Văn [ Văn 11 ] Lập dàn ý

yasuo0099

Học sinh chăm học
Thành viên
5 Tháng sáu 2016
115
104
131
Hà Nội
...
  • Like
Reactions: baochau1112

baochau1112

Cựu Phụ trách nhóm Văn | CN CLB Khu vườn ngôn từ
Thành viên
6 Tháng bảy 2015
6,549
13,982
1,304
Quảng Nam
Vi vu tứ phương
Mong các bạn giúp đỡ....
Lập dàn ý phân tích các văn bản sau: Vội Vàng, Tràng Giang, Đây Thôn Vĩ Dạ, Chiều Tối, Từ Ấy...
Các bạn làm đc bài nào thì up bài ấy nha...Cảm ơn nhiều.
Mk giúp cậu bài Vội vàng nha ^^
1. Mở bài
Bài thơ Vội vàng có một mạch lập luận: Sự sống như thể yến tiệc trần gian, thiên đường trên mặt đất dâng hiến con người; ấy thế mà thời gian chảy ưôi đả tước đoạt, huỷ hoại chúng; cho nên hãy mau tận hưởng chúng kẻo mất sạch không còn cơ hội nào nữa.
2. Thân bài
a) Sự sống ban tặng chư con người
- Khổ thơ đầu tiên diễn tả những ý tưởng của nhân vật “tôi” trữ tình: tắt nắng và buộc gió, như thể đoạt quyền của tạo hoá; muốn níu giữ lại hương sấc của Mùa xuân.
- Câu thơ đẹp nhất nằm trong khổ thơ thứ hai: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Đây là cách biểu đạt của Thơ mới : lấy con người làm chuẩn mực để đo thiên nhiên, vẻ đẹp của tháng giêng - mùa xuân - tuổi trẻ.
- Ý tưởng đoạt lấy sự sống, chạy đua với thời gian đã xuất hiện ở ngay những câu thơ:
"Tôi sung sướng.
Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
b) Thời gian đã huỷ hoại sự sống
- Thời gian cướp đi tuổi trẻ, bởi “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”.
- Thời gian đem đến chia lìa “rớm vị chia phôi”, “than thầm tiễn biệt”. Sự sống bị chia cắt phũ phàng.
- Thời gian đem đến tàn phai: cơn gió, lá biếc, tiếng chim - những vẻ đẹp mùa xuân cũng câm lặng, tàn phai theo năm tháng.
Nhà thơ đang sống trong bàn tiệc xuân mà đã lo sợ nghĩ rằng rồi tất cả sẽ bị bàn tay thô bạo của thời gian cướp đoạt hết. Các hình ảnh thơ thật đẹp, càng nuôi tiếc nên càng đẹp:
Cơn gió xinh thì thào trong lú biếc Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi
c) Hãy tận hưởng sự sống
- Chủ thể trữ tình đổi cách xưng hô: từ Tôi sang Ta. Do muôn đoạt lấy sự sống trong mọi chiều (mây, gió, non nước, cây, cỏ, cánh bướm, tình yêu), nên cái Tôi bỗng trở nên chật chội, hạn hẹp, không tương ứng. Chủ thể phải là Ta, nghĩa là cái Tôi được mở rộng, vụt lớn, trở thành cái Ta kiêu hãnh, lự tin, được quyền đòi hỏi, được quyền khẳng định một cách dõng dạc.
- Các câu thơ điệp lại mô hình câu điệp lại đại từ Ta, và, cho, đã tạo nên nhịp điệu hối hả, gấp gáp.
- Câu thơ Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi vẫn thông nhất trong một điểm cách tân: lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp. Câu thơ khoẻ khoắn, T-n trề sinh lực tuổi irẻ, tham lam, vồ vập. cả khổ thơ dồn dập, tràn đầy nhiệt mg như thể cuộc quyết đâ u giữa con người tuổi trẻ này với Thời gian Tạo hoá.
3. Kết bài
Cái lí của nhà thơ là ở chỗ: Tuổi trẻ được quyền sống thật, sống hết mình với khát vọng của mình, đối lập và tuyên chiến với những gì phẳng lặng và tù túng. Đó là tiếng nói của một lâm hồn gắn bó với cuộc đời, yêu cuộc đời, yêu sự sông đến cuồng nhiệt.
 
