chiếc nón lá

D

dapsieuchuan

Last edited by a moderator:
N

nguyenbahiep1

Nón lá có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khỏang 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng cho người con gái Việt Nam và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương,. Nón lá ở Việt Nam có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử:

Nón dấu : nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa
Nón gò găng hay nón ngựa: sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi ngựa
Nón rơm : Nón làm bằng cộng rơm ép cứng
Nón quai thao : người miền Bắc thường dùng trong lễ hội
Nón Gõ : Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa
Nón lá Sen: cũng gọi là nón liên diệp
Nón thúng: thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng.
Nón khua :Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa
Nón chảo : thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thái Lan còn dùng
Nón cạp: Nón xuân lôi đại dành cho người có tang
Nón bài thơ : ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ v.
……..

nguồn google
 
D

dapsieuchuan

Nón lá có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khỏang 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng cho người con gái Việt Nam và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương,. Nón lá ở Việt Nam có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử:

Nón dấu : nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa
Nón gò găng hay nón ngựa: sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi ngựa
Nón rơm : Nón làm bằng cộng rơm ép cứng
Nón quai thao : người miền Bắc thường dùng trong lễ hội
Nón Gõ : Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa
Nón lá Sen: cũng gọi là nón liên diệp
Nón thúng: thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng.
Nón khua :Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa
Nón chảo : thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thái Lan còn dùng
Nón cạp: Nón xuân lôi đại dành cho người có tang
Nón bài thơ : ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ v.
……..

nguồn google
Bạn à cái tôi cần là cái mở bài nhưng bạn viết lấn xuống thân bài rồi chú ý mình đã viết là viết phần mở bài mà. bạn nghĩ lại kĩ rồi viết cho mình nha.
 
V

vitconxauxi_vodoi

Mở bài 1:

Trên thế giới, từ khắp bốn phương trời, từ nhiều nước trên thế giới, mỗi nơi lại có một kiểu nón, kiểu mũ khác nhau, nhưng có lẽ chiếc nón mang trong mình nhiều sắc thái bình dị và đoan trang yêu kiều, duyên dáng, đơn sơ thì không chiếc nón nào bằng chiếc nón Việt Nam.

Mở bài 2:

VN là một vùng nhiệt đới, nắng lắm mưa nhiều. Vì vậy chiếu nón đội đầu là vật không thể thiếu được để che nắng che mưa.

Mở bài 3:

Trong bài thơ Bài thơ đan nón, Nguyễn Khoa Điềm đã có những lời mời thật đáng yêu:

Sao anh không về thăm quê em,

Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên.
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón,
Mười sáu vành mười sáu trăng lên.

Những câu thơ thật đẹp, gợi nhắc đến một nét văn hoá độc đáo của Việt Nam: Chiếc nón lá.


Mở bài 4:

Trong đời sống của người Việt Nam tự bao đời, chiếc nón lá đã là người bạn thủy chung, gần gũi, gắn liền với sinh hoạt hằng ngày. Chiếc nón che nắng che mưa cho người nông dân lúc vất vả cấy cày trên đồng ruộng hay đi dưới trời nắng gắt. Dưới gốc đa làng, mấy bà đi chợ nghỉ chân, phe phảy chiếc nón thay quạt cho ráo mồ hôi, râm ran trò chuyện bên bát nước chè tươi. Chiếc nón lá là vật dụng truyền thống phổ biến trên khắp mọi miền đất nước, nổi bật là chiếc nón bài thơ xứ Huế!

Mở bài 5:

Nón lá là biểu tượng của con người Việt Nam, gắn liền với người mẹ ra đồng một nắng hai sương, gắn liền với người chị buôn bán gánh bưng.Nón lá còn là vật thể hiện tình yêu giữa đôi lứa.Nón thể hiện tâm linh của con người, gần gũi với mọi người nhưng mấy ai thấu hiểu được cội nguồn
 
Last edited by a moderator:
T

thongoc_97977

Chiếc nón lá từ lâu đã trở thành một biểu tượng truyền thống của người dân Việt Nam, gắn bó với người Việt như hình với bóng. Không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị... nón đều là bạn. Phải chăng vì thế mà người ta lấy chiếc nón làm một trong những biểu tượng đặc trưng cho người Việt Nam

Nguyên liệu làm nón không phức tạp. Chiếc nón được làm từ những vật liệu sẵn có ở khắp nơi trên đất nước ta: lá gồi, lá buông, lá cọ.., khung bằng tre, dây móc để liên kết. Tàu lá nón khi đem về vẫn còn xanh răn reo, được đem là bằng cách dùng một miếng sắt được đốt nóng, đặt lá lên dùng nắm giẻ vuốt cho phẳng. Lửa phải vừa độ, nếu nóng quá thì bị ròn, vàng cháy, nguội quá lá chỉ phẳng lúc đầu, sau lại răn như cũ. Người ta đốt diêm sinh hơ cho lá trắng ra, đồng thời tránh cho lá khỏi mốc.

