Văn Nghị luận văn học [phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ nhận định]

Lê Hoàng Đức Barcelona

Học sinh tiến bộ
Thành viên
7 Tháng mười 2014
427
259
194
Quảng Bình
THPT Đồng Hới
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Nhà phê bình Nga Bêlinxki viết: "Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó." Bằng sự hiểu biết về văn học, anh/chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.
Làm dàn bài chi tiết giúp em với ạ, cảm ơn nhiều ạ @baochau1112
 

Euphemia ~ LOL

Học sinh
Thành viên
18 Tháng hai 2018
85
73
31
Nghệ An
THCS Hải Hòa
Nhà phê bình Nga Bêlinxki viết: "Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó." Bằng sự hiểu biết về văn học, anh/chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.
Làm dàn bài chi tiết giúp em với ạ, cảm ơn nhiều ạ @baochau1112
Bạn có thể tham khảo

upload_2018-2-20_21-11-35.png
upload_2018-2-20_21-12-9.png
upload_2018-2-20_21-12-45.png

Bài làm
Trong đại dương nghệ thuật mênh mông, có những viên ngọc ngàn đời bất tử nhưng cũng có những chiếc thuyền nghệ thuật vừa đắm khi vừa mới ra khơi. Phải chăng vì “ Tác phầm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. ( Bêlinxki)
Có phải đó là yêu cầu có tính chất sống còn đối với tác phẩm nghệ thuật nói chung, văn chương nói riêng? Bởi nếu tác phẩm nghệ thuật “ miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả” thì có khác chăng một bức ảnh, bản phôtô nguyên xi, máy móc, vô hồn về cuộc sống. Và liệu rằng các tác phẩm đó có cung cấp cho người đọc những hiểu biết chính xác, phong phú hơn các ngành khoa học khác? Nhưng ko thể bác bỏ chức năng “ miêu tả cuộc sống” của tác phẩm nghệ thuật- ở đây hiểu là văn học. Có thể nói cuộc đời là mạch sữa ngọt ngào nuôi lớn văn học, là nguồn nhựa sống dạt dào ko bao giờ vơi cạn. Và có nhà văn, nhà thơ nào có thể sống ở ngoài thế giới hiện thực, bay vào 1 thế giới khác? Vậy nên tác phẩm nghệ thuật phải “ trước hết là cuộc đời”, bởi cuộc đời chính là nơi khơi nguồn, bắt nước và cũng là nơi hướng tới của nghệ thuật chân chính.
Vậy điều gì khiến tp nghệ thuật “ nằm ngoài quy luật của sự băng hoại”, chỉ mình nó ko thừa nhận cái chết? Phải chăng theo ý kiến của nhà phê bình người Nga Bêlinxki trên đây, đó là tư tưởng, tình cảm, là cái tâm của người cẩm bút? 1 bức tranh dù có đẹp đến mấy, 1 bản nhạc dù có hay đến mấy rồi cũng sẽ dần bị lãng quên. Nhưng có những tp qua bao biến cố thăng trầm vẫn vẹn nguyên như thuở nào, vẫn làm bao trái tim người đọc xúc động. Bởi tp đó “ là tiếng thét khổ đau” hoặc “ lời ca tụng hân hoan”. Văn học là làm theo quy luật của tình cảm, là tiếng trống thôi thúc của trái tim. Làm sao nhà văn có thể viết đc khi trái tim anh ko hề rung động? Phải có sự xúc động của nhà văn trc cuộc đời thì văn học mới là văn học, mới ko đơn thuần là hành động chép sử. Tâm hồn nhà văn chính là cửa ngõ để từ đó hiện thực cuộc sống bước vào trang giấy. Bằng trải nghiệm lòng mình, bằng sự nhập thân giữa nhà văn với cuộc đời đã kết tinh thành nghệ thuật. “ Đừng cậy thời đại anh hùng nếu tâm hồn anh quá bé” - ấy là lời nhắn nhủ chân thành, sâu sắc của Chế Lan Viên để lại cho chúng ta. “ Thơ muốn người ta khóc, đầu tiên mình phải khóc, muốn làm cho người ta cười, trước hết mình phải cười” Có ai biết Nguyễn Du đã bao lần nhỏ lệ trc số phận bất hạnh của nàng Kiểu? 15 năm lưu lạc, mỗi lần Kiều bị đánh đập, hành hạ ta như thấy nước mắt ND trên trang giấy. “ Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiểu”. Phải chăng đau đớn quá mà đại thi hào đã thốt lên những lời huyết lệ:
“ Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
2 câu thơ đó hôm nay và mãi mai sau vẫn còn vang vọng, vẫn làm lay động muôn triệu trái tim, tâm hồn đồng điệu. Vì đâu? Vì đó là “ tiếng thét khổ đau”? Vâng, đó là sự trào dâng mãnh liệt của cảm xúc, là tiếng thét kêu cứu, “ tiếng thét khổ đau” cho cuộc đời đầy đau đớn của nàng Kiều. Nguyễn Du khóc, Thúy Kiều đã cạn khô nước mắt và chúng ta- biết bao thế hệ độc giả cũng phải rơi lệ. Thương cảm ,xót xa biết bao cho kiếp người “ tài hoa bạc mệnh” . “ Truyện Kiều” xứng đáng là 1 kiệt tác! Cùng với Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cũng viết về người phụ nữ, nhưng với tâm trạng của người trong cuộc. Viết về cuộc đời mình còn gì tuyệt vời hơn! Còn gì chân thật hơn những nỗi niềm suy tư của chính bản thân mình. Đọc thơ Xuân Hương người đọc như thấy máu và nước mắt quyện khô trên trang giấy. Dường như trái tim người phụ nữ bé nhỏ ấy đã vỡ tan khi mơ ước ko thành. Lam sao ko đau khi cả cuộc đời nữ sĩ chỉ khao khát đc hưởng hương vị của tình yêu, của hạnh phúc để rồi đc gì ngoài “ kiếp lấy chồng chung”, ngoài thứ tình cảm chia 5 sẻ 7 “ mảnh tình san sẻ tí con con”. Đau thật! Như có hàng vạn con dao đâm và trái tim. Nhưng HXH ko yếu đuối như các nhi nữ bình thường khác, nữ sĩ rất mạnh mẽ, rất kiên cường. HXH muốn vượt thoát tất cả, muốn “ chém cha cái kiếp lấy chồng chung” để rồi đây ko còn chịu cảnh “ kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Trớ trêu thay trong cái XHPK bất công phi nhân tính ấy, những người như HXH làm sao có lối thoát. Cố thoát ra nhưng đành bất lực để giờ đây tiếng thơ người còn vang vọng mãi muôn nơi. Phải chăng Xuân Hương đã gửi hồn mình vào trong đó?
Cuộc đời bao la vô cùng, có biết bao “ tiếng thét khổ đau” khác, có thể quanh ta hay nơi nào đó, cũng có thể là của chính bản thân ta. Các tp nghệ thuật đã phơi bày 1 vài mảng nhỏ trong đó, dù ở mảng thì thì cũng có thể gieo vào lòng người đọc hạt giống cảm thông, yêu thương, chia sẻ. Nếu như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cày xới trên mảnh đất viết về người phụ nữ thì Nam Cao lại đào sâu về người nông dân trc CM T8. Ấy là Chí Phèo, 1 nạn nhân đau khổ của cái XH cạn khô tình người với những ác quỷ mặt người. Khi vừa mới lọt lòng Chí đã ko đc hưởng tình thương của mẹ cha. Lớn lên trong vòng tay yêu thương, đùm bọc nào của anh thả ống lương, bà cụ lòa, bác phó cối. Những năm tháng ấm áp đó chỉ lướt qua như cơn gió trong những câu chữ ngắn gọn của NC. Nặng nề, ảm đạm theo từng dòng chữ là các năm tháng tù tội, những lần rạch mặt ăn vạ, những cơn say triền miên ko dứt của Chí. NC chỉ biết bất lực nhìn Chí rơi xuống vực thẳm. Ông muốn cứu Chí lắm chứ nhưng ko thể. Trong XH đó làm sao có đất sống cho con người nếu ko trở thành “ quỷ”. Có người nhận xét rằng ngòi bút NC có vẻ lạnh lùng, dửng dưng, miệt thị với số phận CP. Ôi! Có ai thấy đc trái tim ấm nóng tình người của nhà văn? NC yêu thương CP lắm chứ, bởi chỉ có ông thấy đc phần người trong “ con quỷ của làng Vũ Đại” . Phải thật yêu thương con người mới có thể thấy đc điều đó. Cho CP gặp Thị Nở, đó là 1 ân huệ lớn đối với 1 con quỷ. Cuộc đời Chí đã chấm dứt từ lâu giờ lại có 1 tia sáng le lói. Chao ôi! Phần người trong Chí đã đc đánh thức. Những tháng ngày triền miên say, những miệt thị của người đời giờ đây có thể thay đổi. 5 ngày đc ở cùng Thị Nở sao mà dài thế! NC thật thiên vị khi dành quá nhiều giấy mực cho 5 ngày đó. Nhưng cũng khó trách nhà văn, vì ông quá yêu thương nv của mình. Những ngày Chí từ vực sau leo lên ngưỡng cửa cuộc đời là những ngày NC vui nhất. Bát cháo hành đã đánh thức lương tri của Chí, thức tỉnh Chí. Tình yêu thương cuả thi Nở đã đánh chết con quỷ trong Chí. Nói Thị Nở là nv đẹp nhất cũng ko quá. Dù vẻ ngoài xấu xí nhưng tấm lòng của thị cao đẹp biết chừng nào. Tình yêu của thị Nở như nguồn nc giữa sa mạc cạn khô tình người. Đẹp quá! Nhưng cái XH khốn nạn đó đã ko cho Chí cơ hội về với cuộc đời. Chí chết trên ngưỡng cửa giữa vực thẳm và cs. Còn gì đau đớn hơn thân phận con người ấy? Ta còn như ngửi thấy giọt nước mắt của Chí. Ôi! NC, ông đã làm đc điều đó- làm cho “ người gần người hơn”
