nét đáng yêu, hồn nhiên riêng với những hình ảnh thơ chân thực mà giàu ý nghĩa của Nguyễn Duy. Bởi lẽ, ngòi bút của ông không chỉ hướng về vầng trang của hiện thực, mà sâu đậm hơn, đó còn là vầng trăng của tình nghĩa, của tri kỉ ngày nào. Từ nét trong sáng, đầy đặn và vẹn toàn vốn có của trăng, nhà thơ đã gợi nên biết bao vẻ đẹp khác khi đưa trăng lại gần với thiên nhiên, với con người. Không còn là bóng dáng đơn độc, lẻ loi, cách xa con người trong “Thu dạ” :”Trên trời trăng lướt giữa làn mây”; trăng của Nguyễn Duy còn là một người bạn thủa ấu thơ từ những ngày “hồi nhỏ sống với đồng”, một người đồng đội khi “chiến tranh ở rừng”, và trên hết, đó là vầng trăng của tri kỉ, của tình nghĩa năm xưa !
“…vầng trăng thành tri kỉ…
cái vầng trăng tình nghĩa”
Khác với Nguyễn Duy, bức tranh thiên nhiên của Thanh Hải lại hướng đến cảnh vật ngày xuân, với những vẻ đẹp của tâm hồn con người cùng những rung động, xúc cảm có phần riêng tư, tâm tình hơn. Với tình yêu thiên nhiên, quê hương sâu sắc, Thanh Hải thường viết và ca ngợi miền đất Huế cùng những vẻ đẹp của thiên nhiên, của tâm hồn con người qua những hình tượng thơ nhẹ nhàng mà giàu ý nghĩa. Sau tác phẩm “Huế mùa xuân”(1970-1972) và “Mưa xuân đất này” (1982), bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là áng thơ cuối của ông dành cho chùm thơ viết về mùa xuân. Tác phẩm ra đời vào tháng 11 năm 1980, khi tác giả đang nằm trên giường bệnh, đối diện với ngưỡng cửa của sự sống và cái chết. Không lâu sau, Thanh Hải ra đi, “Mùa xuân nho nhỏ” trở thành món quà cuối cùng của ông dành tặng cho đời, cho nền thơ ca Việt Nam; chứa đựng biết bao cảm xúc thiết tha, xao xuyến. Bên cạnh vẻ đẹp của mùa xuân đất trời, của quê hương, đất nước; bài thơ còn ẩn chứa những ước nguyện, mong muốn và khát khao được cống hiến của nhà thơ trước lúc đi xa, láng động với biết bao vẻ đẹp sâu sắc trong một tâm hồn giàu niềm tin yêu cuộc sống.
“Mọc giữa dòng dòng sông xanh…
Nhịp phách tiền đất Huế”
Ngay từ những dòng thơ đầu, Thanh Hải đã khắc họa nên những tín hiệu mùa xuân với hình ảnh của miền đất Huế thân thương, gần gũi. Không chỉ là “Sắc mai vàng ngỡ là sắc nắng/Áo trắng bay ngỡ là cánh én” trong “Huế mùa xuân”, giờ đây, hiện lên trong mùa xuân của Thanh Hải còn là con sông Hương xanh xanh, tô điểm bởi bông hoa lục bình “tím biếc” tràn đầy sức sống mãnh liệt, hòa với âm thanh vang vọng của tiếng chim chiền chiện “hót vang trời” ! Bằng những cảm nhận sâu sắc và tinh tế đối với hình ảnh đầy thơ mộng, đẹp đẽ ấy, nhà thơ đã bộc lộ mọi cảm xúc, rung động cùng niềm hân hoan trong lòng chỉ với những từ ngữ “ơi”, “chi” giàu âm điệu, giàu tính khẩu ngữ; bên cạnh một sự trân quý, nâng niu những món quà mà thiên nhiên ban tặng. Đối với ông, dù chỉ cảm nhận mùa xuân quê hương trong mạch hồi tưởng của chính mình, song mọi yêu mến, gắn bó với đất nước đã được thể hiện thật chân thành và tha thiết. Trải qua gần năm mươi mùa xuân trong cuộc đời, phải chăng, những áng thơ của Thanh Hải chỉ mang những vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời xứ Huế ?...
 