  • Like
Reactions: yasuo0099

trunghieuak53

Cựu Mod Vật lí
Thành viên
Mod xuất sắc nhất 2017
27 Tháng hai 2017
2,098
5,061
804
Ninh Bình
phân tích các văn bản sau: Vội Vàng,
Mạch cảm xúc được chuyển tiếp sang một bức tranh tình yêu tràn đầy màu sắc:
Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình” khát yêu, thèm yêu, muốn được yêu đến say mê và cuồng nhiệt. Người đọc vẫn bắt gặp những vẫn thơ với nhịp điệu tha thiết, vội vàng, gấp gáp như một nỗi sợ thời gian trôi, sợ tình yêu đi mất và sợ tuổi trẻ trôi qua. Bài thơ “Vội vàng” là tiếng nói con tim của một kẻ đang say mê trong tình yêu với những cung bậc cảm xúc khác nhau.

Ngay từ đầu bài thơ cái “tôi” Xuân Diệu được bộc lộ rất rõ ràng và đầy mãnh liệt:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt nữa

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi

Những khát khao “phi lí” ấy lại tạo nên một cái tôi cực kỳ ấn tượng và lôi cuốn. Tác giả không dùng đại từ “ta” mà lại dùng “tôi” như để khẳng định mình, khẳng định khát khao cháy bỏng “đoạt” lấy thiên nhiên đất trời. Xuân Diệu muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên, những vận động của đất trời. Bởi ông hiểu rằng, sắc thắm nào rồi cũng nhạt, hương nồng nào rồi cũng phai. Xuân Diệu không muốn những vẻ đẹp tự nhiên của đất trời mất đi. Ông muốn lưu giữ nó bên mình để được thưởng thức một cách trọn vẹn, mãi mãi. Thực sự đọc những vần thơ đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ và tình yêu như thế này, người đọc dường như cũng đang say và đang khát khao cùng tác giả.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật


Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa

Với ngôn từ trau chuốt, mượt mà, Xuân Diệu dường như đang thổi hồn vào từng câu, từng chữ của đoạn thơ khiến nó trở nên sinh động và hấp dẫn. Bức tranh thiên nhiên tươi vui, đầy màu sắc đang tràn ra qua từng câu thơ. Điệp từ “này đây” bộc lộ niềm vui tơi phơi phới, hân hoan của tác giả khi được đắm say trong khung cảnh tuyệt vời như thế này. Lòng tràn đầy rạo rực và tin yêu. Có lẽ mùa xuân trong thơ Xuân Diệu có sự phá cách khá độc đáo khi tác giả nhìn mùa xuân là “tuần tháng mật” ngào ngào và mê đắm. Mùa xuân đẹp là thế, thiên nhiên rạo rực như vậy nhưng bỗng nhiên Xuân Diệu chuyển đổi cảm xúc và giọng thơ như nhanh và vội hơn:

Xuân đang đến nghĩa là xuân sẽ qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Đến đây người đọc nhận ra một ý niệm thời gian rất thi vị của Xuân Diệu, và đồng nghĩa với việc chính bản thân ông đang lo lắng khi thời gian trôi đi. Ông bắt đầu sợ, cuống cuồng vì mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu rồi cũng qua đi. Ý niệm về thời gian đối với Xuân Diệu là một chiều, một đi không trở lại. CHính sự khắc nghiệt này mới khiến nhà thơ thấy mình thật bé nhỏ:

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Câu thơ này dường như càng khắc nghiệt hơn vì tác giả tự “vận” mình vào mùa xuân. Bởi rằng với ông đời người đẹp nhất là tuổi trẻ, khi mùa xuân tuổi trẻ qua đi thì coi như hết.