Cuộc đời đâu chỉ có riêng tiếng khóc, bầu trời đâu chỉ có mây đen mà còn có những tia nắng vàng rực rỡ làm cs thêm đẹp tươi, cho tiếng cười thêm giòn giã. Văn học phản ánh hiện thực, đâu chỉ phản ánh những đau khổ mà còn ngợi ca những vẻ đẹp , những niềm vui của cs, của con người. Đến với thơ Xuân Diệu là đến với nguồn sống mới, ta như đc nạp thêm năng lượng, thêm sức trẻ để yêu đời, yêu người hơn. Có ai thấy đc cs đẹp tươi, tràn trể như XD?
“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật
…..
Tháng giêng ngon như 1 cặp môi gần”
( Vội vàng)
Đẹp làm sao! Mùa xuân mơn mởn, xanh non, biếc rờn chẳng ai có thể dửng dưng, vô cảm. Thế giới đc cảm nhận qua đôi mắt của XD thật sống động, tràn đầy âm sắc, âm thanh, hương vị, tràn trể nhựa sống. Ta như thấy bàn tay thi sĩ đang chìa ra mời gọi, nào hãy đến đây thưởng thức thiên đường trên mặt đất. Thương quá, yêu quá những vần thơ đắm say. Thơ XD ko phải sự mô phỏng cs mà đó là “ lời ca tụng hân hoan” vẻ đẹp đích thực của cs.
Và Nguyễn Thành Long với “ Lặng lẽ Sa Pa” cũng cất lên tiếng hát ngợi ca vẻ đẹp con người. Hình tượng anh thanh niên mới đẹp làm sao! Sao mà yêu đến thế! Ở anh vừa có vẻ đẹp của tâm hồn, vể lí tưởng sống mà lại còn rất đẹp trong sinh hoạt hàng ngày. Tình nguyện lên làm việc ở đỉnh Sa Pa lạnh giá, vừa cô đơn, vừa thiếu thốn trăm bề vậy mà anh vẫn rất vui vẻ, hăng hái làm việc. Với 1 chàng trai trẻ ưa náo nhiệt thì đó quả là 1 thử thách lớn. Mà công việc của anh thì cũng dễ dàng gì cho cam. Phải có ý chí lắm mới làm đc. Thật khâm phục! Còn người vừa đẹp trong cách nghĩ, vừa đẹp trong hành động. Đẹp làm sao trong đêm giá rét, 1 con người vẫn phải băng vào đêm tối để đo đạc phục vụ cho đất nc mà chẳng buông 1 tiếng thở than. Anh vừa khiêm tốn, chịu khó, cẩn thận lại rất mến khách. Trong tim anh luôn sôi trào dòng máu yêu thương. Anh yêu thương mọi người, luôn nghĩ cho họ, nào là vợ bác lái xe, ông họa sĩ,…Trong nếp sống hàng ngày của anh cũng toát ra vẻ đẹp hiếm có. Sạch sẽ, gọn gàng, lại biết nuôi gà để cải thiện cs, trồng hoa, đọc sách- lối sống lành mạnh biết bao. Nguyễn Thành Long đã xây dựng 1 hình tượng thật có giá trị. Phải yêu thương lắm nhà văn mới dựng nên 1 nv đẹp đến mức tuyệt mĩ.
Như vậy có thể thấy tình cảm là điều kiện ko thể thiếu để có tp nghệ thuật đích thực. Nhưng nếu có tình cảm ko thôi, liệu văn học có đc sức sống mãnh liệt đến vậy? Bêlinxki thêm 1 lần nữa nhấn mạnh vai trò đặc biệt đúng đắn, sâu sắc của tư tưởng nhà văn. Tp nghệ thuật sẽ sống nếu nó “ đặt ra những câu hỏi” và “ trả lời những câu hỏi đó”. Sẽ chẳng còn lại gì nếu tp đó ko để lại trong lòng người đọc những day dứt, ám ảnh.
Gấp trang sách lại rồi mà ta còn nghe vang vọng đâu đây tiếng còi tàu trong “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Tiếng còi đó khiến ta chợt tỉnh để nhận ra rằng: cái “ ao Đời bằng phẳng” đó có phải ý nghĩa đích thực của cs? Tiếng kêu cứu của 2 đứa trẻ, cái phố huyện tù túng, quẩn quanh đó cứ ám ảnh ta mãi ko thôi. 2 đứa trẻ kia rồi sẽ ra sao? Cs những con người nơi phố huyện kia rồi sẽ đi về đâu? Chưa có câu trả lời cho câu hỏi đó, nhưng TL đã giúp người đọc hé mở phần nào. Trong hoàn cảnh tù túng, quẩn quanh, vô nghĩa như thế, con người phải tự vượt lên để ko bị bóng tối nhấn chìm. Trong mỗi người dân phố huyện vẫn le lói những hi vọng, những ước mơ dù vẫn còn mơ hồ. Cs sẽ ko bao giờ tắt nếu tim ta vẫn còn ngọn lửa của ước mơ. Đó chính là chiều sâu tư tưởng nhân đạo trong sáng tác của TL. Phải chăng vì thế mà “ Hai đứa trẻ” của ông vẫn còn đang sống, đang cố thoát ra cái thế giới ngột ngạt đó?
Còn NC qua bi kịch của CP đã đưa ra bao câu hỏi dồn dập: Làm thế nào để cứu những con nguời như CP? Làm sao để XH ko còn những anh Chí? Làm thế nào?... những câu hỏi đó cứ vang vọng, văng vẳng suốt thiên truyện, đau đáu mãi ko thôi. Tai ta như còn nghe rõ tiếng CP : “ Ai cho tao lương thiện?” như cứa vào lòng độc giả. Phải tiêu diệt cái XH tàn ác, cạn khô tình người đó, phải tiêu diệt các thế lực chuyên “ hút máu người”, “ ăn thịt người” như Bá Kiến, Đội Tảo,…để ko còn những CP con. Đó là câu trả lời của NC. Và, thông qua tp này, nhà văn cũng gửi đến người đọc thông điệp sâu sắc: chỉ có tình người mới đánh động đc lương tri trong những linh hồn tội lỗi, chỉ có tình người mới cứu đc tình người. CP nhờ tình thương của thị Nở đã đc cảm hóa. Bi kịch của CP cho đến tận hôm nay vẫn là 1 nỗi trăn trở, day dứt lớn.
Tìm hiểu sâu sắc về bản chất của cs, vể bản chất con người là nhu cầu chính đáng của con người. Độc giả tìm đến tp văn chương đâu phải chỉ để tìm hiểu về hiênj thực cs, mà còn muốn biết thêm về ý nghĩa, giá trị của cs, để tìm câu trả lời cho những băn khoăn, trăn trở của bản thân mình. Vì vậy yêu cầu có tính chất sống còn đối với tp văn học là phải “ đặt ra những câu hỏi” và “ trả lời những câu hỏi đó”. Nói cách khác, đó là sự hiện hình của tư tưởng nhà văn trong tp. Tư tưởng đó phải thật đúng đắn, bởi “ Làm 1 thầy thuốc kê đơn buốc thuốc bậy chỉ giết chết 1 người, làm 1 viên võ tướng điều khiển binh tướng bậy chỉ nướng hết 1 đạo quân, còn làm 1 nhà văn viết bậy có thể gây tác hại đến 2, 3 thế hệ” ( Lỗ Tấn) . Quả là 1 nhiệm vụ to lớn, thiêng liêng của văn học. Vậy mới biết đc sức nặng của người cẩm bút. Văn học góp phần làm cho cs con người trở nên tốt đẹp hơn, trong sáng hơn, giúp người gần người hơn. Văn học phải là “ thứ khí giới thanh cao và đắc lực” để “ tố cáo và thay đổi 1 thế giới giả dối và tàn ác”. Nếu ko có tư tưởng tiến bộ, ko có cái nhìn sâu sắc liệu nhà văn có thể hoàn thành những nhiệm vụ đó?
Ý kiến của nhà phê bình người Nga Bêlinxki quả rất đúng. Văn chương chỉ thực sự là văn chương, nghệ thuật chỉ thực sự là nghệ thuật khi nó phản ánh hiện thực thông qua bầu cảm xúc nồng nàn mãnh liẹt của nhà văn, khi mỗi tp là 1 dấu hỏi day dứt. trăn trở trc cuộc đời.
Thế nhưng nói đến nghệ thuật là nói đến cái hay cái đẹp của hình thức nghệ thuật. Muốn lay động lòng người tp nghệ thuật ngoài mang tư tưởng, tình cảm sâu sắc còn phải đc chuyển tải thông qua hệ thống ngôn từ , nghệ thuật đẹp. Có gì hoàn mĩ hơn sự hòa quyện giữa vẻ đẹp bên trong và vẻ đẹp bên ngoài?
Bước đi thời gian nghiệt ngã, nó như muốn cuốn trôi đi tất cả vạn vật trên đời. Giữa phong ba bão táp vẫn còn vương lại cho đời những hạt ngọc tâm hồn đc nuôi dưỡng nhờ những tác phầm nghệ thuật chân chính, sống mãi cùng tháng năm.
2764.png
BIL
2764.png
 

day and night

Học sinh tiến bộ
Thành viên
19 Tháng năm 2017
538
684
154
21
Nhà phê bình Nga Bêlinxki viết: "Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó." Bằng sự hiểu biết về văn học, anh/chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.
Làm dàn bài chi tiết giúp em với ạ, cảm ơn nhiều ạ @baochau1112
ko có chị châu thì tui giúp vậy :D

Dostoevski khi lí giải động lực khiến mình cầm bút đã nói rằng: “Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ”. Còn R.Tagor mong muốn sau khi từ giã cõi đời, được nhắn nhủ lại một lời: “Tôi đã từng yêu”. Có phải bởi những nhà văn, nhà thơ vĩ đại - những con người đã sống, đã yêu sống hết mình và yêu hết mình với cuộc đời, với con người bởi thấm thía sâu sắc rằng: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”


Xantưkhôp Sêđrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác phẩm nghệ thuật bất tử? ở tài năng hay ở tấm lòng của người cầm bút? ý kiến của nhà phê bình Nga Bêlinxki trên đây đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng, thậm chí, quyết định của tư tưởng, tình cảm, hay nói cách khác, cái tâm của người cầm bút quyết định sức sống của một tác phẩm nghệ thuật, ở đây được hiểu là tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học chỉ sống được trong những tư tưởng, tình cảm mãnh liệt của người cầm bút mà thôi.