Last edited by a moderator:
  • Like
Reactions: Băng _Băng-water

Băng _Băng-water

Học sinh chăm học
Thành viên
1 Tháng mười một 2017
244
233
99
23
Thái Bình
Bạn đọc dùm mình bài này được không, mình đang chứng minh phần đầu của 2 bài thơ ; -;
Bài làm
Hiện thực cuộc sống vẫn luôn là nơi khơi nguồn cảm hứng, cung cấp đề tài và chất liệu sáng tác cho các nhà văn, nhà thơ trong nhiều thời đại. Nhận xét về mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và hiện thực, Nguyễn Đình Thi đã viết : ”Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không chỉ ghi những gì đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.” Quả thực, nếu đã từng đọc qua tác phẩm “Ánh trăng” của Nguyễn Duy hay “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải,độc giả đã không chỉ ấn tượng bởi những hình ảnh thơ gần gũi mà sâu sắc, gắn liền với hiện thực của cuộc sống sau chiến tranh; mà còn bởi vẻ đẹp trong tinh thần, trong tâm hồn của chính tác giả, được gởi gắm qua ngòi bút tinh tế, giàu cảm xúc của hai ông. Ẩn chứa trong một “vầng trăng tình nghĩa” hay “một mùa xuân nho nhỏ” ấy là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà sâu sắc, láng đọng lại một lối sống cao đẹp, coi trọng nghĩa tình hay đẹp đẽ không kém là những khát khao, hi vọng được cống hiến cho cuộc đời chung; đã dần được bộc lộ, thể hiện trong dòng hồi tưởng của thi nhân. Có thể nói, cả hai tác phẩm chính là một minh chứng sáng giá, hàm súc nhất cho lời bình của Nguyễn Đình Thi, làm sáng tỏ hơn cho nhận định thông qua những hình ảnh thơ nhẹ nhàng mà sâu sắc.
Bằng nhiều cách khác nhau, hiện thực đã đi vào những trang văn học hay vô vàn các tác phẩm nghệ thuật khác qua chính con mắt của người nghệ sĩ, để rồi đến với người đọc cùng bao cảm xúc, suy tư. Để làm được điều ấy,các nhà văn, nhà thơ đã không chỉ xây dựng tác phẩm bằng những “vật liệu mượn ở thực tại”, hay đơn thuần là “ghi những cái gì đã có rồi”. Họ đã gửi gắm một lời nhắn nhủ, một bài học nhẹ nhàng mà ý nghĩa qua những hình ảnh thơ rất riêng, với những cảm xúc, rung động trong tâm hồn của mỗi thi nhân. Chính vì vậy, dù cùng hướng về hình ảnh của thiên nhiên qua hình tượng của vầng trăng và mùa xuân đất nước, song ngòi bút của Nguyễn Duy và Thanh Hải lại thể hiện những vẻ đẹp và bài học không hoàn toàn như nhau.
Ra đời vào năm 1978 và được in trong tập thơ cùng tên, “Ánh trăng” đã đánh dấu những chuyển biến trong suy nghĩ và tình cảm của người lính trong cuộc sống sau chiến tranh. Vốn là một nhà thơ mặc áo lính, Nguyễn Duy thường hướng đến và ca ngợi sức mạnh âm thầm, lặng lẽ, biết chịu đựng và hi sinh của con người Việt Nam trong công cuộc kháng chiến trường kỳ, khốc liệt. Hiện rõ qua những tác phẩm “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, “Bầu trời vuông” hay “Em bé lạc mẹ”…là những nét đặc sắc riêng của nhà thơ, mang cái chân chất, chắc bền và sâu kín. Sau kháng chiến, thơ Nguyễn Duy đã dần ổn định một giọng điệu quen thuộc mà không nhàm chán, thể hiện những nỗi niềm trăn trở, băn khoăn trong cuộc sống mới, cùng với những tình cảm thiết tha, bình dị, gắn bó đối với quê hương, với quá khứ nghĩa tình. Bên cạnh “Đò Lèn”, “Ánh trăng” đã trở thành một bài thơ xuất sắc của ông cùng mang những dòng tâm tình sâu đậm ấy. Từ hình ảnh của một vầng trăng tri kỉ xuyên suốt trong tác phẩm, ta không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của một quá khứ nghĩa tình xen lẫn với thực tại, mà còn là cả một lối sống ân nghĩa thủy chung với quá khứ, như “một lời nhắn nhủ” của nhà thơ với bản thân, với bạn đọc.
“Hồi nhỏ sống với đồng…
Đủ cho ta giật mình”