Lòng tôi rộng mà lượng trời cứ chất

Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian

Con người vẫn luôn khát khao sống, khát khao yêu nồng cháy nhưng thời gian có hạn. Vạn vật chuyển biến, tuổi trẻ cứ vơi cạn đi theo năm tháng. Tác giả nuối tiếc, tiếc vì không được sống thêm không được nhiệt huyết hơn nữa. Có lẽ Xuân Diệu là một nhà thơ có cái nhìn chân thực và đầy mới mẻ về tuổi trẻ của con người.

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

Đến đây dường như người đọc càng nhận ra triết lý về thời gian sâu sắc. Mùa xuân rồi sẽ trở lại, đất trời lại rạo rực và đẹp đẽ như thế nhưng tuổi trẻ của con người lại vĩnh viên trôi qua không trở lại. Đây là điều tàn nhẫn nhất mà Xuân Diệu không muốn đối mặt.

Sang khổ thơ tiếp theo, giọng thơ trở nên gấp gáp, vội vàng, hay chính tác giả đang quá gấp, quá vội, quá sợ thời gian trôi đi:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn chiều

Nỗi mong muốn, khát khao của tác giả được đẩy đến đỉnh điểm khi trời đất chuyển giao từng ngày và tuổi trẻ cạn vơi dần. Điệp từ “ta muốn” đã “bật” lên nỗi khát khao cháy bóng, muốn sống, muốn yêu, muốn đi ngược với tự nhiên và tạo hóa để đoạt lấy tuổi trẻ. Và nỗi khát khao ấy đã dồn nén ở câu thơ cuối:

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi

Khát khao đã không còn là khát khao nữa mà là muốn chiếm đoạt, muốn giữ lấy cho riêng mình mùa xuân của tuổi trẻ.

Thật vậy bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu với cách dùng từ ngữ trau chuốt, hình ảnh mượt mà cùng giọng thơ gấp gáp, vội vàng đã hình thái ý niệm thời gian sâu sắc đối với người đọc. Tuổi trẻ và tình yêu là những thứ mà chúng ta cần phải gìn giữ, chứ không phải để nó trôi qua vô nghĩa.
 
  • Like
Reactions: yasuo0099

trunghieuak53

Cựu Mod Vật lí
Thành viên
Mod xuất sắc nhất 2017
27 Tháng hai 2017
2,098
5,061
804
Ninh Bình
dàn ý phân tích các văn bản sau: Tràng Giang,
1.Mở bài: Trong phần mở đề, cần khẳng định Huy Cận (1919-2005) là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào “Thơ Mới” (1932-1945), bài thơ Tràng giang trong tập Lửa thiêng là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Huy Cận. Bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.

2.Thân bài: Phân tích bài thơ để làm rõ vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại
a)Trước hết, nhan đề bài thơ Tràng giang gợi lên không khí những bài thơ cổ: một dòng sông dài rộng, những khoảng cách xa xôi, những chia li cách trở (chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương. . .). Tràng giang còn gợi tên con sông Trường giang, nơi Thôi Hiệu viết Hoàng Hạc lâu, Liù Bạch viết Hoàng Hạc lâu, tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng. . .
+ Huy Cận có thể viết Trường giang nhưng phải viết Tràng giang vì vần “ang” liên tiếp hai lần nghe buồn và mênh mang hơn.

+ Trước khi vào phần chính, Huy Cận còn viết một câu “đề từ”:

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

Không chỉ có trời rộng và sông dài của thơ cổ, Huy Cận còn đưa vào đó nổi bâng khuâng của thời đại : trời rộng nhớ sông dài.