Trước hết, qua nhận xét của mình, Bêlinxki muốn lên án thứ văn chương “miêu tả cuộc sông chỉ để miêu tả”. Đúng là văn học nghệ thuật ra đời để miêu tả, phản ánh hiện thực cuộc sống con người. Nhưng đó không phải là mục đích duy nhất của văn học. Nêu văn học chỉ miêu tả cuộc sống đơn thuần không thôi thì đó đâu khác bức ảnh, bản phôtô nguyên xi, máy móc, vô hồn về cuộc sống. Và liệu rằng các tác phẩm ấy có thể cung cấp cho người đọc nhiều hiểu biết chính xác, phong phú, khách quan hơn các công trình nghiên cứu khoa học được chăng?. Sao chép nguyên xi hiện thực, mô phỏng cuộc sống một cách vụng về, văn học nghệ thuật sẽ không còn là văn học, sẽ “chết” như cách nói của Biêlinxiki.

Vậy điều gì giúp cho các tác phẩm văn học, mặc dù vẫn miêu tả, thể hiện những khám phá về cuộc sống lại không trở thành những bức ảnh vô hồn hay những bản thông kê chi tiết đến khô cứng, lạnh lùng? Biêlixki đã chỉ ra rằng, tác phẩm ấy phải là “tiếng thét khổ đau” hoặc “lời ca tụng hân hoan”, tức là phải in đậm bầu cảm xúc mãnh liệt của người nghệ sĩ. Bởi lẽ văn học là làm theo quy luật của tình cảm. Văn học là sự lên tiếng thôi thúc của những trái tim. Nhà văn chỉ viết được khi “trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Nếu như các ngành khoa học loại bỏ cái tôi trong nghiên cứu thì các ngành nghệ thuật, trong đó có văn học lại lấy cái tôi làm điểm tựa cho sự sáng tạo. Viên Mai đã từng nói: “Làm người thì không nên có cái tôi nhưng làm thơ không thể không có cái tôi”. Thơ nói riêng và văn học nói chung không thể thiếu cái tôi - ở đây là dấu ấn tư tưởng tình cảm của người nghệ sĩ. Làm sao nhà văn có thể viết khi đứng trước hiện thực cuộc sống, trái tim anh không hề rung động, không hề xúc cảm? Hiện thực cuộc sống, dù phong phú kì diệu đến mấy mà không được thôi hồn bơi những tình cảm mãnh liệt của người cầm bút thì cũng chỉ là những hình ảnh lay lắt, không có sức sống trong tác phẩm mà thôi. “Đừng cậy thời đại anh hùng nếu tâm hồn anh cứ bé” - ấy là lời nhắn nhủ chân thành, lời khuyên răn chính mình của nhà thơ Chế Lan Viên. Cho hay, đó cũng chính là điều sinh tử với những người cầm bút.

Tình cảm không chỉ là “khâu đầu tiên” mà còn là “khâu cuối cùng” trong quá trình hình thành một tác phẩm văn học. Văn học chỉ sống được trong tấm lòng đồng cảm của người đọc. Vậy làm sao tác phẩm nghệ thuật có thể lay động sâu xa tâm hồn người đọc, có thể khiến độc giả cùng vui, buồn, xôn xao, giận hờn, đau khổ, căm phẫn ... cùng nhân vật khi nhà văn không thực sự xúc cảm, không viết nên từ “chiều sâu con tim” ? “Thơ muốn làm cho người ta khóc, trước tiên mình phải khóc, muốn làm cho người ta cười, trước hết mình phải cười”. Nhà văn phải đau cái đau của nhân vật, phải buồn cái buồn của nhân vật, vui cái vui của cuộc sống, của con người, khi ấy tác phẩm của anh mới có sức “đồng cảm mãnh liệt và quảng đại”. Cảm xúc trơ lì sáo mòn; tình cảm nông cạn hời hợt, giả dối, tác phẩm chỉ là những con chữ vô hồn, xác bướm ép khô không gây xúc động nơi người đọc. Chỉ những gì xuất phát từ trái tim mới đi đến những trái tim. Với ý nghĩa ấy, tác phẩm văn học đã bắc nhịp cầu linh diệu nối liền trái tim nghệ sĩ với tâm hồn độc giả, để trong đời này có nhiều yêu thương, sẻ chia hơn.

Nhà văn Đức Gherxen đã từng cho rằng: “Nhà văn là một nỗi đau khổ”. Khổ đau trong cuộc đời, các nhà văn đã thấu hiểu sâu sắc “mọi nỗi đau đớn của con người thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những lo âu, bực bội, tủi hổ ... của loài người” (Đặng Thai Mai). Nguyễn Du đã viết “Truyện Kiều” bởi “nỗi đau đớn lòng”trước những điều Người đã “trông thấy”, đã từng trải qua trong cuộc đời. “Truyện Kiều” là tiếng kêu đứt ruột về những kiếp sống bị đọa đày. Ai biết trong mười lăm năm lưu lạc của mình, Thuý Kiều đã từng bao lần rơi lệ, đã từng bao lần bị đánh đập, hành hạ? Và ai biết được, người nghệ sĩ có trái tim nhân đạo vĩ đại - Nguyễn Du đã bao lần nhỏ lệ trước “số phận một con người” bất hạnh, đau đớn ê chề. “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”. Nỗi đau ấy đã một lần thôi thúc Người viết nên hai câu thơ, mà hôm nay và mai sau hãy còn vang vọng:

“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Không cầu kì, hoa mĩ, đó là những lời huyết lệ, những lòi tâm can của chính Nguyễn Du. Những câu thơ như thế, có gì hay, có gì mà hấp dẫn muôn triệu trái tim, muôn triệu tâm hồn? Phải chăng bởi đó là “tiếng thét khổ đau”, bởi đó là sự trào dâng mãnh liệt của cảm xúc, của tinh yêu thương con người. Mượn cốt truyện của người xưa nhưng Nguyễn Du không sao chép nguyên xi. Người đã thổi hồn cho những con chữ, những hình tượng sống dậy và sống mãi trong tâm hồn, trong những sướng khổ buồn vui của biết bao thế hệ con người Việt Nam hôm nay và mai sau.

Khác với Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cũng viết về người phụ nữ, nhưng với tâm trạng của người trong cuộc, hay đúng hơn, viết bằng sự trải nghiệm của chính bản thân mình. Những vần thơ của Xuân Hương là sự lên tiếng của một thân phận. Bất hạnh trong cuộc đời riêng, Xuân Hương tìm đến thơ như ngươi bạn tâm tình - nơi gửi gắm kí thác những nỗi niềm suy tư. Đọc thơ Xuân Hương, người đọc có thể bị cuốn đi bởi những câu thơ mỉa mai sát sàn sạt, những lời mắng chửi té tát, không thương tiếc với bọn “hiền nhân quân tử”, những vua chúa, sư sãi giả dối, hợm hình, vô luân ... Nhưng đằng sau những nụ cười “rất mạnh, rất sâu” ấy là những giọt nước mắt, những “tiếng thét khổ đau” cho thân phận người phụ nữ. Để rồi đọc thơ bà, ta thấy “cần phải khóc”trước những cảnh “kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”, trước cảnh ngộ “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Khao khát mãnh liệt về tình yêu, về hạnh phúc, nhưng cuối cùng, nữ sĩ được gì ngoài “kiếp lấy chồng chung”, ngoài thứ tình cảm chia năm xẻ bảy “mảnh tình san sẻ tí con con”. Hồ Xuân Hương muốn vượt thoát tất cả, muốn “chém cha cái kiếp lấy chồng chung” để không còn những cảnh “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Nhưng cái xã hội phong kiến bất công phi nhân tính ấy đâu có để nữ sĩ sống hạnh phúc, bình yên như mong muôn. Cho nên tiếng thơ Hồ Xuân Hương đọng lại một niềm đau, không dễ quên, không thể nguôi.

Trong truyện ngắn nổi tiếng “Chí Phèo”, Nam Cao lại quay tấm gương cuộc sống, cho ta thấy một kiếp sống tủi nhục trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng. Ấy là Chí Phèo, một nạn nhận đau khổ của một xã hội cạn khô tình người với những ác quỷ mang bộ mặt người. Sinh ra không tình yêu thương của mẹ cha, Chí Phèo lớn lên trong sự đùm bọc của những người như anh thả ống lươn, bà cụ loà, bác phó cối dù nghèo nhưng tốt bụng. Nhưng những năm tháng ấy, như chính những câu văn tái hiện rất ngắn gọn của Nam Cao, lướt qua cuộc đời Chí như cơn gió. Phần còn lại của cuộc đời, Chí đâu có gì ngoài những năm tháng tù tội, những lần rạch mặt ăn vạ, những khinh bỉ miệt thị của người đời? Gặp Thị Nở, cứ tưởng cuộc đời Chí sẽ bừng sáng, sẽ ngời lên hồi chuông an lành nhưng hạnh phúc tình yêu thoảng qua như hơi cháo hành, như ảo ảnh về nguồn nước giữa sa mạc cạn khô tình người.