Tre chọn ống dài vuốt nhọn, gác lên dàn bếp hong khói chống mối mọt, dùng làm vòng nón. Nhưng vẻ đẹp của chiếc nón chủ yếu nhờ vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ tạo nên. Người thợ khâu nón được ví như người thợ thêu. Vòng tre được đặt lên khuôn sẵn, lá xếp lên khuôn xong là đến công việc của người khâu. Những mũi kim khâu được ước lượng mà đều như đo. Những sợi móc dùng để khâu thường có độ dài, ngắn khác nhau. Muốn khâu cho liên tục thì gần hết sợi nọ phải nối tiếp sợi kia. Và cái tài của người thợ làm nón là các múi nối sợi móc được dấu kín, khiến khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy tăm tắp những mũi khâu mịn màng. Sợi móc len theo từng mũi kim qua 16 lớp vòng thì chiếc nón duyên dáng đã thành hình.


Các cô gái Việt Nam chăm chút chiếc nón như một vật trang sức, đôi khi là vật để trao đổi tâm tư tình cảm của riêng mình. Người ta gắn lên đỉnh của lòng nón một mảnh gương tròn nho nhỏ để các cô gái làm duyên kín đáo. Công phu nhất là vừa vẽ chìm dưới lớp lá nón những hoa văn vui mắt, hay những hình ảnh bụi tre, đồng lúa, những câu thơ trữ tình, phải soi lên nắng mới thấy được gọi là nón bài thơ.

Chiếc nón Việt Nam không chỉ được làm ra để che mưa, che nắng, nó còn được dùng thay quạt trong những trưa hè nóng bức, làm cơi đựng trầu khi gặp bạn, làm quà tặng, vật kỷ niệm cho nhau. Nhưng công dụng của nó không dừng lại ở đấy, nó đã trở thành một phần cuộc sống của người Việt Nam. Trên đường xa nắng gắt hay những phút nghỉ ngơi khi làm đồng, ngồi bên rặng tre người ta có thể dùng nón quạt cho ráo mồ hôi. Bên giếng nước trong, giữa cơn khát cháy cổ, nón có thể trở thành chiếc cốc vại khổng lồ bất đắc dĩ, hay có thể thay chiếc chậu vục nước mà áp mặt vào đó cho giải bớt nhiệt.
Chiếc nón đã gắn bó mật thiết với người Việt Nam nên chẳng thế mà khách nước ngoài khi kết thúc chuyến hành trình ở Việt Nam ai cũng muốn mang theo vài cái nón trong hành trang về nước.
 
D

dapsieuchuan

té ra cũng là vậy

Mở bài 1:

Trên thế giới, từ khắp bốn phương trời, từ nhiều nước trên thế giới, mỗi nơi lại có một kiểu nón, kiểu mũ khác nhau, nhưng có lẽ chiếc nón mang trong mình nhiều sắc thái bình dị và đoan trang yêu kiều, duyên dáng, đơn sơ thì không chiếc nón nào bằng chiếc nón Việt Nam.

Mở bài 2:

VN là một vùng nhiệt đới, nắng lắm mưa nhiều. Vì vậy chiếu nón đội đầu là vật không thể thiếu được để che nắng che mưa.

Mở bài 3:

Trong bài thơ Bài thơ đan nón, Nguyễn Khoa Điềm đã có những lời mời thật đáng yêu:

Sao anh không về thăm quê em,

Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên.
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón,
Mười sáu vành mười sáu trăng lên.

Những câu thơ thật đẹp, gợi nhắc đến một nét văn hoá độc đáo của Việt Nam: Chiếc nón lá.


Mở bài 4:

Trong đời sống của người Việt Nam tự bao đời, chiếc nón lá đã là người bạn thủy chung, gần gũi, gắn liền với sinh hoạt hằng ngày. Chiếc nón che nắng che mưa cho người nông dân lúc vất vả cấy cày trên đồng ruộng hay đi dưới trời nắng gắt. Dưới gốc đa làng, mấy bà đi chợ nghỉ chân, phe phảy chiếc nón thay quạt cho ráo mồ hôi, râm ran trò chuyện bên bát nước chè tươi. Chiếc nón lá là vật dụng truyền thống phổ biến trên khắp mọi miền đất nước, nổi bật là chiếc nón bài thơ xứ Huế!

Mở bài 5:

Nón lá là biểu tượng của con người Việt Nam, gắn liền với người mẹ ra đồng một nắng hai sương, gắn liền với người chị buôn bán gánh bưng.Nón lá còn là vật thể hiện tình yêu giữa đôi lứa.Nón thể hiện tâm linh của con người, gần gũi với mọi người nhưng mấy ai thấu hiểu được cội nguồn
cảm ơn bạn nhiều, câu này cô giáo tớ cũng nói rồi nhưng tớ quên, dù gì mình cũng cảm ơn ban nhiều.
 
Top Bottom