Mở đầu tác phẩm, nhà thơ khơi gợi lại một quá khứ gắn bó thân thiết với thiên nhiên, với đất trời qua cuộc sống gần gũi “với đồng”, “với sông rồi với bể”. Từ những tháng ngày thơ ấu được rong chơi, vui đùa trên bờ sông, cánh đồng, cho đến “hồi chiến tranh” trên rừng, hình ảnh của một vầng trăng sáng vẫn luôn xuất hiện bên con người, trong cuộc sống bình dị, nhẹ nhàng khi xưa; để rồi trở thành một tri kỉ với bao tình cảm sâu đậm. Nếu ta đã từng bắt gặp một vầng trăng lặng lẽ, nhẹ nhàng “nhòm khe cửa” trong “Vọng nguyệt”, “vào cửa sổ đòi thơ” trong “Tin thắng trận” (Hồ Chí Minh), hay ánh trăng huyền ảo của Lý Bạch trong tác phẩm “Tĩnh Dạ Tứ”; thì giờ đây, bạn đọc lại nhận thấy một nét đáng yêu, hồn nhiên riêng với những hình ảnh thơ chân thực mà giàu ý nghĩa của Nguyễn Duy. Bởi lẽ, ngòi bút của ông không chỉ hướng về vầng trang của hiện thực, mà sâu đậm hơn, đó còn là vầng trăng của tình nghĩa, của tri kỉ ngày nào. Từ nét trong sáng, đầy đặn và vẹn toàn vốn có của trăng, nhà thơ đã gợi nên biết bao vẻ đẹp khác khi đưa trăng lại gần với thiên nhiên, với con người. Không còn là bóng dáng đơn độc, lẻ loi, cách xa con người trong “Thu dạ” :”Trên trời trăng lướt giữa làn mây”; trăng của Nguyễn Duy còn là một người bạn thủa ấu thơ từ những ngày “hồi nhỏ sống với đồng”, một người đồng đội khi “chiến tranh ở rừng”, và trên hết, đó là vầng trăng của tri kỉ, của tình nghĩa năm xưa !
“…vầng trăng thành tri kỉ…
cái vầng trăng tình nghĩa”
Khác với Nguyễn Duy, bức tranh thiên nhiên của Thanh Hải lại hướng đến cảnh vật ngày xuân, với những vẻ đẹp của tâm hồn con người cùng những rung động, xúc cảm có phần riêng tư, tâm tình hơn. Với tình yêu thiên nhiên, quê hương sâu sắc, Thanh Hải thường viết và ca ngợi miền đất Huế cùng những vẻ đẹp của thiên nhiên, của tâm hồn con người qua những hình tượng thơ nhẹ nhàng mà giàu ý nghĩa. Sau tác phẩm “Huế mùa xuân”(1970-1972) và “Mưa xuân đất này” (1982), bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là áng thơ cuối của ông dành cho chùm thơ viết về mùa xuân. Tác phẩm ra đời vào tháng 11 năm 1980, khi tác giả đang nằm trên giường bệnh, đối diện với ngưỡng cửa của sự sống và cái chết. Không lâu sau, Thanh Hải ra đi, “Mùa xuân nho nhỏ” trở thành món quà cuối cùng của ông dành tặng cho đời, cho nền thơ ca Việt Nam; chứa đựng biết bao cảm xúc thiết tha, xao xuyến. Bên cạnh vẻ đẹp của mùa xuân đất trời, của quê hương, đất nước; bài thơ còn ẩn chứa những ước nguyện, mong muốn và khát khao được cống hiến của nhà thơ trước lúc đi xa, láng động với biết bao vẻ đẹp sâu sắc trong một tâm hồn giàu niềm tin yêu cuộc sống.
“Mọc giữa dòng dòng sông xanh…
Nhịp phách tiền đất Huế”
Ngay từ những dòng thơ đầu, Thanh Hải đã khắc họa nên những tín hiệu mùa xuân với hình ảnh của miền đất Huế thân thương, gần gũi. Không chỉ là “Sắc mai vàng ngỡ là sắc nắng/Áo trắng bay ngỡ là cánh én” trong “Huế mùa xuân”, giờ đây, hiện lên trong mùa xuân của Thanh Hải còn là con sông Hương xanh xanh, tô điểm bởi bông hoa lục bình “tím biếc” tràn đầy sức sống mãnh liệt, hòa với âm thanh vang vọng của tiếng chim chiền chiện “hót vang trời” ! Bằng những cảm nhận sâu sắc và tinh tế đối với hình ảnh đầy thơ mộng, đẹp đẽ ấy, nhà thơ đã bộc lộ mọi cảm xúc, rung động cùng niềm hân hoan trong lòng chỉ với những từ ngữ “ơi”, “chi” giàu âm điệu, giàu tính khẩu ngữ; bên cạnh một sự trân quý, nâng niu những món quà mà thiên nhiên ban tặng. Đối với ông, dù chỉ cảm nhận mùa xuân quê hương trong mạch hồi tưởng của chính mình, song mọi yêu mến, gắn bó với đất nước đã được thể hiện thật chân thành và tha thiết. Trải qua gần năm mươi mùa xuân trong cuộc đời, phải chăng, những áng thơ của Thanh Hải chỉ mang những vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời xứ Huế ?...
bài này khá ổn rồi!
Bạn có thể mở rộng ra như là nói về các tác phẩm khác hoặc là so sánh hai tác phẩm trên với nhau chẳng hạn cho bài thêm sâu sắc!
 