Người nhen lên ngọn lửa của lương tri, tình người cũng chính là người dập tắt hi vọng trở về với cuộc đời của Chí. Và khi “mất thiên thần, người đã chết”. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời. Chí đã chết khi miệng còn “ngáp ngáp” như muốn thanh minh, muốn bày tỏ với cuộc đời, với con người. Còn gì đau đớn hơn thân phận của con người ấy? Viết về những sô phận bất hạnh ấy, ngòi bút của Nam Cao đâu chỉ nhằm phản ánh chân xác thực trạng con người bị tha hoá trong xã hội cũ. Đằng sau câu chữ, cách xưng hô có vẻ lạnh lùng, dửng dưng, miệt thị ấy là một trái tim ấm nóng tình yêu thương con người. Nam Cao đã từng mong muốn viết lên những tác phẩm làm cho “người gần người hơn” thì với “Chí Phèo”, ông đã làm được điều đó. Bởi lẽ nhà văn đã “đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời” cho nên tác phẩm của ông, những “tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” sẽ còn sống mãi.

Mặt trời không chỉ có mây đen mà còn có những tia nắng vàng, cuộc sống không chỉ có những nỗi khổ đau mà còn có những niềm vui sướng. Văn học phản ánh hiện thực, không chỉ là phản ánh những đau khổ mà còn ngợi ca những vẻ đẹp, những niềm vui của cuộc sống, của con người. Hài kịch “Người lái buôn thành Vơnidơ”của Sêcxpia là tiếng cười ngạo nghễ, sung sướng; là lời ngợi ca hân hoan sự chiến thắng của chủ nghĩa nhân văn cao cả. Thơ Xuân Diệu là “bầu xuân”,“bình chứa muôn hương” của tuổi trẻ, sức sông và tình yêu:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.

Người ta gọi thơ Xuân Diệu là “nguồn sống dào dạt chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này” phải chăng bởi nhà thơ đã đốt cháy xúc cảm say mê mãnh liệt vối cuộc đời. Cuộc sống muôn đời vẫn là vậy. Thế nhưng những cảnh sắc của cuộc sống đi qua tâm hồn nồng nàn tình yêu cuộc đời của Xuân Diệu lại ánh lên những màu sắc diệu kì, lại ngân lên những thanh âm du dương. Thế giới, qua cặp mắt “xanh non biếc rờn” của thi sĩ họ Ngô là khu vườn tình ái, nơi ong bướm đang trong “tuần trăng mật”, nơi chim muông ca lên “khúc tình si”,nơi tạo hoá đắm chìm trong “cặp môi gần” của tháng giêng. Đó còn là bữa tiệc thịnh soạn, phong phú của cuộc sống “nở hoa dâng tặng người muốn hái”. Đẹp làm sao ! Làm sao Xuân Diệu có những cảm nhận tinh tế, diệu kì ấy nếu nhà thơ dửng dưng, vô cảm với cuộc đời. Chính niềm khao khát giao cảm với cuộc đời, chính niềm yêu sống đến cuồng si, mãnh liệt đã giúp thi sĩ phát hiện ra vẻ đẹp của cuộc sống. Những vần thơ như “lòng”Xuân Diệu mở ra, như tay Xuân Diệu muốn chìa ra mời mọc, gợi mời con người. Sao có thể không nhớ, không yêu những vần thơ say đắm, thiết tha đến dường vậy ! Thơ Xuân Diệu, tự bản thân nó không phải sự mô phỏng cuộc sống. Đó là lời tụng ca hân hoan, đắm đuối vẻ đẹp đích thực của cuộc sống.

Cũng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên đã cất lên tiếng hát ngợi ca vẻ đẹp giá trị của cuộc sống trong những năm đất nước độc lập, tiến lên xây dựng cuộc sống mới, chế độ mới.

“Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả:
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn
Trái cây rơi vào áo người ngắm quả
Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ
Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn”.

Bước ra từ những tháp Chàm đổ nát để hoà nhập với cuộc đời, Chế Lan Viên như thoát khỏi “thung lũng đau thương” để tìm đến “cánh đồng vui”, ấy là cuộc sống mới của những con người mới. Nhà thơ thấy cuộc đời tươi đẹp, phong phú, mến yêu biết bao nhiêu. Lần đầu tiên trong cuộc đời, nhà thơ cảm nhận được vẻ đẹp đích thực của cuộc sống. Sung sướng lắm ! Tự hào lắm ! Bởi được sống, được cống hiến, và thấy đời mình có ý nghĩa. Những lời thơ ấy đã ngân vang điệu nhạc rạo rực, say mê, hân hoan của hồn người. Âm hưởng của khúc nhạc thần kì ấy sẽ mãi còn vang vọng và dư ba.

Như vậy có thể thấy tình cảm là điều kiện không thể thiếu để có tác phẩm nghệ thuật đích thực, cảm xúc chân thành mãnh liệt, tự nó đã là giá trị của tác phẩm văn học. Nó cũng chính là “cái hơi thở, cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại”. Nhưng nếu chỉ có tình cảm không thôi, văn học liệu có được sức sống, sức hấp dẫn kì diệu đến như vậy hay không? Bêlinxki thêm một lần nữa nhấn mạnh vào vai trò đặc biệt quan trọng của tư tưởng đúng đắn, sâu sắc ở người viết. Tác phẩm nghệ thuật sẽ sống khi nó “đặt ra câu hỏi”“trả lời những câu hỏi đó”. Theo tôi hiểu, những “câu hỏi” ở đây là những vấn đề nhà văn trăn trở, nghĩ suy về cuộc sống, về con người, ấy là những “câu hỏi của cuộc sống” (Tố Hữu). Những câu hỏi ấy thể hiện cách nhìn, nhận thức, quan niệm nghệ thuật về con người, về xã hội của nhà văn. Nói cách khác, đó là sự hiện hình của tư tưởng nhà văn được biểu hiện trong tác phẩm. Tư tưởng nghệ thuật là một trong những yếu tố quyết định tầm vóc của nhà văn và giá trị của tác phẩm. Nguyễn Khải đã từng nói: “Giá trị của một tác phẩm trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó”. Còn Kôrôlencô thì nhấn mạnh “Tư tưởng là linh hồn của tác phẩm văn học”. Tư tưởng sai lầm, lệch lạc, văn học sẽ trở thành công cụ gây tội ác. Lỗ Tấn đã từng nói: “Làm một thầy thuốc kê đơn bốc thuốc bậy chỉ giết chết có một người, làm một viên võ tướng điều binh khiển tướng bậy chỉ nướng hết một đạo quân còn làm một nhà văn viết bậy có thể gây tác hại đến hai ba thế hệ”. Có được ảnh hưởng hết sức quan trọng như vậy bởi nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng của văn học. Văn học không chỉ là “công cụ khám phá, hiểu biết và sáng tạo thực tại xã hội” mà còn tham gia vào quá trình cải tạo xã hội. Nói như Thạch Lam, đó là “thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác”.

Văn học góp phần làm cho cuộc sống con người tốt đẹp, trong sáng hơn. Vậy nếu nhà văn chỉ đơn thuần tái hiện vẹn nguyên cuộc sống mà không gửi gắm một tư tưởng tiến bộ nào, liệu rằng văn học có thể hoàn thành nhiệm vụ cao cả ấy không? Hơn ở đâu, nhà văn phải thể hiện, phải đặt ra và giải quyết những vấn đề quan trọng về nhân sinh. Để mỗi người đọc, đến với tác phẩm, đều phải day dứt, ám ảnh về điều đó, để rồi tự tìm ra được câu trả lời cho những vấn đề về con người. Tìm hiểu sâu sắc về bản chất cuộc sống, về bản chất con người cho hay cũng là nhu cầu tiếp nhận chính đáng của người đọc. Độc giả tìm đến với tác phẩm văn chương đâu phải chỉ để hiểu biết về hiện thực cuộc sống, mà còn muốn tìm hiểu ý nghĩa, giá trị, bản chất của cuộc sống, để tìm câu trả lời cho những băn khoăn, trăn trở, nghĩ suy của bản thân mình. Bởi vậy, tác phẩm nghệ thuật phải “đặt ra những câu hỏi”, và có thể, còn cần phải “trả lời những câu hỏi đó”. Nam Cao, qua số phận bi kịch của Chí Phèo, đã cất lên câu hỏi: Làm thế nào để cứu vớt những con người đang đứng trên vực thẩm của sự tha hoá nhân tính và nhân hình? Làm thế nào để xã hội này không còn những Chí Phèo? Câu hỏi ấy vang vọng, văng vẳng suốt thiên truyện, đau đáu mãi không nguôi. Nó hiện hình trong lời kết án đau đớn tuyệt vọng của Chí Phèo trước khi tự kết liễu đời mình: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho hết những vết mảnh chai trên mặt này?”. Nhà văn dẫu không trả lời trực tiếp, nhưng qua tác phẩm của mình, Nam Cao đã ngầm đưa ra câu trả lời cho bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí. Phải tiêu diệt xã hội đại ác, vạn ác này; phải tiêu diệt những con quỷ dữ Bá Kiến, Đội Tảo ... để cuộc đời này không còn những Chí Phèo. Và quan trọng hơn, để cứu rỗi những linh hồn tội lỗi như Chí Phèo, chỉ cần có một lòng tốt bình thường - tình người chân thành mộc mạc như Thị Nở. Chỉ tình người mới cứu được tình người. Ấy là thông điệp nhân sinh, là câu trả lời sâu sắc đúng đắn của Nam Cao cho những vấn đề bức xúc của xã hội. Cũng như thế, Thạch Lam, trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, không dừng lại ở việc miêu tả cuộc sống tù túng, quẩn quanh, vô nghĩa, mòn mỏi đến tội nghiệp của những người dân nơi phố huyện nghèo.