+ Thật ra thì con sông trong bài thơ Huy Cận không phải là Trường Giang của Trung Quốc trong thơ xưa, mà chính là con sông Hồng của Việt Nam. Bên dòng sông ấy, nơi một bến đò có tên là bến Chèm, Huy Cận đã cảm xúc mà viết nên bài Tràng giang của mình.

b)Phân tích bài thơ qua từng khổ thơ để làm rõ vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Bốn khổ thơ như bốn bức tranh cổ, nhưng ẩn chứa trong đó nỗi cô đơn của con người hiện đại.

Bức tranh thứ nhất:
- Những hình ảnh cổ điển: một dòng tràng giang phẳng lặng, một con thuyền lặng lẽ trôi, một cành củi khô nhỏ bé.

- Cảm giác buồn của con người hiện đại:

+ Sóng gợn tràng giang nhưng lại buồn điệp điệp (điệp từ điệp điệp – từ cái hữu hình của sóng trên tràng giang mà nhận ra cái vô hình là nỗi buồn của con người).

+ Thuyền và nước bên nhau nhưng giữa thuyền và nước là sự xa cách hững hờ. Thuyền và nước theo hai chiều đối nghịch (về – lại), nổi lên giữa cuộc chia li là sầu trăm ngả.
+ Cành củi bé nhỏ giữa tràng giang mênh mông, nhà thơ còn cố tình làm rõ: củi – một cành – khô. Đã thế, như có điều vô lí: một cành củi – lạc mấy dòng. Cành củi ở đây không chỉ là cành củi mà còn là cảm nhận về thận phận bé nhỏ của con người.

Bức tranh thứ hai:
- Bức tranh phía bên kia tràng giang với những nét đơn sơ: mấy cồn đất nhỏ thưa thớt, những làn gió nhẹ thổi qua.

- Bức tranh vẫn tiếp tục gợi lên nỗi buồn và cô đơn, bởi vì những cồn đất chỉ là lơ thơ cồn nhỏ, gió chỉ là gió đìu hiu. Câu thơ gợi một hình ảnh trong Chinh phụ ngâm :

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò

- Một chút âm thanh mơ hồ: từ đâu gợi cảm giác mơ hồ, âm thanh lại rất nhỏ: làng xa – vãn chợ chiều.

- Cảm nhận về nỗi buồn không chỉ trong không gian mà cả trong thời gian. Đây là cảm nhận chỉ con người thời hiện đại mới có. Thời gian ngả sang chiều, giữa tràng giang và bầu trời càng cách xa, theo hai chiều đối nghịch: nắng xuống – trời lên. Khoảng xa cách càng trở nên đặc biệt với cái nhìn của nhà thơ: trời lên sâu chót vót. Trời không chỉ trên đầu mà còn là trời soi bóng xuống trường giang, vũ trụ mở ra vô tận.

- Thân phận bé nhỏ và cô đơn của con người càng thấm thía trong sự so sánh: sông dài, trời rộng – bến cô liêu. Sông dài trời rộng là không gian ba chiều, bến cô liêu là cái bến Chèm, nơi nhà thơ đang ngồi, như cũng chính là thân phận con người.

Bức tranh thứ ba:
- Những hình ảnh quen thuộc: những cánh bèo mặt nước, những bãi bờ với những cây cỏ tiếp nối bên tràng giang đến tận chân trời.

- Hình ảnh của thân phận con người: bèo dạt về đâu (lạc loài, trôi nổi). Cảm giác cô đơn khiến nhà thơ muốn tìm đến một sự gần gũi, một sự kết nối, rồi để thấm thía một sự đơn độc trọn vẹn. Hai từ “không” trong hai câu thơ như hai cái lắc đầu buồn bã. Chỉ có con người đơn độc giữa không gian vô tình, vô cảm.

Bức tranh thứ tư khép lại bộ tranh cổ: - Một không gian quen thuộc, đúng là hình ảnh trong một bức tranh cổ : một rặng núi xa, những đám mây bạc từ mặt đất chầm chậm dâng cao.