  • Like
Reactions: Trà Đào

Trà Đào

Học sinh mới
Thành viên
30 Tháng ba 2018
16
9
6
21
Đà Nẵng
THCS Lê Độ
bài này khá ổn rồi!
Bạn có thể mở rộng ra như là nói về các tác phẩm khác hoặc là so sánh hai tác phẩm trên với nhau chẳng hạn cho bài thêm sâu sắc!
Mình cảm ơn, vậy đối với MXNN mình có phát triển thành hai luận điểm là : + hình ảnh của mùa xuân trong cuộc sống -> nhắn nhủ tình yêu đất nước
+ Khát khao được cống hiến -> góp một phần vào đời sống xung quanh và nhắn gửi lối sống biết hi sinh
thì có ổn không bạn ?
 

Lê Hoàng Đức Barcelona

Học sinh tiến bộ
Thành viên
7 Tháng mười 2014
427
259
194
Quảng Bình
THPT Đồng Hới
Mình cảm ơn, vậy đối với MXNN mình có phát triển thành hai luận điểm là : + hình ảnh của mùa xuân trong cuộc sống -> nhắn nhủ tình yêu đất nước
+ Khát khao được cống hiến -> góp một phần vào đời sống xung quanh và nhắn gửi lối sống biết hi sinh
thì có ổn không bạn ?
Phát triển thành hai luận điểm đó là ok rồi em
 
  • Like
Reactions: Trà Đào
Top Bottom