Nhà văn còn đặt ra những câu hỏi, những thông điệp sâu sắc: Hãy cứu lấy những đứa trẻ, hãy cứu lấy tương lai của phố huyện. Điều Thạch Lam trăn trở không phải vấn đề cơm áo, sưu thuế, bất công xã hội mà là quyền sống có ý nghĩa của con người. Xã hội Việt Nam trước Cách mạng như “ao Đời phẳng lặng” nhấn chìm mọi sự sống, lăm le muốn cướp đi ý nghĩa thực sự của cuộc sống đối với con người. Hai đứa trẻ - những mầm xanh mới đâm chồi nảy lộc trên mảnh đất cạn khô nhựa sống của phố huyện liệu có trở thành bà cụ Thi Điên, liệu có là chị Tí hay bác phở Siêu, gia đình bác xẩm? Câu trả lời ấy, Thạch Lam không nói nhưng rõ ràng, nhà văn đã hé mở cho người đọc điều đó. Tại sao chị em Liên không nhập vào không khí tù đọng của phố huyện mà tối tối lại cố thức để chờ đoàn tàu qua? Có phải đoàn tàu đem đến cho Liên và An nhận thức ở đâu đó ngoài phố huyện còn có một miền đời, một cuộc sống khác ý nghĩa hơn? Như thế, con người phải tự vượt lên để không bị hoàn cảnh, để không bị cuộc sống vô nghĩa nhấn chìm. Đó chính là chiều sâu tư tưởng nhân đạo trong sáng tác của Thạch Lam.

Khác với Nam Cao, Thạch Lam..., các nhà văn, nhà thơ cách mạng trước và sau đó nhờ sự soi sáng của lý tưởng của Đảng, nhờ giác ngộ cách mạng đã giải quyết những câu hỏi về con người, cuộc đời trực tiếp hơn. Tố Hữu qua bài thơ “Tiếng hát sông Hương” đã chỉ ra tương lai tươi sáng cho những kiếp người tủi nhục ê chề như cô gái trên sông. Cũng thương yêu những con người đau khổ, ở đây là người kỹ nữ như các nhà thơ lãng mạn trước đó, nhưng nhờ nhận thức khách quan, biện chứng về quy luật cuộc đời, nhờ nhân sinh quan cách mạng khoẻ khoắn, Tố Hữu đã tìm ra cho những người bất hạnh con đường đi đích thực. Còn Tô Hoài, qua “Vợ chồng A Phủ” đã chỉ rõ con đường cần phải đi để những số phận trâu ngựa, những kiếp nô lệ tự giải thoát ấy là tìm đến với cách mạng. “Hạnh phúc là đấu tranh”. Đó là ý nghĩa tích cực của tích cực của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” gieo vào lòng người đọc. Nhưng cũng cần thấy rằng, không nhất thiết nhà văn phải trả lời câu hỏi. Nhà văn có thể chỉ là bác sĩ gọi ra bệnh của bệnh nhân. Điều mà nhân loại thiếu là những người biết đặt ra câu hỏi. Tìm được câu hỏi, tôi tin chắc rằng tự người đọc sẽ tìm được câu trả lời. Có phải vì vậy mà Sêkhôp chủ trương “nói thật, nói thẳng với mọi người”. Hãy nhìn lại mình, hãy xem chúng ta đang “sống tồi sống tẻ như thế nào” và chỉ cần có vậy bởi ông tin chắc rằng “khi đã thấu hiểu thế nào họ cũng phải tạo cho mình một cuộc sống khác tốt hơn?”.

Ý kiến của Bêlinxki đã đặt ra yêu cầu hết sức đúng đắn, cần thiết, quan trọng với người cầm bút: ấy là anh phải có cái tâm trước cuộc sống, con người. Đó cũng chính là bài học đối với những nghệ sỹ. Muốn có được tác phẩm sống mãi với thời gian, anh phải sống sâu sắc với cuộc đời, nói như giáo sư Đặng Thai Mai phải biết “sâu sắc cảm thấy mọi nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những lo âu, bực bội, tủi hổ và cả những ước mong tha thiết nhất của loài người”. Để viết nên tác phẩm, nhà văn phải “sống phải tìm tòi, phải yêu rất nhiều và phải chịu nhiều đau khổ” (Gioóc Giơ - Xăng). Và lịch sử văn học, thực chất chính là lịch sử của những tư tưởng vĩ đại của con người nghệ sỹ.

Tìm hiểu ý kiến của Bêlinxki, tôi càng thấm thía quy luật đào thải nghiệt ngã nhưng công bằng của thời gian, của công chúng. Có những tác phẩm dù trung thành với nguyên tắc phản ánh hiện thực, thậm chí hết sức hiện thực nhưng không thể hiện tư tưởng, tình cảm mãnh liệt, sâu sắc nào. Những tác phẩm ấy chỉ là bức ảnh vô hồn, thậm chí rơi vào tự nhiên chủ nghĩa bởi tình cảm, tư tưởng miệt thị con người, bi quan với cuộc đời. Lại có những tác phẩm chỉ đắm chìm trong cảm xúc hay mê mải chạy theo những tư tưởng kì vĩ. Chỉ những tác phẩm nào có sự quyện hoà cao độ giữa tư tưởng đúng đắn, sâu sắc với tình cảm chân thành mãnh liệt của người cầm bút mới có được giá trị và sức sống bền lâu.

Thế nhưng văn chương trước hết vẫn là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật. Nói đến nghệ thuật là nói đến cái hay, cái đẹp của những hình thức nghệ thuật. Tư tưởng, tình cảm có sâu sắc, mãnh liệt đến mấy mà không được chuyển tải qua hệ thống phương tiện nghệ thuật giàu giá trị thẩm mỹ thì không thể thức tỉnh, lay động tâm hồn người đọc. Gôgôn đã rất khổ tâm khi “những tình cảm rất quý có thể trở nên tầm thường khi diễn đạt ra thành lời”. Người nghệ sỹ vĩ đại không chỉ có cái tâm mà còn phải có cái tài để cái tâm được toả sáng lung linh.

“ Rồi nhân dân sẽ còn trìu mến tôi mãi mãi vì tôi đã dùng thơ đánh thức những tình cảm tốt lành, vì trong thế kỉ tàn khốc của chúng ta, tôi ngợi ca tự do và lòng thương những kẻ khốn cùng”. Bất cứ nghệ sĩ nào đã sống sâu sắc với cuộc đời, đã đau đớn, mừng vui với những vui buồn, sướng khổ của loài người đều có quyền tự hào và tin tưởng như Puskin về sự tồn tại vĩnh hằng của những tác phẩm nghệ thuật chân chính của mình.
chúc bạn học tốt môn văn này:p:p:p
 

Lê Hoàng Đức Barcelona

Học sinh tiến bộ
Thành viên
7 Tháng mười 2014
427
259
194
Quảng Bình
THPT Đồng Hới
ko có chị châu thì tui giúp vậy :D

Dostoevski khi lí giải động lực khiến mình cầm bút đã nói rằng: “Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ”. Còn R.Tagor mong muốn sau khi từ giã cõi đời, được nhắn nhủ lại một lời: “Tôi đã từng yêu”. Có phải bởi những nhà văn, nhà thơ vĩ đại - những con người đã sống, đã yêu sống hết mình và yêu hết mình với cuộc đời, với con người bởi thấm thía sâu sắc rằng: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”


Xantưkhôp Sêđrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác phẩm nghệ thuật bất tử? ở tài năng hay ở tấm lòng của người cầm bút? ý kiến của nhà phê bình Nga Bêlinxki trên đây đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng, thậm chí, quyết định của tư tưởng, tình cảm, hay nói cách khác, cái tâm của người cầm bút quyết định sức sống của một tác phẩm nghệ thuật, ở đây được hiểu là tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học chỉ sống được trong những tư tưởng, tình cảm mãnh liệt của người cầm bút mà thôi.

Trước hết, qua nhận xét của mình, Bêlinxki muốn lên án thứ văn chương “miêu tả cuộc sông chỉ để miêu tả”. Đúng là văn học nghệ thuật ra đời để miêu tả, phản ánh hiện thực cuộc sống con người. Nhưng đó không phải là mục đích duy nhất của văn học. Nêu văn học chỉ miêu tả cuộc sống đơn thuần không thôi thì đó đâu khác bức ảnh, bản phôtô nguyên xi, máy móc, vô hồn về cuộc sống. Và liệu rằng các tác phẩm ấy có thể cung cấp cho người đọc nhiều hiểu biết chính xác, phong phú, khách quan hơn các công trình nghiên cứu khoa học được chăng?. Sao chép nguyên xi hiện thực, mô phỏng cuộc sống một cách vụng về, văn học nghệ thuật sẽ không còn là văn học, sẽ “chết” như cách nói của Biêlinxiki.