- Giữa bầu trời có một cánh chim nhỏ nghiêng xuống, tạo nên một bức tranh lạ. Đây không còn là bức tranh cổ: chỉ có một cánh chim đơn độc, không phải một đàn chim vẫn bay trong những bức tranh chiều quen thuộc. Đặc biệt cảm giác của nhà thơ: chim nghiêng cánh nhỏ – bóng chiều sa. Bóng chiều như đổ sập xuống theo cánh chim nhỏ.

- Không nhìn vào không gian nữa, nhà thơ nhìn vào chính tâm hồn mình. Nhà thơ gọi tâm hồn mình là lòng quê, gợi nhớ đến “hồn quê”â của Thúy Kiều nơi đất khách :
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa

Nhà thơ còn cảm nhận lòng quê dợn dợn. Dùng điệp từ dợn dợn để nói về sóng trên tràng giang mà nói về tâm trạng của chính mình : một cảm giác ngất ngây choáng váng.

- Cuối cùng đọng lại từ tràng giang là: nhớ nhà. Nói không khói hoàng hôn, nhà thơ muốn nhắc đến hai câu kết trong bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
(Bản dịch của Tản Đà)

Nhắc đến nỗi nhớ nhà của nhà thơ xưa, ý Huy Cận muốn nhấn mạnh : so với nhà thơ xưa, Huy Cận bây giờ nhớ nhà hơn nhiều, Huy Cận buồn hơn nhiều, cô đơn hơn nhiều.

3. Phần kết luận, ý cần làm rõ:
- Tràng giang của Huy Cận đẹp vì những hình ảnh, những từ ngữ đẹp như thơ cổ, cho người đọc thưởng thức những bức tranh quen thuộc của phong cảnh sông nước quê hương.

- Tràng giang của Huy Cận thực sự là một bài thơ của thơ hiện đại, mang cảm nhận về nỗi buồn và nỗi cô đơn của con người hiện đại, nhất là con người trong khoảng những năm ba mươi của thế kỉ trước.
 
  • Like
Reactions: yasuo0099

yasuo0099

Học sinh chăm học
Thành viên
5 Tháng sáu 2016
115
104
131
Hà Nội
...
Mk giúp cậu bài Vội vàng nha ^^
1. Mở bài
Bài thơ Vội vàng có một mạch lập luận: Sự sống như thể yến tiệc trần gian, thiên đường trên mặt đất dâng hiến con người; ấy thế mà thời gian chảy ưôi đả tước đoạt, huỷ hoại chúng; cho nên hãy mau tận hưởng chúng kẻo mất sạch không còn cơ hội nào nữa.
2. Thân bài
a) Sự sống ban tặng chư con người
- Khổ thơ đầu tiên diễn tả những ý tưởng của nhân vật “tôi” trữ tình: tắt nắng và buộc gió, như thể đoạt quyền của tạo hoá; muốn níu giữ lại hương sấc của Mùa xuân.
- Câu thơ đẹp nhất nằm trong khổ thơ thứ hai: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Đây là cách biểu đạt của Thơ mới : lấy con người làm chuẩn mực để đo thiên nhiên, vẻ đẹp của tháng giêng - mùa xuân - tuổi trẻ.
- Ý tưởng đoạt lấy sự sống, chạy đua với thời gian đã xuất hiện ở ngay những câu thơ:
"Tôi sung sướng.
Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
b) Thời gian đã huỷ hoại sự sống
- Thời gian cướp đi tuổi trẻ, bởi “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”.
- Thời gian đem đến chia lìa “rớm vị chia phôi”, “than thầm tiễn biệt”. Sự sống bị chia cắt phũ phàng.
- Thời gian đem đến tàn phai: cơn gió, lá biếc, tiếng chim - những vẻ đẹp mùa xuân cũng câm lặng, tàn phai theo năm tháng.
Nhà thơ đang sống trong bàn tiệc xuân mà đã lo sợ nghĩ rằng rồi tất cả sẽ bị bàn tay thô bạo của thời gian cướp đoạt hết. Các hình ảnh thơ thật đẹp, càng nuôi tiếc nên càng đẹp:
Cơn gió xinh thì thào trong lú biếc Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi
c) Hãy tận hưởng sự sống
- Chủ thể trữ tình đổi cách xưng hô: từ Tôi sang Ta. Do muôn đoạt lấy sự sống trong mọi chiều (mây, gió, non nước, cây, cỏ, cánh bướm, tình yêu), nên cái Tôi bỗng trở nên chật chội, hạn hẹp, không tương ứng. Chủ thể phải là Ta, nghĩa là cái Tôi được mở rộng, vụt lớn, trở thành cái Ta kiêu hãnh, lự tin, được quyền đòi hỏi, được quyền khẳng định một cách dõng dạc.
- Các câu thơ điệp lại mô hình câu điệp lại đại từ Ta, và, cho, đã tạo nên nhịp điệu hối hả, gấp gáp.
- Câu thơ Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi vẫn thông nhất trong một điểm cách tân: lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp. Câu thơ khoẻ khoắn, T-n trề sinh lực tuổi irẻ, tham lam, vồ vập. cả khổ thơ dồn dập, tràn đầy nhiệt mg như thể cuộc quyết đâ u giữa con người tuổi trẻ này với Thời gian Tạo hoá.
3. Kết bài
Cái lí của nhà thơ là ở chỗ: Tuổi trẻ được quyền sống thật, sống hết mình với khát vọng của mình, đối lập và tuyên chiến với những gì phẳng lặng và tù túng. Đó là tiếng nói của một lâm hồn gắn bó với cuộc đời, yêu cuộc đời, yêu sự sông đến cuồng nhiệt.
Cho mk hỏi nhỏ...là bài này có trên mạng hay văn mẫu gì ko??? cô giáo mk bắt làm rồi nộp nhưng ko đc chép văn mẫu...nếu chép là bị điểm kém luôn đó.
 