Vậy điều gì giúp cho các tác phẩm văn học, mặc dù vẫn miêu tả, thể hiện những khám phá về cuộc sống lại không trở thành những bức ảnh vô hồn hay những bản thông kê chi tiết đến khô cứng, lạnh lùng? Biêlixki đã chỉ ra rằng, tác phẩm ấy phải là “tiếng thét khổ đau” hoặc “lời ca tụng hân hoan”, tức là phải in đậm bầu cảm xúc mãnh liệt của người nghệ sĩ. Bởi lẽ văn học là làm theo quy luật của tình cảm. Văn học là sự lên tiếng thôi thúc của những trái tim. Nhà văn chỉ viết được khi “trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Nếu như các ngành khoa học loại bỏ cái tôi trong nghiên cứu thì các ngành nghệ thuật, trong đó có văn học lại lấy cái tôi làm điểm tựa cho sự sáng tạo. Viên Mai đã từng nói: “Làm người thì không nên có cái tôi nhưng làm thơ không thể không có cái tôi”. Thơ nói riêng và văn học nói chung không thể thiếu cái tôi - ở đây là dấu ấn tư tưởng tình cảm của người nghệ sĩ. Làm sao nhà văn có thể viết khi đứng trước hiện thực cuộc sống, trái tim anh không hề rung động, không hề xúc cảm? Hiện thực cuộc sống, dù phong phú kì diệu đến mấy mà không được thôi hồn bơi những tình cảm mãnh liệt của người cầm bút thì cũng chỉ là những hình ảnh lay lắt, không có sức sống trong tác phẩm mà thôi. “Đừng cậy thời đại anh hùng nếu tâm hồn anh cứ bé” - ấy là lời nhắn nhủ chân thành, lời khuyên răn chính mình của nhà thơ Chế Lan Viên. Cho hay, đó cũng chính là điều sinh tử với những người cầm bút.

Tình cảm không chỉ là “khâu đầu tiên” mà còn là “khâu cuối cùng” trong quá trình hình thành một tác phẩm văn học. Văn học chỉ sống được trong tấm lòng đồng cảm của người đọc. Vậy làm sao tác phẩm nghệ thuật có thể lay động sâu xa tâm hồn người đọc, có thể khiến độc giả cùng vui, buồn, xôn xao, giận hờn, đau khổ, căm phẫn ... cùng nhân vật khi nhà văn không thực sự xúc cảm, không viết nên từ “chiều sâu con tim” ? “Thơ muốn làm cho người ta khóc, trước tiên mình phải khóc, muốn làm cho người ta cười, trước hết mình phải cười”. Nhà văn phải đau cái đau của nhân vật, phải buồn cái buồn của nhân vật, vui cái vui của cuộc sống, của con người, khi ấy tác phẩm của anh mới có sức “đồng cảm mãnh liệt và quảng đại”. Cảm xúc trơ lì sáo mòn; tình cảm nông cạn hời hợt, giả dối, tác phẩm chỉ là những con chữ vô hồn, xác bướm ép khô không gây xúc động nơi người đọc. Chỉ những gì xuất phát từ trái tim mới đi đến những trái tim. Với ý nghĩa ấy, tác phẩm văn học đã bắc nhịp cầu linh diệu nối liền trái tim nghệ sĩ với tâm hồn độc giả, để trong đời này có nhiều yêu thương, sẻ chia hơn.

Nhà văn Đức Gherxen đã từng cho rằng: “Nhà văn là một nỗi đau khổ”. Khổ đau trong cuộc đời, các nhà văn đã thấu hiểu sâu sắc “mọi nỗi đau đớn của con người thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những lo âu, bực bội, tủi hổ ... của loài người” (Đặng Thai Mai). Nguyễn Du đã viết “Truyện Kiều” bởi “nỗi đau đớn lòng”trước những điều Người đã “trông thấy”, đã từng trải qua trong cuộc đời. “Truyện Kiều” là tiếng kêu đứt ruột về những kiếp sống bị đọa đày. Ai biết trong mười lăm năm lưu lạc của mình, Thuý Kiều đã từng bao lần rơi lệ, đã từng bao lần bị đánh đập, hành hạ? Và ai biết được, người nghệ sĩ có trái tim nhân đạo vĩ đại - Nguyễn Du đã bao lần nhỏ lệ trước “số phận một con người” bất hạnh, đau đớn ê chề. “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”. Nỗi đau ấy đã một lần thôi thúc Người viết nên hai câu thơ, mà hôm nay và mai sau hãy còn vang vọng:

“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.


Không cầu kì, hoa mĩ, đó là những lời huyết lệ, những lòi tâm can của chính Nguyễn Du. Những câu thơ như thế, có gì hay, có gì mà hấp dẫn muôn triệu trái tim, muôn triệu tâm hồn? Phải chăng bởi đó là “tiếng thét khổ đau”, bởi đó là sự trào dâng mãnh liệt của cảm xúc, của tinh yêu thương con người. Mượn cốt truyện của người xưa nhưng Nguyễn Du không sao chép nguyên xi. Người đã thổi hồn cho những con chữ, những hình tượng sống dậy và sống mãi trong tâm hồn, trong những sướng khổ buồn vui của biết bao thế hệ con người Việt Nam hôm nay và mai sau.

Khác với Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cũng viết về người phụ nữ, nhưng với tâm trạng của người trong cuộc, hay đúng hơn, viết bằng sự trải nghiệm của chính bản thân mình. Những vần thơ của Xuân Hương là sự lên tiếng của một thân phận. Bất hạnh trong cuộc đời riêng, Xuân Hương tìm đến thơ như ngươi bạn tâm tình - nơi gửi gắm kí thác những nỗi niềm suy tư. Đọc thơ Xuân Hương, người đọc có thể bị cuốn đi bởi những câu thơ mỉa mai sát sàn sạt, những lời mắng chửi té tát, không thương tiếc với bọn “hiền nhân quân tử”, những vua chúa, sư sãi giả dối, hợm hình, vô luân ... Nhưng đằng sau những nụ cười “rất mạnh, rất sâu” ấy là những giọt nước mắt, những “tiếng thét khổ đau” cho thân phận người phụ nữ. Để rồi đọc thơ bà, ta thấy “cần phải khóc”trước những cảnh “kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”, trước cảnh ngộ “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Khao khát mãnh liệt về tình yêu, về hạnh phúc, nhưng cuối cùng, nữ sĩ được gì ngoài “kiếp lấy chồng chung”, ngoài thứ tình cảm chia năm xẻ bảy “mảnh tình san sẻ tí con con”. Hồ Xuân Hương muốn vượt thoát tất cả, muốn “chém cha cái kiếp lấy chồng chung” để không còn những cảnh “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Nhưng cái xã hội phong kiến bất công phi nhân tính ấy đâu có để nữ sĩ sống hạnh phúc, bình yên như mong muôn. Cho nên tiếng thơ Hồ Xuân Hương đọng lại một niềm đau, không dễ quên, không thể nguôi.

Trong truyện ngắn nổi tiếng “Chí Phèo”, Nam Cao lại quay tấm gương cuộc sống, cho ta thấy một kiếp sống tủi nhục trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng. Ấy là Chí Phèo, một nạn nhận đau khổ của một xã hội cạn khô tình người với những ác quỷ mang bộ mặt người. Sinh ra không tình yêu thương của mẹ cha, Chí Phèo lớn lên trong sự đùm bọc của những người như anh thả ống lươn, bà cụ loà, bác phó cối dù nghèo nhưng tốt bụng. Nhưng những năm tháng ấy, như chính những câu văn tái hiện rất ngắn gọn của Nam Cao, lướt qua cuộc đời Chí như cơn gió. Phần còn lại của cuộc đời, Chí đâu có gì ngoài những năm tháng tù tội, những lần rạch mặt ăn vạ, những khinh bỉ miệt thị của người đời? Gặp Thị Nở, cứ tưởng cuộc đời Chí sẽ bừng sáng, sẽ ngời lên hồi chuông an lành nhưng hạnh phúc tình yêu thoảng qua như hơi cháo hành, như ảo ảnh về nguồn nước giữa sa mạc cạn khô tình người.

Người nhen lên ngọn lửa của lương tri, tình người cũng chính là người dập tắt hi vọng trở về với cuộc đời của Chí. Và khi “mất thiên thần, người đã chết”. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời. Chí đã chết khi miệng còn “ngáp ngáp” như muốn thanh minh, muốn bày tỏ với cuộc đời, với con người. Còn gì đau đớn hơn thân phận của con người ấy? Viết về những sô phận bất hạnh ấy, ngòi bút của Nam Cao đâu chỉ nhằm phản ánh chân xác thực trạng con người bị tha hoá trong xã hội cũ. Đằng sau câu chữ, cách xưng hô có vẻ lạnh lùng, dửng dưng, miệt thị ấy là một trái tim ấm nóng tình yêu thương con người. Nam Cao đã từng mong muốn viết lên những tác phẩm làm cho “người gần người hơn” thì với “Chí Phèo”, ông đã làm được điều đó. Bởi lẽ nhà văn đã “đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời” cho nên tác phẩm của ông, những “tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” sẽ còn sống mãi.

Mặt trời không chỉ có mây đen mà còn có những tia nắng vàng, cuộc sống không chỉ có những nỗi khổ đau mà còn có những niềm vui sướng. Văn học phản ánh hiện thực, không chỉ là phản ánh những đau khổ mà còn ngợi ca những vẻ đẹp, những niềm vui của cuộc sống, của con người. Hài kịch “Người lái buôn thành Vơnidơ”của Sêcxpia là tiếng cười ngạo nghễ, sung sướng; là lời ngợi ca hân hoan sự chiến thắng của chủ nghĩa nhân văn cao cả. Thơ Xuân Diệu là “bầu xuân”,“bình chứa muôn hương” của tuổi trẻ, sức sông và tình yêu:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.


Người ta gọi thơ Xuân Diệu là “nguồn sống dào dạt chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này” phải chăng bởi nhà thơ đã đốt cháy xúc cảm say mê mãnh liệt vối cuộc đời. Cuộc sống muôn đời vẫn là vậy. Thế nhưng những cảnh sắc của cuộc sống đi qua tâm hồn nồng nàn tình yêu cuộc đời của Xuân Diệu lại ánh lên những màu sắc diệu kì, lại ngân lên những thanh âm du dương. Thế giới, qua cặp mắt “xanh non biếc rờn” của thi sĩ họ Ngô là khu vườn tình ái, nơi ong bướm đang trong “tuần trăng mật”, nơi chim muông ca lên “khúc tình si”,nơi tạo hoá đắm chìm trong “cặp môi gần” của tháng giêng. Đó còn là bữa tiệc thịnh soạn, phong phú của cuộc sống “nở hoa dâng tặng người muốn hái”. Đẹp làm sao ! Làm sao Xuân Diệu có những cảm nhận tinh tế, diệu kì ấy nếu nhà thơ dửng dưng, vô cảm với cuộc đời. Chính niềm khao khát giao cảm với cuộc đời, chính niềm yêu sống đến cuồng si, mãnh liệt đã giúp thi sĩ phát hiện ra vẻ đẹp của cuộc sống. Những vần thơ như “lòng”Xuân Diệu mở ra, như tay Xuân Diệu muốn chìa ra mời mọc, gợi mời con người. Sao có thể không nhớ, không yêu những vần thơ say đắm, thiết tha đến dường vậy ! Thơ Xuân Diệu, tự bản thân nó không phải sự mô phỏng cuộc sống. Đó là lời tụng ca hân hoan, đắm đuối vẻ đẹp đích thực của cuộc sống.

Cũng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên đã cất lên tiếng hát ngợi ca vẻ đẹp giá trị của cuộc sống trong những năm đất nước độc lập, tiến lên xây dựng cuộc sống mới, chế độ mới.

“Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả:
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn
Trái cây rơi vào áo người ngắm quả
Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ
Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn”.


Bước ra từ những tháp Chàm đổ nát để hoà nhập với cuộc đời, Chế Lan Viên như thoát khỏi “thung lũng đau thương” để tìm đến “cánh đồng vui”, ấy là cuộc sống mới của những con người mới. Nhà thơ thấy cuộc đời tươi đẹp, phong phú, mến yêu biết bao nhiêu. Lần đầu tiên trong cuộc đời, nhà thơ cảm nhận được vẻ đẹp đích thực của cuộc sống. Sung sướng lắm ! Tự hào lắm ! Bởi được sống, được cống hiến, và thấy đời mình có ý nghĩa. Những lời thơ ấy đã ngân vang điệu nhạc rạo rực, say mê, hân hoan của hồn người. Âm hưởng của khúc nhạc thần kì ấy sẽ mãi còn vang vọng và dư ba.

Như vậy có thể thấy tình cảm là điều kiện không thể thiếu để có tác phẩm nghệ thuật đích thực, cảm xúc chân thành mãnh liệt, tự nó đã là giá trị của tác phẩm văn học. Nó cũng chính là “cái hơi thở, cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại”. Nhưng nếu chỉ có tình cảm không thôi, văn học liệu có được sức sống, sức hấp dẫn kì diệu đến như vậy hay không? Bêlinxki thêm một lần nữa nhấn mạnh vào vai trò đặc biệt quan trọng của tư tưởng đúng đắn, sâu sắc ở người viết. Tác phẩm nghệ thuật sẽ sống khi nó “đặt ra câu hỏi”“trả lời những câu hỏi đó”. Theo tôi hiểu, những “câu hỏi” ở đây là những vấn đề nhà văn trăn trở, nghĩ suy về cuộc sống, về con người, ấy là những “câu hỏi của cuộc sống” (Tố Hữu). Những câu hỏi ấy thể hiện cách nhìn, nhận thức, quan niệm nghệ thuật về con người, về xã hội của nhà văn. Nói cách khác, đó là sự hiện hình của tư tưởng nhà văn được biểu hiện trong tác phẩm. Tư tưởng nghệ thuật là một trong những yếu tố quyết định tầm vóc của nhà văn và giá trị của tác phẩm. Nguyễn Khải đã từng nói: “Giá trị của một tác phẩm trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó”. Còn Kôrôlencô thì nhấn mạnh “Tư tưởng là linh hồn của tác phẩm văn học”. Tư tưởng sai lầm, lệch lạc, văn học sẽ trở thành công cụ gây tội ác. Lỗ Tấn đã từng nói: “Làm một thầy thuốc kê đơn bốc thuốc bậy chỉ giết chết có một người, làm một viên võ tướng điều binh khiển tướng bậy chỉ nướng hết một đạo quân còn làm một nhà văn viết bậy có thể gây tác hại đến hai ba thế hệ”. Có được ảnh hưởng hết sức quan trọng như vậy bởi nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng của văn học. Văn học không chỉ là “công cụ khám phá, hiểu biết và sáng tạo thực tại xã hội” mà còn tham gia vào quá trình cải tạo xã hội. Nói như Thạch Lam, đó là “thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác”.

Văn học góp phần làm cho cuộc sống con người tốt đẹp, trong sáng hơn. Vậy nếu nhà văn chỉ đơn thuần tái hiện vẹn nguyên cuộc sống mà không gửi gắm một tư tưởng tiến bộ nào, liệu rằng văn học có thể hoàn thành nhiệm vụ cao cả ấy không? Hơn ở đâu, nhà văn phải thể hiện, phải đặt ra và giải quyết những vấn đề quan trọng về nhân sinh. Để mỗi người đọc, đến với tác phẩm, đều phải day dứt, ám ảnh về điều đó, để rồi tự tìm ra được câu trả lời cho những vấn đề về con người. Tìm hiểu sâu sắc về bản chất cuộc sống, về bản chất con người cho hay cũng là nhu cầu tiếp nhận chính đáng của người đọc. Độc giả tìm đến với tác phẩm văn chương đâu phải chỉ để hiểu biết về hiện thực cuộc sống, mà còn muốn tìm hiểu ý nghĩa, giá trị, bản chất của cuộc sống, để tìm câu trả lời cho những băn khoăn, trăn trở, nghĩ suy của bản thân mình. Bởi vậy, tác phẩm nghệ thuật phải “đặt ra những câu hỏi”, và có thể, còn cần phải “trả lời những câu hỏi đó”. Nam Cao, qua số phận bi kịch của Chí Phèo, đã cất lên câu hỏi: Làm thế nào để cứu vớt những con người đang đứng trên vực thẩm của sự tha hoá nhân tính và nhân hình? Làm thế nào để xã hội này không còn những Chí Phèo? Câu hỏi ấy vang vọng, văng vẳng suốt thiên truyện, đau đáu mãi không nguôi. Nó hiện hình trong lời kết án đau đớn tuyệt vọng của Chí Phèo trước khi tự kết liễu đời mình: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho hết những vết mảnh chai trên mặt này?”. Nhà văn dẫu không trả lời trực tiếp, nhưng qua tác phẩm của mình, Nam Cao đã ngầm đưa ra câu trả lời cho bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí. Phải tiêu diệt xã hội đại ác, vạn ác này; phải tiêu diệt những con quỷ dữ Bá Kiến, Đội Tảo ... để cuộc đời này không còn những Chí Phèo. Và quan trọng hơn, để cứu rỗi những linh hồn tội lỗi như Chí Phèo, chỉ cần có một lòng tốt bình thường - tình người chân thành mộc mạc như Thị Nở. Chỉ tình người mới cứu được tình người. Ấy là thông điệp nhân sinh, là câu trả lời sâu sắc đúng đắn của Nam Cao cho những vấn đề bức xúc của xã hội. Cũng như thế, Thạch Lam, trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, không dừng lại ở việc miêu tả cuộc sống tù túng, quẩn quanh, vô nghĩa, mòn mỏi đến tội nghiệp của những người dân nơi phố huyện nghèo.

Nhà văn còn đặt ra những câu hỏi, những thông điệp sâu sắc: Hãy cứu lấy những đứa trẻ, hãy cứu lấy tương lai của phố huyện. Điều Thạch Lam trăn trở không phải vấn đề cơm áo, sưu thuế, bất công xã hội mà là quyền sống có ý nghĩa của con người. Xã hội Việt Nam trước Cách mạng như “ao Đời phẳng lặng” nhấn chìm mọi sự sống, lăm le muốn cướp đi ý nghĩa thực sự của cuộc sống đối với con người. Hai đứa trẻ - những mầm xanh mới đâm chồi nảy lộc trên mảnh đất cạn khô nhựa sống của phố huyện liệu có trở thành bà cụ Thi Điên, liệu có là chị Tí hay bác phở Siêu, gia đình bác xẩm? Câu trả lời ấy, Thạch Lam không nói nhưng rõ ràng, nhà văn đã hé mở cho người đọc điều đó. Tại sao chị em Liên không nhập vào không khí tù đọng của phố huyện mà tối tối lại cố thức để chờ đoàn tàu qua? Có phải đoàn tàu đem đến cho Liên và An nhận thức ở đâu đó ngoài phố huyện còn có một miền đời, một cuộc sống khác ý nghĩa hơn? Như thế, con người phải tự vượt lên để không bị hoàn cảnh, để không bị cuộc sống vô nghĩa nhấn chìm. Đó chính là chiều sâu tư tưởng nhân đạo trong sáng tác của Thạch Lam.