  • Like
Reactions: baochau1112

trunghieuak53

Cựu Mod Vật lí
Thành viên
Mod xuất sắc nhất 2017
27 Tháng hai 2017
2,098
5,061
804
Ninh Bình
Lập dàn ý phân tích các văn bản sau: , Đây Thôn Vĩ Dạ
1. Mở bài

Đây thôn Vĩ Dạ chính là một tình yêu tuyệt vọng đối với cuộc sống. Điều này đã trở thành ngọn nguồn cảm xúc làm nên bài thơ. Cuộc sống trong cái nhìn của Hàn Mặc Tử chính là sự sống nói chung, sự sống thuộc về cảnh sắc thiên nhiên, con người tình yêu đôi lứa.

Vào thời điểm mà Hàn Mặc Tử đang trải qua cơn bạo bệnh, thì như một nghịch lí càng tiến về phía cõi chết, nhà thơ càng yêu cõi sống, yêu một cách cuồng si, đau đớn và tuyệt vọng. Đó chính là một tình yêu lớn đối với sự sống bất tử.

2. Thần bài

1) Bức tranh thiên nhiên và con người thôn Vĩ

Câu thơ mở đầu là lời nhà thơ tự hỏi mình, vừa giống như một lời mời của ai đó, vừa như thể thầm trách chính mình. Nhưng ý tứ chính của câu thư thể hiện một niềm khao khát muốn được về thăm thôn Vĩ. Trong cảm xúc của một tình yêu đối với sự sống, thôn Vĩ Dạ được hiện ra thật trong trẻo, thanh khiết. Hình ảnh đậm nhất chính là mảnh vườn của một ngôi nhà thôn Vĩ. Ở đó có hàng cau đang được tắm trong nắng sớm tinh khôi. Câu thơ mang tính tạo hình, rất động. Mảnh vườn được ví với một viên ngọc lớn với hai nét vẽ “mướt quá "và “xanh”- vẻ thanh sạch, và ngời lên một màu xanh mát khi mà ánh nắng của buổi sớm mai toả xuống.

Một nét vẽ nữa là hình ảnh con người thấp thoáng sau rèm trúc. Câu thơ này tồn tại hai cách hiểu: đó là khuôn mặt của những người dân thôn Vĩ hiền lành, trung hậu, gần gũi. Hay đó là khuôn mặt của chính nhà thơ...

Có thể bức tranh thiên nhiên và con người thôn Vĩ này sẽ chia lìa tan tác. Nó không hề là cái Đẹp bất biến, vĩnh hằng. Nó bị xé ra thành những thực thể mà đáng lí phải quấn quýt trong nhau, tồn tại bởi vì nhau. Gió và mây, dòng nước và hoa bắp trên triền sông, thuyền và bến, thuyền với trăng. Sông trăng là một hình ảnh sáng tạo. Từ kịp chứa đầy tâm trạng, lại được đặt trong một câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?", hẳn là một tâm trạng lo âu, mong ngóng, phập phồng niềm hi vọng, một niềm mong nhuốm màu tuyệt vọng, cũng tại bởi yêu quá mà ra thế, yêu đến thắt lòng.

2) Và khao khát một tình yêu

- Linh hồn của bài thơ này phải là tình yêu, mối tình thầm kín, tha thiết và tuyệt vọng của nhà thơ đối với người con gái thôn Vĩ Dạ, tức là một “ai”đó được gọi đến ba lần: Vườn ai, thuyền ai, ai biết tình ai và chỉ một lần duy nhất được gọi bằng em (áo em). Cách gọi phiếm chỉ bằng đại từ “ai”thể hiện một thái độ dè dặt, kín đáo có phần mặc cảm, tự trọng của nhà thơ.

- “Mơ khách đường xa” diễn tả cái ý mơ về, ước mong về một đối tượng được gọi là “khách đường xa kia”, tức là cô gái ấy. Các câu thơ tiếp theo thể hiện trạng thái mơ, là cái ảo - mơ nỗi càng cháy bỏng thì hình ảnh trong mơ ước càng có khuynh hướng trở thành ám ảnh: “áo em trắng quá nhìn không ra”.

- Câu thơ “ở đây sương khói mờ nhân ảnh” đã mách bảo cho ta một nơi chốn: ở đây, tức là ở trong này, nơi Hàn Mặc Tử đang bị bệnh tật giam cầm đang rất xa cách với không gian ngoài kia, tức nơi Vĩ Dạ và cô gái ấy. Mặc cảm chia lìa lại một lần nữa làm tình làm tội tâm hồn thi sĩ: “Ai biết tình ai có đậm đà?". Câu thơ thật ai oán.

3. Kết bài

Cũng như làng cảnh, sông nước, vầng trăng, con thuyền, bến bãi kia không bao giờ thuộc về thi sĩ, giữa thi sĩ và chúng là một khoảng cách tuyệt vọng, thì với cô gái ấy cũng y như thế. Rơi vào tuyệt vọng nhưng tình yêu không chết ngược lại tình yêu càng trở nên da diết, đau đớn... Một người yêu sự sống, khát sống như thế mà sự sống trong anh đang dần tắt. Vì là tiếng của tình yêu tuyệt vọng, nên Đây thôn Vĩ Dạ mang âm điệu nghẹn ngào, khắc khoải.
 
  • Like
Reactions: yasuo0099

baochau1112

Cựu Phụ trách nhóm Văn | CN CLB Khu vườn ngôn từ
Thành viên
6 Tháng bảy 2015
6,549
13,982
1,304
Quảng Nam
Vi vu tứ phương
Cho mk hỏi nhỏ...là bài này có trên mạng hay văn mẫu gì ko??? cô giáo mk bắt làm rồi nộp nhưng ko đc chép văn mẫu...nếu chép là bị điểm kém luôn đó.
Dĩ nhiên là trên mạng có đầy. Nhưng để mk chế lại cho cô ko nhận ra nhé :D :D
Tí mk post lên cho :D
 
  • Like
Reactions: yasuo0099
Top Bottom