Khác với Nam Cao, Thạch Lam..., các nhà văn, nhà thơ cách mạng trước và sau đó nhờ sự soi sáng của lý tưởng của Đảng, nhờ giác ngộ cách mạng đã giải quyết những câu hỏi về con người, cuộc đời trực tiếp hơn. Tố Hữu qua bài thơ “Tiếng hát sông Hương” đã chỉ ra tương lai tươi sáng cho những kiếp người tủi nhục ê chề như cô gái trên sông. Cũng thương yêu những con người đau khổ, ở đây là người kỹ nữ như các nhà thơ lãng mạn trước đó, nhưng nhờ nhận thức khách quan, biện chứng về quy luật cuộc đời, nhờ nhân sinh quan cách mạng khoẻ khoắn, Tố Hữu đã tìm ra cho những người bất hạnh con đường đi đích thực. Còn Tô Hoài, qua “Vợ chồng A Phủ” đã chỉ rõ con đường cần phải đi để những số phận trâu ngựa, những kiếp nô lệ tự giải thoát ấy là tìm đến với cách mạng. “Hạnh phúc là đấu tranh”. Đó là ý nghĩa tích cực của tích cực của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” gieo vào lòng người đọc. Nhưng cũng cần thấy rằng, không nhất thiết nhà văn phải trả lời câu hỏi. Nhà văn có thể chỉ là bác sĩ gọi ra bệnh của bệnh nhân. Điều mà nhân loại thiếu là những người biết đặt ra câu hỏi. Tìm được câu hỏi, tôi tin chắc rằng tự người đọc sẽ tìm được câu trả lời. Có phải vì vậy mà Sêkhôp chủ trương “nói thật, nói thẳng với mọi người”. Hãy nhìn lại mình, hãy xem chúng ta đang “sống tồi sống tẻ như thế nào” và chỉ cần có vậy bởi ông tin chắc rằng “khi đã thấu hiểu thế nào họ cũng phải tạo cho mình một cuộc sống khác tốt hơn?”.

Ý kiến của Bêlinxki đã đặt ra yêu cầu hết sức đúng đắn, cần thiết, quan trọng với người cầm bút: ấy là anh phải có cái tâm trước cuộc sống, con người. Đó cũng chính là bài học đối với những nghệ sỹ. Muốn có được tác phẩm sống mãi với thời gian, anh phải sống sâu sắc với cuộc đời, nói như giáo sư Đặng Thai Mai phải biết “sâu sắc cảm thấy mọi nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những lo âu, bực bội, tủi hổ và cả những ước mong tha thiết nhất của loài người”. Để viết nên tác phẩm, nhà văn phải “sống phải tìm tòi, phải yêu rất nhiều và phải chịu nhiều đau khổ” (Gioóc Giơ - Xăng). Và lịch sử văn học, thực chất chính là lịch sử của những tư tưởng vĩ đại của con người nghệ sỹ.

Tìm hiểu ý kiến của Bêlinxki, tôi càng thấm thía quy luật đào thải nghiệt ngã nhưng công bằng của thời gian, của công chúng. Có những tác phẩm dù trung thành với nguyên tắc phản ánh hiện thực, thậm chí hết sức hiện thực nhưng không thể hiện tư tưởng, tình cảm mãnh liệt, sâu sắc nào. Những tác phẩm ấy chỉ là bức ảnh vô hồn, thậm chí rơi vào tự nhiên chủ nghĩa bởi tình cảm, tư tưởng miệt thị con người, bi quan với cuộc đời. Lại có những tác phẩm chỉ đắm chìm trong cảm xúc hay mê mải chạy theo những tư tưởng kì vĩ. Chỉ những tác phẩm nào có sự quyện hoà cao độ giữa tư tưởng đúng đắn, sâu sắc với tình cảm chân thành mãnh liệt của người cầm bút mới có được giá trị và sức sống bền lâu.

Thế nhưng văn chương trước hết vẫn là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật. Nói đến nghệ thuật là nói đến cái hay, cái đẹp của những hình thức nghệ thuật. Tư tưởng, tình cảm có sâu sắc, mãnh liệt đến mấy mà không được chuyển tải qua hệ thống phương tiện nghệ thuật giàu giá trị thẩm mỹ thì không thể thức tỉnh, lay động tâm hồn người đọc. Gôgôn đã rất khổ tâm khi “những tình cảm rất quý có thể trở nên tầm thường khi diễn đạt ra thành lời”. Người nghệ sỹ vĩ đại không chỉ có cái tâm mà còn phải có cái tài để cái tâm được toả sáng lung linh.

“ Rồi nhân dân sẽ còn trìu mến tôi mãi mãi vì tôi đã dùng thơ đánh thức những tình cảm tốt lành, vì trong thế kỉ tàn khốc của chúng ta, tôi ngợi ca tự do và lòng thương những kẻ khốn cùng”. Bất cứ nghệ sĩ nào đã sống sâu sắc với cuộc đời, đã đau đớn, mừng vui với những vui buồn, sướng khổ của loài người đều có quyền tự hào và tin tưởng như Puskin về sự tồn tại vĩnh hằng của những tác phẩm nghệ thuật chân chính của mình.
chúc bạn học tốt môn văn này:p:p:p
các hạ đến từ đâu vậy
 

baochau1112

Cựu Phụ trách nhóm Văn | CN CLB Khu vườn ngôn từ
Thành viên
6 Tháng bảy 2015
6,549
13,982
1,304
Quảng Nam
Vi vu tứ phương
Nhà phê bình Nga Bêlinxki viết: "Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó." Bằng sự hiểu biết về văn học, anh/chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.
Làm dàn bài chi tiết giúp em với ạ, cảm ơn nhiều ạ @baochau1112
Chị cho em cái dàn ý nhé :D
I. Mở bài:
- Giới thiệu đôi nét về nhà phê bình Bêlinxki
- Dẫn dắt nhận định "Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó."

II. Thân bài:
- Giải thích nhận định của Bê-lin-xki:
+ Tác phẩm nghệ thuật nói chung và tác phẩm văn học nói riêng chỉ tồn tại mãi cùng thời gian là tác phẩm nghệ thuật chân chính, đích thực.
=> Đó là tiếng nói tình cảm và lí trí của con người, là tiếng thét, là giọt nước mắt, tiếng kêu ai oán, là những câu hỏi, câu trả lời ,... quyện vào cuộc sống và con người, quyện lấy thiên nhiên hồn thiêng sông núi.

- Ý nghĩa của các tác phẩm văn học chân chính:
+ Tác phẩm văn chương vừa tái hiện cuộc sống, giúp người đọc nhận thức cuộc sống muôn màu, hiểu cuộc sống, có thái độ đúng và những quan niệm sống đúng, sống đẹp; hiểu cái đẹp và cái cao cả.
+ Văn học đích thực miêu tả không chỉ là sự miêu tả, sao chép như chụp lại nguyên xi hiện thực, không tái hiện cuộc sống một cách đơn điệu, khô cứng hay tô vẽ lòe loẹt.
+ Văn chương chỉ tồn tại lâu bền trong lòng độc giả khi nó phán ánh được những vấn đề lớn lao của thời đại, nêu được những giá trị tư tưởng lớn lao, động tới chỗ cao sâu nhất trong tâm tư con người.
+ Ngoài miêu tả cuộc sống, tác phẩm nghệ thuật cần thể hiện đúng những giá trị đích thực của nó.
=> Tác phẩm văn học chân chính hướng đến và chia sẻ, đồng cảm với những khổ đau hay ca tụng hân hoan những niềm vui lạc quan và hạnh phúc con người; nó đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi lớn của cuộc sống con người.

- Một người nghệ sĩ chân chính:
+ Người nghệ sĩ chân chính cần biết cảm thông sâu sắc với số phận của con người, biết xúc động trước những kiếp đời lầm than, đau khổ; biết nêu lên những giá trị nhân sinh, biết căm thù cái xấu, cái ác và trân trọng cái đẹp, cái cao thượng.
+ Người nghệ sĩ chân chính dám đối mặt với hiện thực, đương đầu với điều phi lý, bất công để đem công bằng, hạnh phúc về cho nhân loại.

- Bình luận nhận định:
+ Văn chương trước hết là cuộc đời, phản ánh cuộc đời qua lăng kính chủ quan của nhà văn.
+ Nhà văn không thể thoát ly, mơ tưởng lãng mạn, mà người cần có thái độ rõ ràng chân thực khi miêu tả những sự thật của đời sống xung quanh. + Nhà văn có trách nhiệm, yêu nghề, yêu bạn đọc thường quan tâm thể hiện cho được những vấn đề
lớn của cuộc sống: tình thương, sự bắc ái, công bình và giúp người gần người hơn.
(Ở đoạn này em có thể lấy dẫn chứng từ các tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, hoặc bất kì tác phẩm nào của các nhà văn. Nên là các tác phẩm thiên hướng về hiện thực vì điều đó làm nổi bật những luận cứ chị đã hướng trong dàn ý này :D)
+ Văn học chính là tiếng nói tâm hồn tri âm tri kỷ. Nhà văn trước hết rung cảm và xúc động trước cảnh huống, trước một sự thật hoặc một phần sự thật để từ đó ghi lại, làm sống lại trong độc giả những cảm xúc và trải nghiệm đó.
+ Văn học không chỉ phản ánh hiện thực, phản ánh những đau khổ mà còn ngợi ca những vẻ đẹp, những niềm vui hạnh phúc của cuộc sống, của con người.
+ Văn chương chỉ sống mãi được khi nó đặt ra và trả lời những câu hỏi của con người.
=> Văn học thực hiện sứ mệnh cao cả góp phần làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, trong sáng hơn, giúp người gần người hơn.

III. Kết bài:
- Mối liên hệ của nghệ thuật lẫn tư tưởng nhân văn trong mỗi tác phẩm
- Nhận định của nhà văn là kim chỉ nam mà mỗi người cầm bút phải nắm rõ
 
Top Bottom